-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ XII
- KINH KIM
CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ
9
-
PHẦN CHÁNH
TÔN (tt)
-
-
56. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI ĐẶNG ĐẠO QUẢ VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ"[^]
- Ông Tu Bồ
Đề bạch Phật: "Bạch Thế tôn ! Như Lai có chứng đặng đạo quả Vô
thượng Bồ Đề không? Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai không có một
tí gì gọi là đặng đạo quã Vô thượng Bồ Đề".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Phật có
đặng Đạo quả Bồ Đề". Đây là lần thứ 4 (lần thứ nhứt, hai và
ba ở đoạn 15, 36, và 46).
- Trong Duy
thức Tam thập tụng có chép: " Nếu hành giả hiện tiền còn phần
nào thấy mình có chứng Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng
Duy thức tánh, vì còn chấp "có sở đắc" vậy".
- Đồng một ý
với đoạn kinh này, nếu còn chấp "mình đặng đạo quả Vô thượng
Bồ Đề", tức là còn bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả
thì không phải thật chứng đạo vô thượng Bồ Đề.
- Hành giả
phải ngộ nhập Kim Cang Bát Nhã, xa lìa các vọng chấp, không
còn thấy mình chứng (không ngã) và đạo quả Bồ Đề để
chứng (không pháp) thì mới thật là chứng đạo vô thượng
Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai không có một tí gì gọi
là đặng đạo vô thượng Bồ Đề".
- ***
-
57. PHÁP NÀY BÌNH
ĐẲNG KHÔNG CÓ CAO THẤP[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Pháp này bình đẳng không có cao thấp, không ngã,
không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả, tạm gọi là đạo
vô thượng Bồ Đề.
- Tu Bồ Đề !
Do tu tất cả pháp lành mà đặng đạo vô thượng Bồ Đề, Như Lai
nói pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật nói "pháp này bình đẳng, không có cao thấp", và phá cái
chấp "pháp lành".
- Hành giả
còn chấp "ta tu pháp lành" tức là còn chấp ngã (ta tu) chấp
pháp (pháp lành). Nếu đem tâm chấp ngã chấp pháp mà tu pháp
lành, thì pháp lành ấy thuộc về hữu vi hữu lậu, không phải là
pháp lành cứu cánh.
- Hành giả
phải dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá trừ các chấp ngã, chấp
pháp mà tu các pháp lành, thì các pháp lành ấy mới hợp với Bát
Nhã chơn không, thuộc về vô lậu thanh tịnh, mới phải lá pháp
lành rốt ráo. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai nói các pháp
lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành".
- Hành giả
nhập Kim Cang Bát Nhã, phá trừ các vọng chấp mà tu các pháp
lành thì sẽ chứng được đạo vô thượng Bồ Đề. Đạo này không ngã,
không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, nên Phật nói:
"Pháp này bình đẳng, không có cao thấp".
- Cổ nhơn có
làm một bài tụng, nói về cảnh giới khi ngã và pháp đều hết,
như sau:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Võ tiền chỉ kiến hoa gian điệp
-
Võ hậu toàn vô điệp để hoa
-
Hoa điệp phân phân quá tường khứ
-
Bất tri xuân sắc lạc thi gia
-
-
Dịch nghĩa:
-
Trước mưa chỉ thấy hoa cùng bướm
-
Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa
-
Hoa rụng bướm bay qua khỏi vách
-
Vậy ai đã hưởng thú xuân này
- ĐẠI Ý BÀI
TỤNG
- Đây là lần
thứ 13, Phật tán thán công đức không thể nghĩ bàn của người
thọ trì và truyền bá kinh này.
- Bố thí 7
báu tuy quí, nhưng chỉ giúp cho người về vật chất, giàu có
sung sướng trong một đời mà thôi. Phước đức tuy nhiều, nhưng
thuộc về hữu vi hữu lậu.
- Người thọ
trì hay giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhã, sẽ được lợi ích về
phần tinh thần, mình và người đều sẽ tỏ ngộ lý Bát Nhã và sẽ
thành Phật, rồi tự độ và độ tha, lợi ích muôn đời, nên mặc dù
thọ trì rất ít, nhưng phước đức vẫn nhiều hơn người trước.
Phước này thuộc về vô lậu thanh tịnh, nên không thể tính lường
hay thí dụ được.
- ***
-
59. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐỘ CHÚNG SANH"[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng
sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh",
thì Như Lai còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ
giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật
không có độ chúng sanh nào cả.
- Tu Bồ Đề ! Như Lai nói "ta",
thật ra không có "ta"; nhưng chúng phàm phu lại chấo có ta. Tu
Bồ Đề ! Như Lai nói phàm phu, không phải phàm phu, chỉ giả gọi
là phàm phu".
LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp "Phật có độ chúng
sanh".
- Nếu còn
thấy "ta độ chúng", tức là còn vọng chấp ngã (ta) nhơn (chúng
sanh) thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên không phải là
Phật .
- Vì Như Lai
đã nhập Kim Cang Bát Nhã, không còn các vọng chấp ngã, nhơn,
v.v...nên Như Lai không thấy "thật có độ sanh".
- Vì phá trừ
nghi vấn: Phật đã không chấp bốn tướng, tai sao còn nói "ta"?
nên Phật dạy tiếp: "Như Lai nói "ta", nhưng thật ra không có
cái "ta", do chúng phàm phu vọng chấp là ta".
- Nói đến
phàm phu, sợ chúng sanh chấp "thật có phàm phu", nên Phật liền
phá: "Như Lai nói phàm phu, không phải thật phàm phu, chỉ gizả
gọi là phàm phu".
-
60. THẤY 32 TƯỚNG
TỐT CỦA PHẬT CHƯA PHẢI LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là
thấy được Phật không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! Đúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật
là thấy được Phật". Phật dạy: "Ông hiểu lầm rồi ! nếu thấy 32
tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy được Phật, thì Vua Chuyển
Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua
Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! Con hiểu ý Phật rồi, không thể cho thấy
32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp: "thấy sắc thân của
Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ 4 (lần 1, 2, 3 ở đoạn
7, 25, 3) nói về viễc thấy Phật .
- Muốn rõ
thêm đoạn này, tôi xin nhắc lại một lần nữa:
- Thuở xưa,
có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến yết kiến Phật. Đi nữa
đường, một vị vì sợ phạm giới, không uống nước có sinh trùng,
nên bị khát chết. Một vị kia nhờ uống nước được sống, đến yết
kiến Phật.
- Phật quở:
"Ông Tỳ kheo kia giữ giới, không uống nước tuy chết, nhưng ông
đã thấy ta trước rồi. Còn ông không giữ giới, tuy sống đến yết
kiến ta, nhưng ông lại cách ta ngàn dặm !".
- Vậy thì,
thấy Phật là thấy cái gì? Không thể cho thấy sắc thân có 32
tướng tốt của Phật, mà cho là thấy được Phật. Bởi thế nên Phật
nói: "Nếu thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy đượ Phật, thì vua
Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy
thì vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".
- hay Phật
tánh mói hiện. Đó mới là thật thấy Phật.
- Ngộ được
nghĩa lý uyên thâm của đoạn này, nên Cổ nhơn có làm bài tụng
như sau:
-
Nguyên văn (dịch âm)
-
Phật tức tâm hề tâm tức Phật
-
Tâm Phật tùng lai giai vọng vật
-
Nhược tri vô Phật phục vô tâm
-
Thỉ thị chơn như pháp thân Phật
-
Dịch nghĩa:
-
Phật tức là tâm, tâm tức Phật
-
Tâm Phật cả hai đều vọng vật
-
Người ngộ vô tâm và vô Phật
-
Liền chứn chơn như pháp thân Phật
- ĐẠI Ý BÀI
TỤNG
- Phật tức
tậm, tâm tức Phật. Tâm và Phật chỉ là hai danh từ để gọi mà
thôi, chớ không có cái gì chơn thật. Nếu người diệt trừ các vô
minh vọng chấp, ngộ được lý Phật và tâm đều không, thì người
ấy sẽ chứmng đặng chơn như hay Pháp thân Phật.
- ***
-
61.PHẬT NÓI BÀI KỆ
PHÁ CÁI CHẤP "THẤY PHẬT BẰNG SẮC TƯỚNG, NGHE PHẬT BẰNG ÂM
THANH"[^]
- Khi đó, đức
Thế Tôn nói tiếp bài kệ rằng:
-
Nếu thấy ta bằng sắc tướng
-
Nghe ta bằng âm thanh
-
Người này đi đường tà
-
Không thấy được Như Lai.
- LƯỢC GIẢI
- Bài kệ này
tóm lại đoạn trên, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp
"thấy Phật qua sắ tướng của Phật " và "nghe Phật qua âm thanh
của Phật ".
- Đoạn trên
đã giải nếu chấp sắc thân có 32 tướng tốt của Phật là Phật,
thì vua Chyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như
Phật, vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?
- Nếu chấp
tiếng nói thanh thao vi diệu của Phật là tiếng Phật, thì tiếng
chim Ca Lăng Tần Già, cũng thanh thao vi diệu như tiếp Phật,
vậy tiếng chim Ca Lăng Tần Già cũng là tiếng Phật hay sao?
- Tóm lại,
phải phá trừ các vô minh vọng chấp, nhập Kim Cang Bát Nhã, mới
thật thấy và nghe được Phật. Trái lại, nếu còn vô minh vọng
chấp, chấp sắc tướng hay âm thanh của Phật, không nhập được
Kim Cang Bát Nhã, thì không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế
nên Phật quở: "Người này đi đường tà (vọng), không bao giờ
thấy được Như Lai".
-
62. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "KHÔNG" (TỨC LÀ CHẤP ĐOẠN DIỆT)[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai không thừa nhận
thân tướng ,tốt đẹp này là thân Phật". Tại sao vậy? _ Nếu
người phát tâm Bồ Đề mà nghĩ như vậy, thì mắc về cái chấp
"đoạn diệt". Tu Bồ Đề ! Người phát tâm Bồ Đề, đối với các
pháp, không nên chấp "đoạn diệt" (chấp không).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp "sắc thân đủ 32 tướng
tốt của Phật không phải là Phật".
- Đúng theo
tinh thần kinh Bát Nhã, thì phá hết các chấp: ngã, pháp hữu,
vô v.v...lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay Bát Nhã v.v...mới
hiện.
- Bởi thế nên
"chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật là Phật", đã bị Phật
quở là "lạc vào đường tà, không thấy được Phật"; mà "chấp sắc
thân đầy đủ tướng tốt của Phật, không phải là Phật", cũng bị
Phật quở là "chấp đoạn diệt" nghĩa là "chấp không", thuộc về
"đoạn kiến ngoại đạo".
- Chấp "có"
(chấp thường) chấp "không"(chấp đoạn) cũng đều là vọng chấp
cả, không thể chứng đặng Đạo Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy:
"Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nên chấp đoạn
diệt".
- Kinh chép:
-
Nhược nhơn dục thức Phật cảnh giới
-
Đương tịnh kỳ ý như hư không
-
Dịch nghĩa:
-
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
-
Tâm phải thanh tịnh như hư không
- ĐẠI Ý
- Người muốn
nhập cảnh giới Phật hay chứng đạo Bồ Đề, thì phải xa lìa các
vọng chấp: có, không, đoạn, thường v.v...giữ tâm ý thanh tịnh
như hư không
- ***
-
NGƯỜI BỐ THÍ VÔ SỐ
BẢY BÁU[^]
- Phật day:
"Tu Bồ Đề ! Nếu các vị Bồ Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong
hằng sa thế giới, đem bố thí; và có vị Bồ Tát ngộ "tất cả pháp
không thật" (nhứt thế pháp vô ngã) và chứng đặng "pháp không"
(pháp nhẫn) thì công đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều hơn vị
Bồ Tát trước. Tại sao vậy? Vì vị Bồ Tát sau này không lãnh thọ
phước đức".
- Tu Bồ Đề
bạch Phật: "Bạch Thế tôn ! Tại sao Bồ Tát không lãng thọ phước
đức". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát làm các việc phước đức,
nhưng không tham trước, nên nói Bồ Tát không lãnh thọ phước
đức
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này có
Bồ Tát nhập Kim Cang Bát Nhã chứng được "các pháp vô ngã" (vô
sanh pháp nhẫn) nên làm các việc phước đức, mà không tham
trước, không mong cầu về mình, không chấp tướng phước đức, nên
phước đức nhiều hơn vị Bồ Tát bố thí bảy món báu đựng đầy
trong hằng sa thế giới.
- Người đem
tâm vọng chấp ngã, pháp của phàm phu, mà làm các việc phước
đức, dù phước đức ấy có nhiều đến dâu, cũng thuộc về hữu vi
hữu lậu của thế gian phàm phu mà thôi.
- Trái lại,
nếu người đem tâm thanh tịnh, không chấp ngã, chấp pháp, hợp
với tánh Bát Nhã chơn không, mà l;àm việc phước đức, không
tham cầu phước đức riêng về phần mình, thì người này mặc dù
làm rất ít, mà phước đức nhiều vô tận; vì phước đức này thuộc
về vô lậu thanh tịnh.
- Giải thích
đoạn này. Ngài Trí Giả Đại sư làm bài tụng:
-
Nguyên văn (dịch âm)
-
Tam thiên đại thế giới
-
Thất bảo mãn kỳ chung
-
Hữu nhơn trì bố thí
-
Đắc phước giả như phong
-
Du thắng xan tham giả
-
Vị đắc đạt chơ tông
-
Chung tu tứ cú kệ
-
Tri giác chứng toàn không
-
Dịch nghĩa:
-
Cả đại thiên thế giới
-
Đựng đầy bảy món báu
-
Bố thí để cầu phước
-
Đặng phước cũng như gió
-
Còn hơn người bỏn xẻn
-
Chưa hiểu nghĩa chơn thật
-
Trì tụng bốn câu kệ
-
Mới ngộ được lý không
- ĐẠI Ý BÀI
TỤNG
- Người đem
bảy báuđựng đầy một nghìn triệu thế giới nhỏ, để bố thí, được
phước đức tuy nhiều, nhưng không lâu dài, như gió thổi qua;
không bằng người tỏ ngộ lý chơn không của kinh Bát Nhã, sẽ
đặng phước vô lậu thanh tịnh.
- GIẢI DANH
TỪ
- "PHÁP
KHÔNG" (hay PHÁP NHẪN): bản thề chơn như thanh tịnh; nhưng vì
mây ngã pháp che mờ. Hành giả tu hành phá trừ được ngã chấp
(ngã không) thì một phần chơn như hiện ra, nên gọi là "ngã
không chơn như"; phá trừ pháp chấp (pháp không) thì một phần
nữa chơn như hiện ra, nên gọi là "pháp không chơn như".
- Chứng được
lý ngã không (sanh không) và pháp không, thì gọi là "nhị không
chơn như" tức là đặng "vô sanh pháp nhẫn", (chứng đặng ngã
pháp đều không).
--o0o--
|
|