|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ XII
- KINH KIM
CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ
1
-
LƯỢC GIẢI
- Đề mục kinh
có tám chữ: "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh"; gọi tắt là kinh
Kim Cang"
- KINH: Kinh
điển hay giáo lý, do Phật Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "Kinh"
có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau:
- 1. Đường
canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi
xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. "Kinh"
cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật
hoặc thánh hiền.
- 2.Thường:
Không thay đổi. Chơn lý của Phật không thay đổi; dù Phật quá
khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn lý như vậy.
- 3. Hợp
(Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lý của vũ trụ" và " hợp với
căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo
trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự
hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý tu hành thì đều
được khỏi khổ luân hồi, không xót một người nào. Kinh Phật có
những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh"
- KIM CANG:
Chữ "Cang", người Nam đọc là "cang", người Bắc đọc là "cương".
Có hai nghĩa:
- 1. Ngọc Kim
cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá. Tánh nó rất cứng
và rất bén, đã không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá
hoại các vật.
- 2. Kim
Cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là "thép", cũng
thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng bén, và cụng
không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại các vật, như
khoan sắt, đục đá v.v...dao búa nhờ có thép mới bén.
- Chất "cứng
rắn" của "ngọc Kim cương" hay của "thép", đã saün có từ hồi
nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các vật
bên ngoài tạo thành.
- Phật dùng
"ngọc kim cương" hay "chất thép cứng", để thí dụ "trí huệ Bát
Nhã" rất quí báu và saün có trong mọi người (tức là tánh
Phật sáng suốt của mỗi chúng sanh).
- Trí huệ Bát
Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài
luyện tập mới thành. Nó có saün trong mỗi chúng sanh từ vô thỉ
đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chúng
quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã không bị các vô minh phiền
não tàn phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ
vô thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, nhu gió
thổi mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nr6n gọi là
"Bát Nhã Ba La mật" Trí huệ rốt ráo.
- BÁT NHÃ:
Dịch âm của chữ Phạn "Prajnà". Vì Trung hoa không có chữ dịch
cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là "Bát Nhã".
- Bát Nhã có
nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sau nghĩa:
- 1. Viễn ly:
xa lìa các vô minh, phiền não vọng chấp;
- 2. Minh:
Sáng, không mờ tối
- 3. Huệ:
Sáng tỏ
- 4. Thanh
tịnh: trong sạch không nhiễm ô
- 5. Trí:
Thông suốt
- 6. Trí huệ:
Sáng tỏ thông suốt
- Bát Nhã có
nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng
lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát Nhã).
- Tuy nhiên,
trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, thì có
thể dùng tạm nghĩa"trí huệ"; vì nghĩa "trí huệ" có phần rõ
ràng và xác đáng hơn hết.
- Nhưng cần
phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí huệ sau đây, mới đúng
với nghĩa chữ "Bát Nhã":
- 1. Trí huệ
thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông
minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện,
thiên hạ gọi đó là người "trí huệ". Nhưng trí huệ đó là trí
huệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là "trí huệ Bát Nhã".
- 2. Trí huệ
ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định (xem bài "Thiền
định" trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có trí huệ, biết
được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp
kỳ lạ. Nhưng trí huệ đó là tà trí huệ, chứ không phải là "trí
huệ Bát Nhã".
- 3. trí huệ
Nhị thừa: Hàng Thoinh văn và Duyên giác, do tu pháp Tứ đế và
Thập Nhị Nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đã khỏi sanh
tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí huệ biết được việc
quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng trí huệ đó thuộc về Tiểu
thừa trí huệ, chỉ thấy về "ngã không chơn như"(thiên không),
chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải
trí huệ Bát Nhã.
- Trừ ba loại
trí huệ trên đây, duy chỉ có trí huệ Phật hay của Đại thừa Bồ
Tát, mới phải là trí huệ Bát Nhã.
- Công dụng
cũa trí huệ Bát Nhã, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù vô minh
vọng chấp: ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, thọ
giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v...Bởi
thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp nào cũng
bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật. Tướng chơn
thật của các pháp đã hiện, tức là chơn tâm, chơn như hay chơn
lý của vũ trụ hiện ra vậy.
- Trí huệ Bát
Nhã, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sanh một cách rốt
ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm phu, đến bên
kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ nhơn cũng gọi
là "thuyền Bát Nhã".
- Muốn phân biệt trí huệ Bát Nhã
khác với trí huệ của phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, thì
chúng ta nên dịch nghĩa chữ "Bát Nhã" như sau:
- 1. Trí huệ
Phật
- 2. Trí huệ
rốt ráo (Bát Nhã Ba La mật)
- 3. Trí huệ
Bát Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ hán)
- BA LA MẬT:
"ba la mật" hoặc "ba la mật đa" là dịch âm của chữ Phạn
"Paramita". Có hai nghĩa:
- 1. Đáo bỉ
ngạn: Đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhã có công năng đưa chúng
sanh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bêb này, mà qua
đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là
"Bát Nhã Ba la mật".
- 2. Cứu kính
viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ ở Ấn Độ, phàm làm
việc gì, khi đã được hoàn toàn viên mãn, thì gọi là "Ba la
mật". Trí huệ Bát Nhã là loại trí huệ đã rốt ráo viên mãn, nên
gọi là "Bát Nhã Ba la mật".
- Tóm lại,
"Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh" là kinh nói về "Trí huệ
Phật"(Bát Nhã), loại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn (ba
la mật). Trí huệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê
muội triền phược của chúng sanh, sang bờ giác ngộ giải thoát
của chư Phật (đáo bỉ ngạn).
- Trí huệ
Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), vừa
cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô
minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng
phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị
hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ
các loại rất cứng, như sắt, đá v.v...mà không bị hư hoại.
- ***
- Phật nói
kinh "Đại Bát Nhã" tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển, trong 22
năm mới xong (nhị thp nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt
lại kinh Đại Bát Nhã là "kinh Kim cann Bát Nhã Ba la mật".
- NÓI VỀ
DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHÆ CỦA KINH NÀY:
- Danh: Kinh này lấy "thí dụ"
(Kim Cang) và "pháp" (Bát Nhã Ba la mật) mà đặt
tên.Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng.
- Thể: Kinh
này lấy "Thật tướng" làm thể.
- Dụng: Công
dụng của kinh này là phá các chấp tướng (Ngã, pháp)
đoạn hết các vô minh mê hoặc.
- Tôn chỉ:
Kinh này lấy "Vô trụ"(không trụ chấp nơi nào) làm tôn
chỉ.
- KẾT LUẬN
- Mới đọc đến
đề mục kinh, chúng ta đã thấy thích thú lắm rồi ! Đề mục kinh
chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội dung và tôn chỉ
của kinh: Phật dạy tất cả chúng sanh đều saün có Trí huệ Bát
Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã
(Phật tánh sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là
quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí huệ
Bát Nhã có saün từ vô thỉ đến nay, đã không bị cái gì làm hư
hoại; trái lại, còn phá tiêu núi Ngã tướng, Nhơn tướng, chúng
sanh tướng và Thọ giả tướng, hay núi Ngã chấp, pháp chấp; nói
tổng quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thỉ đến nay. Nó
phá một cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng,
như mặt trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay.
- Trí huệ Bát
Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ bêb này bến
vô minh mê muôi của chúng sanh, vượt qua khỏi sông mê bể khổ,
đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức là "Đáo
bỉ ngạn" (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhơn gọi là
"Thuyền Bát Nhã".
- Chúng ta đã
saün có "Trí huệ Bát Nhã" hay "Trí huệ Phật", thì thế nào
chúng ta cũng sẽ thành Phật.
- ***
-
TÊN DỊCH GIẢ
- Đức Phật
Thích ca Mâu ni nói kinh này tại tịnh xá của ông Trưởng giả
Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ.
- Ngài A Nan
kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập dịch từ văn
Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung hoa.
- TAM TẠNG
PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; vì có công năng trùm chứa
văn bghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tàng".
- 1. Kinh
tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của các vị Bồ Tát
nói ra, khi đã được Phật chứng nhận.
- 2. Luật
tạng: chép những giới và luật (kỹ luật) trong 7 chúng
(Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoa và Ưu bà tắc,
Ưu bà di).
- 3. Luận
tạng: chép những lời nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng
của các vị Bồ Tát và chư Tổ.
- Thầy giảng
"kinh" thì gọi là "Pháp sư"
- Thầy giảng
"luật" thì gọi là "Luật sư"
- Thầy giảng
"luận" thì gọi là "Luận sư"
- Ngài Cưu Ma
La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật,
Luận, nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông
ba tạng).
- CƯU MA LA
THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sư có danh tiếng lỗi
lạc ở Ấn Độ; bên Trung hoa dịch nghĩa là "Đồng Thọ", nghĩa là
vị Pháp sư, tuổi tác thì "đồng niên", mà tài đức lại "kỳ lão"
(thọ).
- Kinh này có
nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập rất rõ
ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết.
- ***
A. PHẦN TỰ
-
(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT NHÃ)
- Tôi nghe
như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo,
đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử Kỳ Đà và ông
Trưởng giả Cấp Cô Độc.
- Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và
chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ
lớp khất thực.
- Khất thực
xong, Phât và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi
thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rữa chân, rồi trải
toạ cụ, ngồi yên tịnh.
- LƯỢC GIẢI
- Đây là
những cử chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo thành
một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần "giải thoát
vô trụ", để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhã.
- Chúng ta
hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau này, thì
chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tinh thần Bát Nhã (giải
thoát vô trụ).
- "Sắp đến
giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng
- "đều đắp y,
mang bình bát vào thành
- "Xá Vệ,
theo thứ lớp khất thực.
- "Khất thực
xong, Phât và chúng tăng
- "đồng về
Tịnh xá để thọ trai. Sau khi
- "thọ trai
xong, Phật xếp y, cất bình
- "bát và rữa
chân, rồi trải toạ cụ ngồi
- " yên tịnh.
- Vì ngộ được
tánh "Bát Nhã giải thoát", trùm khắp trên muôn vật, nên Cổ
nhơn có nói hai câu:
- Thanh thanh
tuý trúc, tổng thị Chơn như
- Uất uất
huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã.
- Dịch nghĩa:
- Mướt
mướt tre xanh, biểu lộ Chơn như.
- Mởn mởn
hoa vàng, trình bày Bát Nhã.
- Ngài Thái
hư pháp sư giảng:
- "Phật nói
kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng sanh đều saün đủ bản thể
Kim Cang Bát Nhã. Cái diệu dụng của Kim Cang Bát Nhã là làm
cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các
tướng.
- Người ngộ
đưỡc Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều
thông suốt vô ngại; những việc làm bình thường hằng ngày đều
là Phật pháp, tạm bình thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi,
đứng, nằm, ngồi v.v...cũng đều là Phật pháp. Những việc thần
thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đã
đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương
tiện hay khéo của phật pháp.
- Trái lại,
nếu người chưa nhập được "Kim Cang Bát Nhã", dù có được thần
thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà thuật của
yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôm năm, cũng chỉ hưởng
phước quả hữu lậu của cõi nhơn, thiên mà thôi; một mai nghiệp
báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo. Quí
vị nên chín chắn nghĩ xét !
- Kinh Kim
Cang Bát Nhã, trong mỗi người đều saün đủ và khắp cả pháp
giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa và
cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn
và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu
dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người
hướng ngoại tìm cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá
v.v...phải có đủ như thế, mới phải là Phật. Những người chấp
như thế, không thể phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật
pháp và thế nào là ngoại đạo. Than ôi ! nếu sai một hào ly,
thì cách xa ngàn dặm ! Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận !"
- (KIM CANG
GIẢNG LỤC)
- GIẢI DANH
TỪ
- TÔI NGHE
NHƯ VẦY: trong trí Độ Luận có chép: "Khi Đức Như Lai sắp nhập
Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A Nan rằng:_ Ông là người giưgìn
"Pháp tạng" của Phật, ông phải bạch Phật những điều cần yếu về
sau.
- Ông Ưu Ba
Ly và A Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều:
- 1. Tất cả
các kinh của Phật, mở đầu nên đề chữ gì?
- 2. Phật
nhập diệt rồi lấy ai làm thầy?
- 3. Nương
nơi đâu mà trụ?
- 4. Xá lợi
và y bát của Phật, phân như thế nào?
- Phật dạy:
- 1. Mở đầu
các kinh, hãy để "Như thị ngã văn" (tôi nghe như vầy).
- 2. Ta nhập
Niết bàn, các ông phải lấy "giới luật" làm thầy.
- 3. Các ông
phải trụ nơi pháp "Tứ niệm xứ" (quán thân bất tịnh, quán thọ
thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã).
- 4. Xá lợi
của ta chia làm ba phần (một phần thờ tại nhơn gian, một
phần thờ trên các cõi trời, một phần thờ dưới Long cung)
còn y và bát truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp.
- TỲ KHEO: Tỳ
kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có ba:
- 1. Khất sĩ:
Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để nuôi thân, dưới
xin vật thức để nuôi thân.
- 2. Phá ác:
Phá trừ các việc tội ác.
- 3. Bố ma:
Làm khủng bố các ma.
- NGỌ TRAI:
Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi là "ngọ trai".
Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ ngọ, thì gọi là
"Trai Tăng"
- Y: Y phục
của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư Tăng bằng vải,
có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy điều và chín
điều v.v...
- BÌNH BÁT:
Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành v.v...lớn hay nhỏ
tuỳ sức người dùng.
- TOẠ CỤ: Tấm
vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng.
--o0o--
|
|