|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ XII
- KINH KIM
CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ
5
-
PHẦN CHÁNH
TÔN (tt)
-
-
19. THỌ TRÌ KINH NÀY
PHƯỚC ĐỨC VÔ LƯỢNG [^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! Như trong sông hằng, có vô số cát, rồi lấy mổi một
hạt cát, lại du cho một sông hằng. Vậy những số cát trong vô
số sông Hằng đó, có nhiều không?".
- Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn !
Nhiều lắm. Nếu chỉ tính nhũng sông hằng mà thôi, hãy còn nhiều
vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông
Hằng".
- Phật hỏi
tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu có chúng sanh nào dùng 7 món báu, đựng
đầy trong nhiều Đại Thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ)
d8ể đem bố thí; số đại thế giới này cũng nhiều như số cát
trong vô số sông Hằng, thì chúng sanh đó phước đức nhiều
khôn?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm".
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! ta nay thành Phật bảo ông: Nếu có người thọ trì
đọc tụng hay giảng kinh này hoặc trọn quyển hay nữa quyển, cho
đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này
nhiều hơn người trước".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật nói công đức người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này
(thí pháp) nhiều hơn công đức người bố thí thấ bửu (thí
tài) đựng đầy trong vô số Đại thế giới, nhiều như số cát
trong vô số sông Hằng. Đây là lần thứ ba, Phật tán thán về
công đức thọ trì kinh.
- Ngọc ngà
châu báu, không ai có nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều
châu báu, đựng đầy trrong vô số đại thế giới, đem bố thí, thì
phước đức người này không thể nghĩ bàn.
- Nhưng nếu
có người thọ trì hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nữa
quyển, hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người
sau nhiều hơn người trước.
- Vì bố thí
về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp cho người về
phương diện vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi,
chứ không thể đem hạnh phúc vĩnh viễn cho người được.
- Còn người
thọ trì hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc
về pháp thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh
hưởng sâu rộmng hơn. Mình và người được trồng hạt giống Bát
Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế nào cũng được nứt
mộng nẩy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hoá
độ vô số chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi vì người trì kinh
và bố thí pháp, thuộc về phước vô lậu thanh tịnh, nên phước
đức nhiều hơn người bố thí vật chất.
- Tóm tắt
đoạn này, Ngài Phó Đại sĩ có làm bài tụng như sau:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Bảo mãn tam thiên giới
-
Tê trì tác phước điền
-
Duy thành hữu lậu nghiệp
-
Chung bất ly nhơn thiên
-
Trì kinh thủ tứ cú
-
Dữ Phật tác lương duyên
-
Dục nhập vô vi hải
-
Tu thừa Bát Nhã thuyền
-
Dịch nghĩa:
-
Đựng báu đầy Đại thiên
-
Bố thí trồng ruộng phước
-
Chỉ thành nghiệp hữu lậu
-
Hưởng phước cõi nhơn thiên
-
Trì tụng bốn câu kệ
-
Tạo duyên lành với Phật
-
Muốn vào biển vô vi
-
Phải nương thuyền Bát Nhã.
- ĐẠI Ý
- Bài tụng
này nói, của báu đựng đầy Đại thế giới (một nghìn triệu thế
giới nhỏ) đem bố thí làm phước, hành giả chỉ hưởng phước
hữu lậu của cõi nhơn thiên. Không bằng người trì tụng bốn câu
kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát
Nhã, dạo chơi biển vô vi, hưởng phước vui vĩnh viễn.
- GIẢI DANH
TỪ
- Sông
Hằng:Tên một con sông bên Ấn Độ. Dài rộng và rất hiều cát. Mỗi
khi Phật thuyết pháp, muốn chỉ cái gì nhiều klhông thể tính
được, thì Phật thí dụ "Như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số)
- Đại thế
giới:Nguyên văn chữ hán là "Tam thiên đại thế giới", gọi tắt
là "Đại thế giới".
- Nhơn lên 3
lần ngàn, là một đại thế giới. Nghĩa là năm châu thế giới của
chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; nhơn lên 1000 thế giới
nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới", nhơn lên 1000 tiểu thiên
thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; nhơn lên 1000 trung
thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới"; tức là một nghìn
triệu thế giới nhỏ, gọi là một "Đại thiên thế giới". Ngoài Thế
giới Ta bà là "một Đại thiên thế giới". Ngoài thế giới Ta bà
còn hằng hà sa số Đại thiên thế giới.
- ***
-
20. CÔNG ĐỨC CỦA
KINH KIM CANG BÁT NHÃ [^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay
nữa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng
được chư thiên, người và thánh thần đến cúng dường và đều kinh
trọng như chỗ chùa tháp của Phật".
- Phật dạy
tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật
và có các vị đệ tử tôn qui của Phật. Bởi thế nên người chí
thành thọ trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu Trí huệ
Kim Cang Bát Nhã".
- LƯỢC GIẢI
- Đạon này
tiếp theo đoạn trên, nói về công đức qui báu của kinh và
khuyên người thọ trì kinh này. Đây là lần thứ tư.
- Đoạn trước
(đoạn 13) Phật dạy: " ...tất cả Phật và pháp đều từ kinh này
mà ra". Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh này,
thì chỗ đó như chùa Phật hay tháp Phật, có Phật, có đệ tử tôn
quí của Phật; thánh, thần, trời, người đều kinh trọng và cúng
dường.
- Vì kinh này
rất quý bau như vậy, nên người chí thành thọ trì kinh này sẽ
được Trí huệ Phật (Kim Cang Bát Nhã).
- ***
-
21. ÔNG Tu Bồ Đề HỎI
PHẬT VỀ TÊN KINH [^]
- Lúc bấy giờ
ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gì? Và tại
sao chúng con phải phụng trì".
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Kinh này tên là "KIM CANG BÁT NHÃ Ba la mật"; Vì
thế nên các ông phải phụng trì".
- LƯỢC GIẢI
- Đến đây,
ông Tu Bồ Đề thỉnh Phật xác định tên kinh và giải thích, tại
sao phải phụng trì? Phật trả lời: Kinh này tên "Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật" (nghĩa đã giải ở đề mục kinh). Vì "Kim
Cang Bát Nhã", nên các ông phải phụng trì.
- ***
-
22. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP VỀ KINH "KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT"
[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, tức là không phải
Bát Bát Nhã Ba La Mật, thế mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp về kinh "Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật". Nếu hành giả còn vọng chấp "có kinh Bát
Nhã và có ta phụng trì", tức là hành giả còn chấp ngã (ta
phụng trì) và chấp pháp (kinh Bát Nhã) thì không
phải là kinh Bát Nhã và thọ trì Bát Nhã. Phải dẹp trừ hết các
vọng chấp ngã, pháp v.v...mới phải thọ trì kinh Bát Nhã.
- Bởi thế
nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng sanh chấp tên kinh,
nên Phậtliền phá chấp: "Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, không
phải Bát Nhã Ba La Mật, thế mới thật là Bát Nhã Ba La Mật".
-
23. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"
[^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! Như Lai có thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa:
"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có thuyết pháp".
- LƯỢC GIẢI
- Đây là lần
thứ hai, Phật phá cái chấp:" Như Lai có thuyết pháp" (lần
thứ nhứt ở đoạn 11).
- Tiếp theo
đoạn trên, ông Tu Bồ Đề hỏi kinh này tên gì? _ Phật nói kinh
này tên là "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật". Sợ người chấp:"Như
thế Phật co nói pháp Bát Nhã", nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá
luôn cái chấp:"Phật có thuyết pháp.
- Nếu hành
giả còn vọng chấp:"Phật có thuyết pháp", thì không nhập được
"Kim Cang Bát Nhã". Vì ông Tu Bồ Đề đã nhập được lý "Kim Cang
Bát Nhã", nên ông trả lời:"Như Lai không có thuyết pháp".
- Muốn cho
độc giả rõ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải thích ở
đoạn trước thêm một lần nữa:Một hôm ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh
dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề
hỏi:"Ai rưới hoa?". _ Trời Đế Thích thưa:"Ngài thuyết kinh Bát
Nhã hay quá ! Con xin dâng hoa cúng dường".
- Ông Tu Bồ
Đề nói:"Tôi không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài
không nói Bát Nhã, con không nghe Bát Nhã".
- Kết
luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới
thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã".
- Vì ngộ được
lý chơn không của kinh Bát Nhã, nên ngài Viên Ngộ Thiền sư có
làm bài kệ rằng:
-
-
Nguyên văn (dịch âm)
-
Thập phương đồng tụ hội
-
Cá cá học vô vi
-
Thử thị tuyển Phật trường
-
Tâm không cập đệ qui.
-
Dịch nghĩa:
-
Mười phương đồng tụ hội
-
Người người học vô vi
-
Đây là trường thi Phật
-
"Tâm Không" mới được đậu.
- ĐẠI Ý
- Bài kệ này
quan trọng nhứt là hai chữ "Tâm không". Nếu người nào tâm
không còn các phiền não vọng chấp ngã, pháp v.v...thì người đó
nhập được Kim Cang Bát Nhã, tức là đậu quả Phật.
- ***
-
24. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI"
[^]
- phật hỏi:"
Tu Bồ Đề ! Những vi trần chứa trong đại thế giới (1 nghìn
triệu thế giới nhỏ) có nhiều không? ".Tu Bồ Đề thưa:" Bạch thế
tôn nhiều lắm".
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các vi trần, không phải thật vi trần.
Như Lai nói thế giới, không phải thật thế giới, chỉ tạm gọi là
thế giới:.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có vi trần và
thật có thế giới".
- Phật đã
day: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng"; nghĩa là:
phàm cái gì có hình tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả
muôn vật trong vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng
đều là hư giả không thật.
- Do hiệp
nhiều vi trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi
tạm đặt tên là thế giới.
- Trái lại,
do vật lớn nhứt như thế giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn
chẻ được nữa, rồi tạm đặt tên là vi trần (bụi nhỏ). Vật
thế giới hay vi trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của
chúng sanh, phân biệt so đo (kể đạt phân biệt) rồi đặt
tên như thế này hay như thế khác, chứ không có thật thể.
- Trong bộ Cu
xá luận tung lược thích, về trang 210, có chépvề vi trần và
thế giới, đại ý như sau: Từ vật lớn nhứt là thế giới, rồi chẻ
nhỏ thế giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại
các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ hở,
chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua bay lại). Các thứ bụi
nàygọi tên là:
- 1. Khích du
trần: Bụi bay qua các kẻ hở.
- 2. Ngưu mao
đầu trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. Bụi này do chẻ
nhỏ bụi "khích du" mà thành.
- 3. Dương
mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con dê. Thứ bụi này do
chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.
- 4. Thố mao
đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ bụi này do chẻ
nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.
- 5. Thuỷ
trần: Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ. Thứ bụi này do
chẻ nhỏ bụi "Thố mao đầu" mà thành.
- 6. Kim
trần: Bụi này có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc
kiếng dầy; do chẻ nhỏ bụi "Thủy trần" mà thành.
- 7. Vi trần:
Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi "Kim trần" mà thành.
- 8. Cực vi
trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi này do chẻ nhỏ bụi "Vi trần" mà
thành.
- 9. Lân hư
trần: Bụi gần mé hư không. Thứ bụi này nhỏ nhứt, không thể chẻ
nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư không. Bụi này do chẻ
bụi "Cực vi" mà thành.
- Rồi trở
lại, từ vọng tâm nhỏ như "Lân hư trần"
- Tích tụ
7 Lân hư trần thành một "Cực vi trần"
- ....7 cực
vi trần thành một "Vi trần"
- ....7 Vi
trần thành một "Kim trần"
- ....7 Kim
trần thành một "Thuỷ trần"
- ....7 Thuỷ
trần thành một "Thố mao đầu trần"
- ....7 Thố
mao đầu trần thành một "Dương mao đầu trần"
- ....7 Dương
mao đầu trần thành một "Ngưu mao đầu trần"
- ....7 Ngưu
mao đầu trần thành một "Khích du trần"
- Cứ tích tụ
mãi mãi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật
lớn nhứt là "thế giới".
- Tóm lại,
chứa nhiều vi trần thành thế giới; chẻ nhỏ thế giới thành ra
vi trần. Vì trần và thế giới đều do sự đối đãi lớn với nhỏ, mà
đặt ra cái tên để kêu gọi, chớ không có cái gì là chơn thật.
- Ngài Phó
Đại sĩ làm bài tụng, nói về vi trần và thế giới.
-
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Tích trần thành thế giới
-
Chiết giới tác vi trần
-
Giới dụ nhơn thiên quả
-
Trần vi hữu lậu nhơn
-
Trần nhơn, nhơn bất thật
-
Giới quả, quả phi nhơn
-
Quả nhơn tri thị quyển
-
Tiêu diêu tự tại nhơn
-
Vọng kế nhơn thành chấp
-
Mê thằng vị thị xà
-
Tâm nghi sanh ám quỉ
-
Nhãn bịnh kiến không hoa
-
Nhứt cảnh tuy vô dị
-
Tam nhơn nãi kiến sai
-
Liễu tư danh bất thật
-
Trường ngự bạch ngưu xa.
-
Dịch nghĩa:
-
Chứa trần thành thế giới
-
Chẻ giới hoá vi trần
-
Giới dụ quả nhơn thiên
-
Trần là nhơn hữu lậu
-
Trần nhơn, nhơn không thật
-
Giới quả, quả chẳng chơn
-
Biết quả, nhơn đều huyễn
-
Được tự tại tiêu diêu
-
Vọng thấy dây thành rắn
-
Chấp mê bởi tại tâm
-
Tâm sợ nên ma hiện
-
Mắt nhậm thấy đốn hoa
-
Một cảnh không sai khác
-
Ba người thấy chẳng đồng
-
Ai biết đó là huyễn
-
Tức là bực Đại giác.
- ĐẠI Ý HAI
BÀI TỤNG
- Bài tụng
thứ nhứt nói: chứa vi trần thành thế giới, chẻ thế giới thành
vi trần. Thế giới là dụ cho quả nhơn thiên, vi trần là dụ cho
nhơn hữu lậu. Nhơn vi trần đã không thật, nên quả thế giới
cũng hư vọng. Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, thì
sẽ được tiêu diêu tự tại.
- Tiếp đến
bài tụng thứ hai, đại ý nói: Vì tánh "Biến kế sở chấp", nên
chấp sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng
như vì con mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư không.
Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế sở
chấp, y tha khởi và viên thành thật) thấy chẳng đồng. Nếu
người được giác ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không
thật.
- ***
-
25. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP: "THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT"
[^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như Lai là
thấy được Như Lai không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? Vì đức Như
Lai nói 32 tướng tốt, chỉ giả gọi 32 tướng tốt".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn trên
(24) Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá chấp về y báo (chấp
pháp) là vi trần và thế giới. Đoạn này Phật lại dùng Trí
huệ Bát Nhã phá chấp về chánh báo (chấp ngã); nghĩa là
chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Đây ;là
lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp
về thấy Phật.
- Nếu còn hấp
"thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật", tức là còn
chấp ngã (ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v...thì
không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên không thấy được Phật
thiệt.
- Ngài Phó
Đại sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngã,
nhơn,năng, sở v.v...
-
-
Nguyên văn (dịch âm)
-
Tảo trừ tâm ý địa
-
Danh vi Tịnh độ nhơn
-
Vô luận phước dữ trí
-
Quang thả ly tham sân
-
Trang nghiêm tuyệt năng sở
-
Vô ngã diệc vô nhơn
-
Đoạn, thường cu bất nhiễm
-
Tần thoát xuất hồng trần
-
Dịch nghĩa
-
Quét sạch đất tâm ý
-
Đó là nhơn tịnh độ
-
Không cần tu phước huệ
-
Miễn bỏ được tham sân
-
Trang nghiêm không năng sở
-
Không ngã cũng không nhơn
-
Đoạn, thường đều chẳng nhiễm
-
Siêu xuất cõi hồng trần
- ĐẠI Ý HAI
BÀI TỤNG
- Không cần
tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quét sạch tham,
sân, si v.v...ở trong tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng
sanh về Tịnh độ.
- Dẹp trừ cái
vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngã, đoạn, thường v.v...thì được
siêu thoát cõi hồng trần, đó là trrang nghiêm cõi Phật.
- GIẢI DANH
TỪ
- 32 Tướng
tốt: Phật có 32 tướng tốt
-
1. Dưới bàn chân no tròn
-
2. Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc
-
3. tay chân mềm dịu
-
4. Ngón chân có màn như chân nhạn
-
5. Ngón tay ngón chân no tròn
-
6. Gót xứng với bàn chân
-
7. bàn chân xứng với gót
-
8. Hai chân tròn vót như hai chân nai
-
9. Tay dài thòng tới đầu gối
-
10. Âm tướng qui tàng
-
11. Chân lộng ửng màu xanh tía
-
12. Tóc lông đều xoay qua phía mặt
-
13. Da trơn min không dính dơ
-
14. Màu da sắc vàng
-
15. Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ
-
16. Cổ tròn lạ thường
-
17. hai cái nách no đủ
-
18. Dung nghi đoan chánh
-
19. Thân tướng trang nghiêm
-
20. Hình thể xứng nhau
-
21. Oai dung như sư tử
-
22. Chói hào quang mỗi phía một lần
-
23. hàm răng bốn mươi cái khít và bằng
-
24. Bốn răng cấm trắng và bén
-
25. Trong miệng có mùi thơm
-
26. Lưỡi dài che đặng cả cái mặt
-
27. Tiếng nói diệu dàng đủ giọng
-
28. Lông nheo như ngưu vương
-
29. Con mắt có quần đỏ
-
30. Mặt như trăng tròn
-
31. Chổ gian mi có lông trắng
-
32. Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc
--o0o--
|
|