-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
-
Phật Học Phổ Thông
-
--- o0o ---
-
-
Bài thứ sáu
-
-
VI. CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ
-
-
1. Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật
-
2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát
-
3. Phật dạy: Trong Viên Giác không có Bồ tát và chúng sanh
-
4. Phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác
-
5. Bồ tát ở vị Tam hiền tùy thuận tánh Viên giác
-
6. Bồ tát lên Thánh vị tùy thuận tánh Viên giác
-
7. Như Lai tùy thuận tánh Viên giác
-
8. Tóm tắt
-
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
-
-
CHƯƠNG THANH
TỊNH HUỆ
-
1. Ngài Thanh
Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật
- Khi ấy Ngài
THanh Tịnh Huệ Bồ tát ở trong Ðại Chúng đứng dậy, đi quanh bên
hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân
Phật và qùy thẳng bạch rằng:
- BẠch Ðức
Ðại Bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những
việc không thể nghĩ bàn. Những việc mà chúng con từ hồi nào
đến giờ, chưa từng thấy và chưa từng nghe, hômnay nhờ Phật
khai thị khiến cho c húng con được hiểu ngộ, thân tâm khoan
khoái vui mừng, đặng lợi ích rất lớn.
- Bạch đức
Thế Tôn, xin Ngài vì các vị bồ tát và tất cả chúng sanh trong
pháp hội này, chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào
để cho chúng sanh hiện tại và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy
đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy thuận vào tánh Viên Giác
của đức Pháp Vương (Phật).
- Ngài Thanh
Tịnh Huệ thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở
lui.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này, Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu
hành, từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao
nhiêu địa vị? Thứ lớp tu chứng sai khác thế nào? CẦu Phật chỉ
dạy, khiến cho chúng sanh được liễu ngộ, lần lượt nhập vào
tánh Viên Giác.
- Thanh Tịnh
Huệ là trí huệ thanh tịnh, tức là Bát nhã huệ. Từ chương này
đến 6 chương sau là chú trọng về việc hạ thủ công phu. Trong
khi tu hành bất luận giờ phút này, cũng phải dùng Bát nhã trí
để lãnh đạo; cho nên chương này Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên
thưa hỏi, là tiêu biểu cho Bát nhã huệ vậy.
-
- *********
-
2. Phật khen
Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát
- Khi đó đức
Thế Tôn khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và dạy rằng:
- -Này Thiện
nam, quý lắm! ông vì các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời
sau, thưa hỏi Như Lai về t hứ lớp tu chứng sai khác như thế
nào. Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy
- Khi đó Ngài
Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và Ðại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn
vâng nghe lời Phật chỉ giáo.
-
- ***********
-
3. Phật dạy:
Trong Viên giác không có Bồ tát và chúng sanh
- -Này Thiện
nam! Trong tánh Viên giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà
có đủ tất cả pháp. Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra đủ tất
cả, mà không thủ và không chứng. Thí như con mắt, thấy được
tất cả vật, mà không tự thấy mình. Nó vẫn bình đẳng mà không
tự thấy mình bình đẳng.
- Này Thiện
nam! Trong thật tướng (viên giác) không có Bồ tát và chúng
sanh. Tại sao thế? - Bởi Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn
hóa vậy. Khi các tướng huyễn hóa diệt rồi, thì không có người
năng chứng và quả sở chứng.
- Chúng sanh
vì còn mê muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn
hóa. Vì chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng
huyễn hóa, bởi có nhữn gtướn g huyễn hóa đã diệt và chưa diệt,
nên chúng mới thấy có thứ lớp tu chứng sai khác. Nếu người
đặng tùy thuận tánh Viên giác tịch diệt của Nhu lai rồi, thì
không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này Phật nói: Trong tánh Viên giác vốn không có tất cả pháp,
mà tùy duyên hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác. Ðoạn này
giống với đoạn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật thí dụ cây đờn,
trong cây đờn không có các bài bản hay và dỡ; song tùy duyên
nó hiện ra đủ các tiếng hay và dở.
- Trong tánh
Viên Giác không có năng thủ, sở thủ và năng chứng sở chứng,
không Bồ tát và chúng sanh. Vì chúng sanh chưd iệt trừ được
các tướng huyễn hóa, nên vọng khởi công dụng để dẹp trừ các
tướng vọng huyễn này. Vi thế mà thấy có chứng và có đắc, bực
lớp sai khác. Nếu tùy thuận được tánh Viên giác tịch diệt của
Như Lai rồi, thì không c òn thấy có một pháp nào cả.
- Trong đoạn
này có cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt” – Cái ví
dụ này chỉ cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên Giác.
Tánh Viên Giác tùy duyên hiện ra các pháp mà không thủ, không
chứng. Cũng như con mắt bình đẳng chiếu soi tất cả vật, mà
không thấy mình có chiếu soi và bình đẳng.
-
- *******
-
4. Phàm phu
tùy thuận tánh Viên giác (địa vị thập tín)
- -Này Thiện
nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có
“thật ta và vật của ta” rôì sanh lòng thương yêu cái ta và vật
của ta, cho nên gặp cảnh nghịch với ta thì giận ghét, còn
thuậtn với ta thì tham ái, say mê theo cảnh ngũ dục. Chúng
chưa từng biết thân tâm này là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt
luôn luôn, không có thật ta.
- Nếu gặp
thiện hữu tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác
thanh tịnh, hiểu rõ tah6n tâm này là hư vọn gmỗi niệm sanh
diệt không thật có cái ta; lúc bấy giờ chúng mới tự xác nhận
rằng: thân tâm này là “trần lao vọng lự”.
- Những người
nào đoạn trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự này, thì ngộ
pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được
tự tại, vì còn bị cái “biết thanh tịnh” nó làm chướng ngại,
những người như thế thì gọi là kẻ phàm phu tùy thuận tánh Viên
Giác.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðaọn trên
(số 3) là đứng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói,
nên không có Bồ tát và chúng sanh sai khác. Nhưn đứng về
phương diện sự tướng tu hành mà luận thì có lớp lang tu chứng
rõ ràng. Bởi thế nên từ đoạn này (số 4) về sau là nói thức
lớp nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam Hiền, Thập
Thánh và đến quả Phật.
- Ðại ý đoạn
này, nói hàng Thập Tín tùy t huận tánh Viên Giác - Bởi tất cả
chúng sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê lầm chấp ta và cảnh vật của
ta là chơn thật, cho nên sanh ra tham, sân v.v.. Nếu gặp Thiện
tri thức dạy bảo, chúng giác ngộ đưọoc cái “ta” và “cảnh vật
của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc bấy giờ
chúng mới trừ được ngã chấp, đặn gpháp giới thanh tịnh.
Nhưng, vì còn “biết thanh tịnh”, thế là còn pháp chấp chưa
trừ, nên còn chướng ngại tánh Viên giác. Vì thế nên gọi là
“chúng Phàm phu (vị Thập tín) tùy thuận tánh Viên Giác”.
-
- ***********
-
5. Bồ tát ở vị
Tam hiền, tùy thuận tánh Viên giác
- Này Thiện
nam! Tất cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh”
(giác), nên chướng ngại tánh Viên giác. Nay tuy đoạn được cái
chướng ngại đó (cái biết thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái
“giác”. Như thế cũng còn cố chấp ở nơi “giác”, nên tánh Viên
giác vẫn còn bị chướng ngại, không được tự tại. Bởi thế nên
gọi là bực Tam hiền bồ tát, tùy thuận tánh Viên giác.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Các vị Bồ
tát này, tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái
“biết giác”. Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại, nên tánh
Viên giác không được hiển hiện. Ðại ý đoạn này nói: Bực tam
hiền Bồ tát tùy thuận tánh Viên Giác, Tam hiền là: Thập trụ,
Thập hạnh và Thập hồi hướng.
-
- ****
-
6. Bồ tát lên
thánh vị, tùy thuận tánh viên giác
- Này Thiện
nam! Nếu còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn
chướng ngại (vì còn năng và sở)
- -Thế nên Bồ
tát thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở
chiếu đồng vắng lặng. Bồ tát tự dùn gtâm chướng ngại diệt trừ
các chướng ngại (dĩ vọng diệt vọng), khi các chướng ngại diệt
hết, cũng không còn người năng diệt. Thí như có người tự mình
chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi, thì cũng không có
người chặt (năng đoạn).
- Này thiện
nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như gnoán tay để chỉ
mặt trăng Viên giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: đây là
ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên giác. Nếu
các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt
trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo này, mà nhận
được mặt trăng Viên giác, thì gọi là Bồ tát lên thánh địa, tùy
thuận tánh Viên giác.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðoạn trên
nói Bồ tát ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”. Ðến đoạn
này nói: Bồ tát đã lên thánh địa, tuy thường “giác” mà không
trụ trước nơi “giác”, vì không còn năng và sở. Cũng như người
ta tự chặt cái đầu của minh khi cái đầu rụng rồi, thì không có
người chặt và kẻ bị chặt.
- Tất cả kinh
giáo của Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (viên giác).
Hành giả phải nương các pháp phương tiện để đến chơn lý; nếu
cố chấp nơi phương tiện không bao giờ đến chơn lý
- Giáo pháp
của Phật cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Người muốn thấy mặt
trăng thì phải nhơn ngón tay mà xem, khi thấy mặt trăng (chơn
lý) rồi thì phải quên ngón tay (phương tiện). Nếu cố chấp nơi
ngón tay (phương tiện) thì người ấy không bao giờ thấy mặt
trăng chơn lý.
- CÁi thí dụ
này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay
chỉ mặt trăng v.v..”
-
- *********
-
7. Như Lai tùy
thuận tánh Viên giác
- -Này Thiện
nam! Tất cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm
hay vọng niệm đều là giải thoát, trì giới hay phá giới đều là
Niết bàn; trí huệ hay ngu si cũng đều là Bát nhã; Bồ tát và
ngoại đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và chơn như đồng một cảnh
giới; giới, định, huệ và dâm, nộ (giận) si đều là hạnh thanh
tịnh; chúng sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; địa ngục và
thiên đường đều làm Tịnh độ; hữu tình và vô tình đều thành
Phật đạo; tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát, vì biển huệ
pháp giới chiếu soi cả tướng cũng như hư không. Ðây gọi là
Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Các đoạn
trên đã nói: từ vị Thập tín, thì bị cái “Biết tịnh” làm ngại;
qua vị Tam Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập
thánh, tuy đã lìa hết các ngại, nhun ghãy còn cái “thường
giác” chưa được viên dung.
- Ðoạn này
nói về quả vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên giác tánh, thấy tất
cả pháp đồng một bản thể, nên nói: “các chướng ngại tức là cứu
kinh giác, chánh niệm và tà niệm đều là giải thoát, phiền não
sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí huệ, ngu si đều là bát nhã
v.v...”
- Bởi thế nên
Cổ dức có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ
thời vọng tưởng, tức Chơn như”.
-
- ***
-
8. Tóm lại
- -Này thiện
nam! Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì
giờ không khởi vọng niệm phân biệt, đối với các vọng tâm cũng
chẳng cần diệt trừ, ở cảnh vọng tưởng, chẳng gia thêm phân
biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng cần phân biệt chơn thật,
khi nghe đến pháp môn này, không lấy làm lạ lùng và kinh hãi,
lại sanh tâm tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ và phụng
trì, thì ta gọi chúng sanh này là người tùy thuận tánh Viên
giác.
- -Này thiện
nam! Các ông phải biết. Những chúng sanh tùy thuận như thế, là
đã nhiều đời tu hành, từng trồng rất nhiều công đức: “Cúng
dường các đức Phật và các vị Bồ tát nhiều như số cát sông
Hằng. Ta ấn chứng cho những người này sẽ thành tựu “nhứt thế
chủng trí” (Phật trí).
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
Phật dạy cốt yếu có một câu: “chỉ trong tất cả thì giờ, không
khởi vọng niệm, v.v.. đó là tùy thuận tánh Viên Giác”. NGhĩa
là: nếu trong tất cả thời mà vọng niệm không sanh khởi, thì
tham, sân, si không sanh; 3 độc không sanh thì 3 nghiệp chẳng
tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh tử luân hồi; sanh
tử đã không thời chơn tâm tư hiện, như thế là tùy thuận tánh
Viên giác. Tỷ như ly nước đục để trên bàn, nếu trong tất cả
thì giờ đều được yên lặng, không bị chao động, thì tánh nước
trong tự hiện.
- Ðoạn này
giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Bất tùy phân biệt”
(không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt). Thật là một
pháp tu mau chóng (viên đốn), nếu không phải người nhiều kiếp
tu hành, đã từng trồng căn lành từ nhiều đời đức Phật, thì
không thể lãnh thọ nỗi pháp môn này.
- Tóm lại,
Phật dạy: Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất
cả thời không khởi vọng niệm, cũng khôngcần để tâm diệt trừ
vọng niệm v.v.. những chúng sanh thật hành được như thế là căn
lành của chúng đã trồng sâu từ nhiều đức Phật, và chúng đã
nhập được tánh Viên giác, sẽ thành quả Phật.
- Ngài Thanh
Tịnh Huệ hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả
lời xong hết.
-
- *****
-
9. Phật nói
bài kệ tóm lại các nghĩa trên
- Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
- Thanh Tịnh
Huệ! phải biết:
- Viên mãn
tánh Bồ đề
- Không còn
thủ và chứng,
- Không bồ
tát, chúng sanh.
- Giác và khi
chưa giác
- Thứ lớp có
sai khác:
- Chúng sanh
bị “biết” ngại (Thập tín)
- Bồ tát bị
“giác” ngại (Tam hiền)
- Thánh Ðịa
hằng vắng lặng (Thập thánh)
- Vì không
trụ các tướng,
- Viên mãn
quả Ðại giác,
- Nên gọi
“khắp tùy thuận” (Phật)
- Các chúng
sanh đời sau,
- Tâm chẳng
sanh hư vọng,
- Ta nói
chúng sanh này,
- Hiện đời là
Bồ tát
- Vì cúng
dường chư Phật,
- Công đức đã
viên mãn
- Tuy có
nhiều phương tiện,
- Cũng đều
tùy thuận Giác.
-
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý bài
kệ này Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không
Bồ tát và chúng sanh. Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân
biệt ra Tín vị, Hiền vị, Thánh vị, và Phật vị. Nếu như chúng
sanh nào tâm chẳng sanh vọng tưởng, là Bồ tát hiện tại, vì
chúng sanh này đã trồng công đức từ hằng sa chư Phật.
- Pháp môn tu
tuy có nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khá,c nhưng cũng đều
về tánh Viên giác.
- Trong
chương Thanh Tịnh Huệ này, Ngài Thanh Tịnh Huể hỏiPhật thứ lớp
tu chứng như thế nào? Phật trả lời có hai phần:
- 1. Ðứng về
lý tánh Viên giác mà nói,thì không có bồ tát và chúng sanh,
không thủ và không chứng.
- 2. Về sự
tướng tu hành, thì có thứ lớp sai khác. Như về Tín vị thì bị
cái “biết” (giả” làm ngại; ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác”
làm ngại; vào Thánh vị tuy được tịch diệt nhưng chưa được viên
mãn.
- Tóm lại,
Phậtdạy một câu “nếu người đối với tất cả thời, không khởi
vọng niệm, thì được tùy thuận tánh Viên giác”.
--o0o--
|
|