-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- KIẾN THỨC
CĂN BẢN PHẬT GIÁO
-
- CHƯƠNG 2
- CẢNH GIỚI
-
-
1.- CON NGƯỜI THEO QUAN NIỆM PHẬT
GIÁO NHƯ THẾ NÀO ?
- Con người là
một trong những loài động vật có lý trí ở trên thế gian. Chung
quanh thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều loài khác nữa. Vậy
thì theo quan niệm của Phật giáo, con người chiếm một địa vị ra
sao ?
- Ở trong sáu
đường (thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc- sanh), con
người đứng hàng thứ hai sau chư thiên thần, như thế hẳn nó phải
mang một tính chất gì đặc biệc ! Chư Thiên do tu 10 điều thiện mà
thành, còn con người nhờ biết giữ gìn giới (không trộm cắp, không
tà dâm, không nói dối, không uống rượu) mà được báo thân trong đời
nầy. Trong trường hợp người không tin theo Phật giáo thì sao ? Đây
là luật tự nhiên hình thành, dù tin hay không, cái nhân làm người
vẫn đều do các yếu tố kia kết nạp lại, không ai chối cải được cả.
- Có thể nói con
người có lý trí, tư tưởng để cân nhắc việc lợi hại, đúng sai,
trong khi đó loài động vật cũng có trí hiểu biết nhưng lại thiếu
phần tư tưởng. Sự khác nhau là ở điểm nầy. Con vật nhiều lúc cũng
biết mừng giận ghét thương như người và chúng cũng quý đời sống
hơn là phải đi vào chỗ chết, như con heo, con chó, gà, vịt ta nuôi
trong nhà lâu ngày là một điều dễ hiểu.
- Mặt khác, con
người rất khôn ngoan nhưng lại là con vật yếu đuối không thể tưởng
tượng được, nhất là lúc mới sanh.
- Con người không
biết tu nhân tích đức, sau khi chết cũng phải bị đọa lạc như các
giống vật khác.
-
2.- THẬP NHỊ XỨ LÀ GÌ ?
- Thập nhị xứ là
mười hai xứ hay nơi chốn tùy thuộc vào các yếu tố như : sáu yếu tố
thuộc về cơ thể và sáu phần còn lại thuộc về hoàn cảnh bên ngoài
(sáu nội xứ và sáu ngoại xứ) hợp thành con người và cuộc sống hiện
tại.
- Sự phân biệt
của ta do 5 yếu tố như màu sắc, lãnh thọ, tư tưởng (nghĩ), hành vi
và phần quan trọng là nhận thức, gọi là năm uẩn (chỗ chứa nhóm),
hợp lực với 6 căn (1) hay là 6 nội xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý cùng với 6 trần (2) là màu sắc, âm thanh, mùi vị, tiếp xúc
hay đụng chạm và các pháp hay còn gọi là 6 ngoại xứ hình thành
mười hai xứ.
- Mắt để nhìn và
phân biệt màu sắc, tai để nghe các âm thanh động tịnh, mũi để hửi
mùi hôi, tanh, thơm, thối, lưỡi nếm qua các vị ngọt, lạt, chua,
cay, thân thể phải đụng chạm với hoàn cảnh trong hàng ngày, ý hợp
với các pháp bên ngoài tức là cảnh trần và được gọi một cách nôm
na là thập nhị xứ.
- Có thể tóm lược
6 nội xứ và 6 ngoại xứ trong bản sau :
- 12 xứ
- 6 nội xứ 6
ngoại xứ
- mắt tai mũi
lưỡi thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp
- Xứ còn có nghĩa
là nơi hay điểm phát xuất, tức là điểm tựa để cho tâm phân biệt
được thế giới vạn vật bên ngoài.
- (1) Căn là gốc,
căn cứ, điểm phát sinh.
- (2) Trần là
cảnh trần, bụi bặm.
-
3.- THẬP BÁT GIỚI LÀ GÌ ?
- Như trên đã
trình bày, 12 xứ gồm 6 nội xứ và 6 ngoại xứ cộng thêm với 6 thức
hợp thành 18 giới.
- Chữ Giới có
nghĩa là giới hạn hay phạm vi nào đó mà mỗi phần của tâm, cảnh,
thức hay thân nương gá vào nơi mỗi cơ quan hoạt động để hoàn thành
được việc nhận thức.
- Mười tám giới
được chia ra làm 3 phần như dưới đây :
- Sáu thức : Nhãn
thức, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý thức tức là cái biết hay điều phân
biệt của mỗi cơ quan.
- Sáu nội xứ :
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
- Sáu ngoại xứ :
màu sắc, âm thanh, mùi, vị, tiếp xúc và các pháp.
- Như vậy, 6 thức
và 6 nội xứ giống hay khác nhau ? Về hình thức giữa 6 thức và 6
nội xứ tuy giống nhau, nhưng về sự phân biệt nhận thức thì hoàn
toàn khác biệt. Trong mỗi cơ quan : Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý
còn có chữ thức kèm theo, tức là hàm ý nói do sự nhận thức bên
trong. Còn 6 nội xứ là phần tự nhiên, mặc dù không ý thức tới
ngoại cảnh chúng ta cũng có thể biết được mọi vật một cách tổng
quát.
- Hiểu biết và
phân biệt là 2 khía cạnh khác nhau, nếu rõ được điều đó tức là ta
phân biệt được dễ dàng 18 giới.
-
4.- THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO TAM
GIỚI LÀ GÌ ?
- Hầu hết chúng
ta sống ở cõi nầy và chỉ biết được những gì trong phạm vi hữu hạn
mà thôi. Theo như khoa học cho biết thì ngoài thế giới nầy, còn có
những thế giới khác mà Phật giáo gọi là tam giới.
- Tam giới gồm có
Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Giới hay cõi đều có nghĩa như
nhau. Con người ở cõi Dục luôn luôn nghĩ tới những thỏa mãn vật
chất, danh vọng hay địa vị cao sang và chính chúng ta đang sống
trong cõi dục nầy. Sắc-giới cao hơn một bậc, ở đó không còn có
những ham muốn thô như cõi dục mà chỉ có những hình sắc, âm thinh
làm cho con người say đắm, nhưng vẫn còn bị sa đọa một khi hết
phước như các tiên nhân chẳng hạn. Vô-sắc-giới là cảnh giới không
còn có hình sắc, tướng mạo và là cõi trời như phi-tưởng,
phi-phi-tưởng-xứ. Con người nhờ tu hành 10 điều thiện mà đạt được
phước báo ở cõi nầy và vẫn còn bị vướng mắc vào sự chấp có, chấp
không nên chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ngoài vòng sanh tử luân
hồi. Nói một cách khác, tất cả các chúng sanh trong 3 cõi đều còn
phải bị kiếp luân hồi, tức là khi hưởng hết phước vẫn phải bị sa
đọa. Tuy nhiên con người sống ở cõi Sắc và cõi Vô-sắc nhờ đã dày
công tu luyện mà thành, nhưng còn bị một phần của nghiệp lực chi
phối, do đó chưa giác ngộ hoàn toàn được.
- Ở mỗi cảnh giới
đều có sự sinh hoạt khác nhau. Chúng ta ăn uống bằng thức ăn,
người ở cõi Sắc thọ thực bằng nhạc trời và muôn ngàn chất hoa thơm
thiên nhiên khác và cõi Vô-sắc thưởng thức món ăn qua giác quan là
đủ. Con người ở đó bay đi tự tại qua lại trong các cõi khác.
- Hưởng được phúc
đức như các cõi trời gọi là sung sướng nhưng vẫn còn bị luân hồi,
người Phật tử chân chánh không cầu mong như thế.
-
5.- CỬU PHẨM LÀ GÌ ?
- Cửu phẩm là
chín bậc sắp xếp theo thứ tự 9 bậc cao thấp khác nhau cho việc tu
giải thoát và dùng cánh hoa sen để tượng trưng. Cửu phẩm hay chín
phẩm hoa sen phân ra như sau :
- Thượng phẩm :
Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.
- Trung phẩm :
Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.
- Hạ phẩm :
Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.
- Trên hoa sen có
9 cánh, xen kẻ vào nhau, gồm có 3 tầng : Tầng trên cùng, tầng giữa
và tầng dưới.
- Người nào khi
chết thoát sanh vào được phần trên hết gọi là Thượng-phẩm
thượng-sanh, cho đến cánh hoa sau chót là Hạ-phẩm hạ-sanh. Dù có
phân ra Hạ, Trung, Thượng nhưng đều trong cùng một cánh hoa sen.
Tu hành được lên cửu phẩm sen, sau khi lìa cõi đời nầy là người đã
dày công thực hành Phật giáo lúc sống. Chín phẩm hoa sen chỉ có ở
thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà. Trong các lễ cầu siêu,
chúng ta thường nghe chư Tăng phục nguyện "thoát hóa liên đài"
(thoát sanh vào cánh hoa sen) hay trong bài Hồi-Hướng có câu "Cửu
phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất-thối
Bồ-Tát vi bạn lữ" (chín phẩm hoa sen là cha mẹ, Hoa nở ta gặp được
Phật và ngộ đạo mầu chứng lý vô sanh, vì tất cả các bậc Bất-thối
Bồ-Tát là bạn hữu). Ở đời chúng ta chỉ cần thành tâm niệm danh
hiệu đức Phật A-Di-Đà và tụng kinh, trì chú, đến lúc quá vãng sẽ
được Ngài tiếp rước thần hồn đưa về thế giới Cực-Lạc, tùy theo
công tích của người để được định lượng vị trí nơi chín phẩm hoa
sen.
- Phật tử chúng
ta nên cố gắng tu phước huệ thế nào để sau khi trả báo thân nầy có
thể lên được đài hoa sen báu nơi cõi An-Lạc Tây- phương.
-
6.- NIẾT BÀN LÀ CẢNH GIỚI NHƯ THẾ NÀO
?
- Niết-Bàn
(Nirvana) là trạng thái vắng lặng an vui mà chỉ có các bậc tu
chứng mới đạt ngộ được.
- Chỗ cứu cánh
của Phật giáo là tu để đạt đến Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn không
phải là thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà, lại cũng không phải
là cảnh sung sướng tuyệt đỉnh như một số người nghĩ mà là nơi tịch
tịnh vượt ra ngoài ngôn ngữ nghĩ bàn của chúng ta. Chư Phật và các
vị Bồ-Tát đã chứng đắc mới biết rõ được trạng thái của cảnh ấy mà
thôi. Muốn diễn đạt theo ngôn ngữ thường của chúng ta để chỉ rõ
Niết-bàn thì cảnh giới ấy ra sao ?
- Căn cứ theo tư
tưởng Đại-thừa Phật giáo, Niết-bàn không ở đâu xa lạ mà ngay trong
đời sống hiện tại cũng có thể chứng minh được. Chẳng hạn, nơi mỗi
hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của ta làm việc lành, tự nhiên tâm hồn
được thoải mái an vui, đó chính là trạng thái không ràng buộc, là
cảnh giới Niết-bàn, giải thoát rồi vậy.
- Thật vậy,
Niết-bàn đồng nghĩa với giải thoát, chỉ khi nào tâm tư chúng ta
không bị câu thúc bởi phiền não, tham đắm và vọng chấp mê lầm thì
đó là Niết-bàn. Nói như thế không có nghĩa là chủ trương xóa bỏ
cảnh Niết-bàn thật sự mà để chứng minh cho dễ hiểu cái lý thú của
trạng thái giải thoát thôi. Đối với người đã nghiên cứu nhiều về
Phật giáo có thể hiểu tinh thần của Niết-bàn không câu chấp, nhưng
người chưa có cơ duyên với Phật Pháp phải có một cảnh giới thực
thể ở ngay trước mắt và bên kia nhãn giới, vì có được như vậy thì
những kẻ thực hành đúng mức tinh thần lợi tha, vô ngã của Phật
giáo mới có được điểm tựa nhắm tới sau khi bỏ Báo thân nầy.
- Phật giáo không
chủ trương ru ngủ con người, bằng cách đưa ra một cảnh giới hoàn
toàn an vui giải thoát để mê hoặc sự dễ tin của quần chúng mà
chính chúng ta phải đích thân thực hành rồi tùy theo trình độ hiểu
biết của mình mà cảnh Niết-bàn sẽ là đáp số cho việc tìm hiểu của
mỗi người.
- Niết-bàn được
quan niệm như là một thực thể chỉ có khi nào chúng ta đã diệt trừ
được mọi phiền não vi tế mới có thể chứng biết được trọn vẹn.
-
7.- HÃY NÓI VỀ CẢNH GIỚI CỰC LẠC CỦA
ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ ?
- Người tu theo
pháp môn "Tịnh-độ" chuyên việc tụng kinh và niệm danh hiệu đức
Phật A-Di-Đà luôn luôn nghĩ tới cảnh giới Cực-Lạc và cầu mong được
sanh về đó sau khi chết.
- Nơi đó, theo
như kinh A-Di-Đà diễn tả, thì có ao bảy báu, nước tám công đức,
trong nước có cát vàng trải làm đất, bốn bên có mành lưới bao bọc,
cây cối xanh tươi suốt quanh năm. Ngoài ra còn có cả ngọc xa-cừ,
lưu-ly, pha-lê lót dưới lối đi để trang sức cho cảnh trí nữa. Mặt
khác, con người cảnh Cực-Lạc đẹp đẽ, tướng mạo trang nghiêm,
thường được trẻ mãi không già. Chính đức Phật A-Di-Đà có phát lời
thệ nguyện là cứu độ hết tất cả chúng sanh để đưa về cảnh giới
Cực-Lạc rồi Ngài mới thành đạo chứng quả. Ở Việt-Nam pháp môn
Tịnh-độ thịnh hành nhất từ đời Lý Trần. Thời kỳ nầy Phật giáo phái
Thiền pha lẫn lộn với Tịnh-độ và Mật-giáo. Pháp môn tu Tịnh-độ rất
đơn giản bằng phương pháp niệm Phật. Đức Phật A-Di-Đà thường được
xưng niệm danh hiệu trong lúc niệm Phật. Người thực hành miệng
niệm, tâm nhớ nghĩ tới Phật, gạt bỏ mọi ý niệm xấu ác khác xen tạp
vào trong tâm tưởng, tức là phải có sự chí thành thì mới có sự cảm
ứng để gần gũi được thế giới Cực-Lạc và niệm cho tới khi thuần
thục mới đạt được điều lợi ích.
- Việc niệm Phật
rất dễ thực hành, ai cũng có thể làm được, không luận già trẻ lớn
bé. Nhất là những vị lớn tuổi thường để ra hằng giờ mỗi ngày để
niệm Phật. Nhờ công đức niệm Phật mà có người biết trước được giờ
chết và dặn dò con cháu những điều tâm phúc hay tắm rửa sạch sẽ
trước khi nhắm mắt lìa đời. Đối với kẻ làm ác thì khó mà hưởng
được phút vui hiếm có nầy, như những người lúc sống làm việc mổ
thịt trâu bò, cắt tiết heo, dê đến khi chết như có ai tới đòi đền
mạng nên họ không thể nào nhắm được mắt, lại còn phải chịu vậy
vùng đau đớn, có khi còn la rống lên lớn tiếng rồi mới tắt hơi
thở. Vậy thì còn chần chờ gì nữa mà chúng ta không tu để được về
thế giới giải thoát an vui của cảnh Cực-Lạc. Ở đó có nhạc trời tấu
khúc, chim hót líu lo suốt bốn mùa và mọi phiền lo như đều được
lắng sạch, cho đến món ăn đều hoàn toàn bằng pháp thiền định vui
vẻ.
- Tu mau kẻo trễ
là một cách khuyến khích mọi người cố gắng thực hành theo pháp môn
niệm Phật cầu vảng sanh sau khi chết đã được nhiều người tin
tưởng, áp dụng.
-
8.- THEO PHẬT GIÁO ĐỊA NGỤC LÀ CẢNH
NHƯ THẾ NÀO ?
- Cảnh địa ngục
có phải là một cái cớ để dọa nạt mà đạo Phật cố tình đưa nhân sinh
vào con đường cùng không lối thoát hoặc lợi dụng lòng tin của
người đời để ru ngủ như đã có người nghĩ không ?
- Địa ngục là
cảnh có thật với đủ các hình phạt để xử trị kẻ nào ở thế gian làm
việc ác, khi chết oan hồn đi vào đó nhận lấy quả báo. Các hình
phạt được ghi nhận là : Ngục thiết-hoàn (vòng sắt nóng), cưa xẻ,
đập (đánh, tra tấn, xiềng, kẹp v.v..). Do đó, nhiều người khi nghĩ
tới cảnh địa ngục liền phát rợn tóc gáy lên. Có nhiều sự tích còn
chứng minh đầy đủ có cảnh giới tối tăm bẩn thỉu nầy. Ngay cả những
người ngồi đồng thiếp hồn cũng đi vào chốn địa ngục và chứng kiến
được cảnh tra tấn rùng rợn ở đó về thuật lại. Sư Từ-Đạo-Hạnh tìm
cách báo thù cho cha, ông Từ-Vinh bị chết oan do tay Pháp-sư
Đại-Điên trù yếm, sau đó món nợ máu đã trả xong mới được yên
chuyện. Bà Thanh-Đề bị hành hạ trong kiếp đói khát ở cảnh địa ngục
... là những chứng minh cho thấy được hình tướng của cảnh giới địa
ngục như thế nào. Nói về sự tướng thì luận như thế, còn đứng về
mặt lý, nhất là căn cứ theo hành vi thiện ác trong đời hiện tại,
thì chính những việc đau đớn, đọa đày, ức hiếp, bị tù hảm giữa xã
hội loài người bây giờ, chúng ta cũng có quyền kết luận được đó là
thế giới của đọa lạc, đau thương. Đối với người nào chưa hiểu về
lý, chúng ta phải chỉ ra được địa ngục có hình tướng dài ngắn, lớn
nhỏ ra sao để hướng dẫn họ cách tu và tìm ra con đường thoát khỏi
sự ràng buộc u tối kia.
- Chỉ có tư tưởng
của Đại-thừa Phật giáo mới chứng tỏ được cái viên dung vô ngại mà
người bình dân cũng như giới trí thức đều học hỏi tu tập để mong
thoát khỏi địa ngục.
- Tùy theo trình
độ của người cao thấp mà đạo Phật hướng dẫn cho kẻ tu hành đạt đến
giải thoát khỏi vòng sanh tử để chứng nhập Niết-bàn tịch tịnh, tức
là không còn bị đọa lạc vào cảnh giới khốn khổ lầm than ...
-
9.- CẢNH GIỚI CỦA NGẠ QUỈ Ở ĐÂU ?
- Cảnh ngạ quỉ
tức là cảnh giới mà nơi đó chúng sanh phải chịu đói khát, bị hành
phạt đau đớn về thể xác lẫn tinh thần.
- Những ai sống ở
đời có tính tham lam, keo kiệt như có tâm bòn rút của người để thu
lợi về cho mình, lúc chết phải chịu cảnh đọa đày, lạnh lẽo đói
khát. Hành động bẩn thỉu của con người nơi trần thế kéo theo cho
tới lúc chết phải bị đọa vào kiếp đói khát trong loài quỉ để trả
cho xong món nợ truyền kiếp ở đời. Loài quỉ đói được kể rằng có
nhiều hình tướng khác nhau như quỉ một giò, quỉ sứ, quỉ hóa đá,
quỉ đoạt mệnh, quỉ đói, quỉ ưa phá phách v.v... Con quỉ có thể
không giống với hình người. Chúng có hình lông lá dễ sợ và thường
sinh sống cạnh thế giới loài người, vì nghiệp nặng, những hồn oan
của người khi chết không đi đầu thai được nên hóa thành quỉ và ở
lơ lững giữa từng không như một thế giới vô hình mà mắt thường của
ta khó hình dung ra được.
- Không luận Phật
giáo mới nói tới cảnh ngạ quỉ, nhiều người cũng kể lại rằng chính
họ đã thấy được loài quỉ dữ. Có một điều lạ lùng là trong thời
buổi chiến tranh, có nhiều tiếng vũ khí nên loài quỉ cũng ít thấy
xuất hiện nơi thế giới loài người, có lẽ chúng sợ binh khí chăng
?
- Quỉ là một vấn
đề lớn mà các nhà khoa học không thể nào giải thích nổi, theo Phật
giáo, những người chết oan ức linh hồn không đi đầu thai được và
còn vất vưởng nơi đình miếu, gốc cây để khuấy phá người đời. Do
đó, Phật giáo có những cuộc lễ như chẩn tế cô hồn vào dịp lễ
Vu-Lan rằm tháng bảy để nhờ lời kinh kệ và hơi hương khói mà các
hồn oan được ấm lòng đi đầu thai ở kiếp khác.
- Muốn biết sau
khi chết chúng ta thành kiếp gì, chỉ cần nhìn vào hành vi của việc
làm hiện tại để có thể đoan chắc đúng được 90% theo luật nhân quả
luân hồi, không hề sai lệch.
-
10.- SÚC SANH LÀ LOÀI GÌ VÀ CHÚNG
SINH HOẠT Ở ĐÂU ?
- Súc sanh là
giống thú hay còn gọi là loài lục súc như : Trâu, dê, heo, ngựa,
chó, gà là sáu loài vật được người ta nuôi dưỡng trong nhà để
chúng phục vụ cho người.
- Mỗi khi giận
người nào ta thường nghe kẻ ấy dùng câu chửi rủa là : "Đồ súc
sanh", tức có ý ám chỉ cho kẻ đối diện là thứ trâu bò ngu ngốc
không ra gì cả. Con trâu và con ngựa được coi là loài động vật
nặng nghiệp nhất phải mang kiếp kéo cày, kéo xe để trả nợ, vì kiếp
trước chúng vốn đã tạo ra nhiều ác nghiệp. Do đó, để thỏa mãn cơn
giận của mình, người ta ưa dùng lời độc địa nặng nề đối với kẻ
khác. Nhưng tất cả loài người đều ghét ai gắn cho mình điều xấu
xa, sỉ nhục ấy, vì đó là một sự xúc phạm đến danh dự kẻ khác một
cách trầm trọng và như thế cũng có nghĩa rằng chính mình không
muốn bị gán ghép cho những lời bất hão hạ cấp ấy, thì đừng mở lời
độc ác xấu xa để làm cho người phải buồn khổ. Mặc dầu những giống
vật nầy được chúng ta nuôi dưỡng, bảo hộ. Người Nhật cấm ăn thịt
chó, nếu ai phạm sẽ bị phạt nặng. Người Ấn-Độ cấm ăn thịt bò, vì
bò được xem như vật tổ, nên tuyệt đối cấm giết hại chúng. Người
Việt-Nam theo đạo "Ông" không ăn thịt trâu v.v.. là những hình
thức tôn trọng loài vật.
- Lục đạo, theo Phật
giáo, thì loài súc sanh được liệt vào hàng thức sáu (Nhơn, Thiên,
A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh) vì được xem như giống dơ
dáy, xấu xí nhất vậy. Chúng ta phải biết tôn trọng loài vật, đừng
đánh đập hành hạ chúng cách tàn nhẫn mà phải bảo vệ tất cả mọi
loài.
- Kiếp của loài
súc sanh rất khổ sở, vì chúng phải chịu đủ mọi cực hình do loài
người và các loài vật mạnh khác lấn hiếp.
-
11.- CÁC CÕI THIÊN CÓ LỐI SINH HOẠT
NHƯ THẾ NÀO ?
- Thiên là trời,
tiếng dùng để gọi chung cho tất cả các cảnh giới trên thế giới của
loài người. Các cõi trời được ghi nhận gồm có 33 cảnh giới khác
nhau.
- Nhờ tu theo
pháp Thập thiện (10 điều lành), sau khi mãn báo thân nầy ở đời,
con người được sanh lên các cõi trời Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Cõi
trời Vô-sắc-giới có các trụ xứ như : Phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ,
thức-vô-biên-xứ, vô-sở-hữu-xứ ...
- Con người sống
nơi các cõi trời được hưởng mọi sự sung sướng, nhưng vẫn còn phải
bị đọa lạc như con người ở thế gian nầy, nếu hết phước báo mà
không lo tu thiện. Do đó, việc lấy 10 điều lành làm nhân trong
việc tu tập là điều cần thiết để hưởng được quả nơi các cõi trời.
Ngoài ra, thì giờ ở các cõi trời cũng dài hơn ở thế giới chúng ta.
Cõi phi tưởng, con người nơi đó không còn tưởng nghĩ như chúng
sanh cõi dục nữa. Vượt cao hơn thêm một bậc, người ở cõi
phi-phi-tưởng xa lìa tất cả mọi việc nói năng nghĩ bàn. Cho đến
món ăn của họ đều bằng thiền định, thức mặc cũng do thiên y tạo
thành. Cõi thức-vô-biên-xứ, con người không còn trụ tâm vào nơi ý
thức nữa mà đã vượt ra ngoài ngôn ngữ luận bàn của chúng ta. Xa
hơn một từng nữa, cõi vô-sở-hữu-xứ, con người ở đó lìa tất cả mọi
ý nghĩ, sống bằng trực giác, cũng như việc giao thiệp với nhau đều
do trực giác cả.
- Người nơi các
cõi trời có thể bay đi tự tại từ thế giới nầy qua thế giới khác
trong khoảnh khắc thời gian chừng một bửa ăn mà không cần thủ tục
thông hành rắc rối lôi thôi. Mỗi sáng, mọi người tụ tập hội lại
một nơi do hiệu lệnh báo giờ ăn. Thức ăn toàn bằng hương hoa, mỹ
nhạc trổi lên để mọi người tới đó hưởng cái hương vị cũng đủ no,
không cần phải ăn uống thô tục như chúng ta. Sau khi thọ thực
xong, mỗi người ai về cõi nấy và hẹn ngày hôm sau lại gặp nhau ở
một nơi đã định.
- Dù được hưởng
phước báo sung sướng trên các cõi trời, nhưng chưa phải nơi đã
được giải thoát hoàn toàn, cho nên người Phật tử chân chánh cần
nên có thái độ dứt khoát để chọn nghiệp sau nầy.
-
12.- HÃY NÓI RÕ CẢNH GIỚI CỦA LOÀI
A-TU-LA NHƯ THẾ NÀO ?
- Trong ba đường
ác là địa-ngục, ngạ-quỷ và súc-sanh được coi là những nơi xấu xa,
bẩn thỉu nhất, và trên đó một bậc có cảnh giới của loài A-tu-la,
cũng còn nằm trong vòng trầm luân của sáu đường dữ.
- A-tu-la là loài
quỷ thần ở giữa thế giới của loài người. Thần có khi là thiện thần
và có khi là ác thần. Thiện thần thường hay gần gũi, ủng hộ người,
nhưng ác thần lại tìm cách khuấy phá cuộc sống của dân gian. Con
người phần nhiều đều không hiểu nổi loài thần, nên phải cúng cấp,
cầu khẩn để mong được gia hộ, chở che. Những anh hùng, chí sĩ khi
chết trên tên đạn một cách oan ức thường hiện thành thần và được
dân chúng cúng bái đầy đủ, cũng có những ý niệm về loài quỷ thần,
không còn xa lạ đối với chúng ta.
- Cảnh của A-tu-la không có hình
tướng nhất định và loài quỷ thần cũng biến dạng thay hình rất
nhanh chóng. Ngoài ra, thần cũng có thể bay đi tự tại được trong
thế giới như chỗ không người mà ít có ai thấy được hình dung.
- A-tu-la nhiều
khi được người ta kính nể, có lẫn sự căm thù do nhiều nguyên nhân
khác nhau, cho nên dù được coi trọng, chúng cũng phải ở dưới loài
người một bậc.
-
13.- TỨ SANH LÀ GÌ ?
- Tứ sanh là bốn
loài động vật có sanh mạng và hình thành trong một thân xác không
đồng nhau.
- Bốn loài động
vật là :
- - Thai sanh
- - Thấp sanh
- - Noản sanh
- - Hóa sanh
- Thai sanh là
loài động vật thọ hình bằng bào thai như người, trâu, bò, heo, chó
... Con người từ khi thọ thai cho tới lúc sanh ra phải ở trong
bụng mẹ hơn 9 tháng, trong khi đó loài trâu, bò, ngựa có khoảng
thời gian thọ thai lâu hơn lên tới một năm từ lúc bắt đầu tượng
hình cho đến khi ra đời.
- Thấp sanh là
loài vật sanh nơi ẩm thấp như trùn, dế, sâu, bọ, rắn, rết ...
Những loài nầy có thân hình lớn nhỏ không đồng nhau, hoặc có 4
chân hoặc không chân hay nhiều chân ...
- Noản sanh là
loài đẻ trứng như gà, vịt, chim, cá ... Sau khi đẻ trứng, con mẹ
phải ấp trứng một thời gian 20 ngày như gà, chim hoặc 30 ngày như
vịt để sau đó trứng nở thành con. Có một điều đặc biệt hơn cả là
loài đẻ trứng khi vừa nở ra con là có thể chạy nhảy, ăn uống được
tự nhiên rất mạnh khỏe. Trong khi đó loài mang thai cũng có một
hoàn cảnh tương tự, trừ loài người. Người là loài động vật yếu
đuối nhất trong muôn vật. Con người từ lúc sanh ra cho tới khi
biết đi đứng, nói năng phải trải qua từ 8 đến 12 tháng mới thành
được. Lúc đầu con người không tự ăn uống được mà phải do người mẹ
săn sóc sú mớm sữa, cơm hay cháo cho độ 6 tháng sau, em bé mới tập
ăn uống dần dần được.
- Hóa sanh là
loài biến hóa như loài ấu trùng, loài bướm, nhộng, muỗi, ve ...
Chúng phải thay hình đổi xác như lột da hay vỏ để thành một giống
vật khác như con ngài hóa nhộng, tằm hóa bướm, lăng quăng hóa muỗi
v.v...
- Trong bốn loài
động vật đó, loài người được ghi nhận là khôn lanh hơn cả, biết
biến chế đồ vật để sử dụng và có trí khôn tuyệt vời. Nhưng nếu
không tu, con người cũng sẽ bị đọa làm thú sau khi chết. Đó là
luật nhân quả tất định.
-
14.- THAI SANH LÀ LOÀI SINH SỐNG Ở
ĐÂU ?
- Chúng sanh có
rất nhiều loài như sanh bằng cách biến hóa thay hình đổi xác, hoặc
do trứng nở thành, con ở trong bào thai sanh ra gọi là thai sanh.
- Cùng loại với
thai sanh, con người được coi như là giống vật tinh vi nhất, biết
biến chế đồ vật thành đồ sử dụng, đồ trang sức và biết sống nương
tựa lẫn nhau. Con người thời cổ cũng đã biết sử dụng lửa để nung
chín các thức ăn. Trí khôn của loài người đã đạt được đến chỗ
tuyệt đỉnh, biết khám phá ra màn bí mật của vũ trụ và những hiện
tượng thiên nhiên như sấm, chớp, gió, mưa, động đất ... để dự
phòng những tai họa xảy đến. Ngày nay khoa học tiến bộ, con người
đã lên được cung trăng mà năm, mười thế kỷ trước được xem như là
việc quá xa vời và khó khăn. Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận
rằng loài người yếu đuối nhất trong các loài động vật sinh trưởng
trong lốt thai bào. Thật vậy, lúc em bé vừa cất tiếng khóc chào
đời, đã phải do sự săn sóc của người mẹ và trải qua trong vòng 8
tháng, 12 tháng hoặc hơn nữa, trẻ mới tập đi và học nói cũng như
tự ăn uống được một vài thức mềm nhẹ, dễ tiêu hóa. Chính nhà bác
học Pascal (1623-1662) cũng đã nhận xét về con người qua câu nói
bất hủ như sau :
- "L'homme est un
roseau faible dans l'universe, mais un roseau en pensant".
- (Con người là
một cây sậy yếu đuối trong vũ trụ, nhưng là một cây sậy biết suy
nghĩ).
- Thế nhưng các
loài động vật khác có cùng lối sinh nở giống loài người như trâu,
bò, heo, ngựa v.v... khi vừa mới sinh ra là đã biết chạy và ăn
uống mạnh khỏe như thường.
- Loài người chỉ
khôn hơn muôn vật về khía cạnh tư tưởng, nhưng chưa chắc đã giỏi
bằng loài đồng vật về bản năng sinh tồn, làm tổ, di động ...
-
15.- THẤP SANH LÀ LOÀI VẬT NHƯ THẾ
NÀO ?
- Muôn loài, vạn
vật đều ở trong 4 loài sanh sản khác nhau, nhưng cùng là giống
động vật. Phật giáo gọi những loài nầy trong một danh từ tổng quát
là chúng sanh.
- Thấp sanh là
giống vật sanh ra dưới những nơi ẩm thấp, dơ dáy như trong bùn,
trong đất cát có loài trùng, giun (trùn), rắn, rết ... Chúng có
thân hình nhỏ, thường là loài bò sát có chân hoặc không chân.
Khoảng thời gian sanh ra và tồn tại của loài động vật ở những nơi
ẩm ướt thường ngắn ngủi. Chúng thường bị đe dọa, khủng bố, sát hại
bởi các loài vật lớn hơn như là thứ mồi dinh dưỡng. Khi Thái-tử
Tất-Đạt-Đa chưa xuất gia, Ngài có lần đi ngoạn cảnh và chứng kiến
cảnh một người nông dân đang cày ruộng, những loại côn trùng vừa
từ luống đất cày mới lật lên, liền bị loài chim mổ bắt, đàng sau
bầy chim, người thợ săn đang rình bắt chúng.. Cứ như thế mà sự
tranh nhau để sống giữa các loài vật tiếp tục diễn ra thành một
trường tranh đấu chém giết không ngừng. Đây là một trong nhiều
động cơ khiến Thái-tử lìa bỏ ngôi báu để xuất gia tầm đạo.
- Chúng ta vì
nhân danh trí khôn của loài người để sát hại các loài khác không
cùng giống loại. Chư Phật, các vị Bồ-Tát vì lòng bi nguyện, xem
muôn loài, vạn vật đều bình đẳng như nhau. Từ loài bò, bay, cựa,
động thấp nhất như giống côn trùng nhỏ nhoi cho đến các loài cao
đẳng động vật như người đều có thể tiến hóa được nếu biết tu sửa
theo thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo để được thoát kiếp
đi đầu thai ở kiếp sau. Còn như con người nếu không biết tu thiện
vẫn bị đọa làm giống vật như thường.
- Muôn loài vạn
vật nếu biết nhìn nhau bằng con mắt tương ái, không cạnh tranh
chém giết nhau, thì thế giới sẽ bớt cảnh nồi da xáo thịt và các
cuộc chiến tranh đẩm máu không còn xảy ra nữa.
-
16.- LOÀI NOÃN SANH SANH SỐNG Ở ĐÂU
?
- Như trong bài
Tứ Sanh đã trình bày, noãn sanh là một trong bốn loài động vật có
sanh mạng và sống ở trên không, trong đất, dưới nước ...
- Noãn-sanh là
loài đẻ trứng. Từ trứng nở ra thành con như gà, vịt, chim, cá ...
là những loài động vật lớn ta có thể nhìn thấy dễ dàng, nhưng còn
có những loài vật nhỏ hơn cũng sinh nở theo lối để trứng như chí
rận, dán, nhện, kiến, tuy chúng vẫn sống lẫn lộn chung quanh loài
người, lại ít có ai để ý hay lưu tâm tới. Nếu chịu khó tìm tòi,
chúng ta sẽ thấy rằng loài đẻ trứng đông hơn loài người, chúng
sống rải rác thành đoàn thể có tổ chức như kiến, nhện, cá ... hay
sinh hoạt rời rạc như dán, chí ... Loài đẻ trứng thường có mạng
sống ngắn ngủi như loài gà, vịt chỉ sống lâu nhất được 5 năm là
cùng. Dù cho sanh mạng ngắn hay dài, đẹp hay xấu, đạo Phật vẫn tôn
trọng mọi loài đều có một giá trị như nhau. Vì câu nói "Tứ sanh
chi từ phụ" (cha lành của bốn loài) có một giá trị từ bi và bình
đẳng mà chỉ có người Phật tử mới quan niệm được như thế mà thôi.
- Tại sao đạo
Phật lại chủ trương bình đẳng để hạ thấp giá trị con người ngang
xuống với hàng hạ đẳng động vật như thế ?
- Thật ra cái giá
trị không được căn cứ nơi một thân hình to lớn, cũng không phải do
quyền lực và trí khôn để tự nhận mình có giá trị hơn mọi loài mà
là do nơi sức mạnh của tinh thần mới thực tiển, đáng kể. Con người
có giá trị đáng quý thật, nhưng lúc sống ta chỉ biết làm những
việc ác, tới khi chết còn thua kiếp của con vật, thì cái giá trị
nào hơn ?
- Chúng ta đừng
vì cậy thế, ỷ quyền mà coi rẻ sinh mạng của các giống vật khác,
nếu không khéo tu con người cũng sẽ đọa làm loài động vật không
khác.
-
17.- LOÀI HÓA SANH CÓ SỰ SANH SỐNG RA
SAO ?
- Các loài động
vật do sự xếp loại mà thành bộ loại khác nhau. Theo Phật giáo,
chúng sanh là chỉ chung cho 4 loài động vật từ nhỏ đến lớn.
Hóa-sanh được xếp và hàng thứ tư trong 4 loài.
- Hóa-sanh là
loài vật có lối sinh nở bằng cách biến, tức không do từ bao thai
mà ra, cũng không do trứng nở, lại cũng không phải từ nơi ẩm thấp
để thành hình. Chúng từ một giống vật nầy mà hóa ra giống vật khác
như con tằm hòa thành bướm, con lăng quăng hóa muỗi, con ve hóa
hình từ con sùng trong lòng đất mà ra. Loài động vật trong lớp hóa
sanh thường có thân hình nhỏ và mạng sống rất ngắn ngủi như con
lăng quăng chỉ sống được một ngày một đêm, con ve sanh tồn trong
vòng một tuần lễ, mặc dù chúng phải ở trong kiếp trùng dưới đất
suốt từ 5 đến 6 tháng mới hiện được nguyên hình.
- Dù là một sinh
vật nhỏ đến đâu, Phật giáo vẫn quan niệm rằng giữa chúng có một
giá trị ngang nhau. Con người vì không biết hay do khinh thường
các giống vật khác mà không tôn trọng mạng sống của nhau. Cái điểm
cao cả nhất, theo Phật giáo, không phải căn cứ vào sức mạnh hay
mưu mẹo để hơn được các loài động vật khác mà do nơi giá trị tinh
thần mới là điều đáng quý. Loài hóa sanh không nhiều như các loài
đẻ trứng, loài sanh nơi ẩm thấp bẩn thỉu, nhưng không phải ít đối
với chúng ta. Con vật nào có sanh mạng cũng đều biết tham sống và
sợ chết như người cả. Tại sao chúng ta không chịu tìm hiểu ở điểm
nầy giữa các loài vật khác mà chỉ nhìn thấy riêng thế giới của con
người là tối linh, quan trọng ?
- Các loài đều
được coi như có sự bình đẳng trong việc cấu tạo nên thân mạng, dù
chúng mang lớp gì đi nữa, chỉ có đạo Phật mới chủ trương được như
thế mà thôi.
-
18.- TAM THỪA, TỨ QUẢ LÀ GÌ ?
- Quả vị tu chứng
của hàng Tiểu-thừa và Đại-thừa có 3 bậc là Thanh-văn, Duyên-giác
và Bồ-Tát thừa.
- Cả 3 thừa,
Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-Tát tu theo pháp môn gì để chứng đắc
?
- Hàng Thanh-văn
hay còn gọi là Độc-giác nhờ quan sát âm thanh của vạn vật mà thành
tựu, như quan sát chiếc lá rơi, cành cây gãy, sấm chớp v.v... nói
chung, các hiện tượng vũ trụ ... để tìm ra chỗ rốt ráo của lý
duyên sinh trong muôn loài vạn vật. Việc quan sát đến khi được
thành tựu viên mãn, tức là tự giác ngộ hoàn toàn (độc giác).
- Duyên-giác tu
quán pháp 12 nhân duyên để tìm ra chân lý của sự vật. Pháp 12 nhân
duyên là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh, lão tử. Con người và muôn vật ở trong vòng lẩn
quẩn của pháp 12 nhân duyên. Do từ vô minh, con người đi đầu thai
làm thân xác, rồi do hoàn cảnh chung quanh kéo lôi phải lăn lộn
trong cuộc đời để thọ nhận các nghiệp báo từ nhiều đời, mãi cho
tới khi già và chết. Khi chết rồi lại tái sanh và cứ như thế tiếp
tục không lúc nào ngừng nghỉ như bánh xe quay trong vòng tròn, hễ
giáp chu kỳ lại quay tiếp. Người tu quán các pháp ấy để thành đạo
tức hàng Duyên-giác.
- Bồ-Tát nhờ tu
các pháp Lục-độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí tuệ và vạn hạnh mà thành Chánh-giác. Bồ-Tát luôn xả thân
vì người để thực hành hạnh lợi tha. Nơi nào cần tới bàn tay cứu
giúp, vị Bồ-Tát xả thân, ngay trong hiểm nạn cũng vẫn xong xáo thi
hành hạnh nguyện của mình. Hàng Bồ-Tát thế không tiếc thân mạng.
Chúng sanh nào cần tai, mắt, mũi, lưỡi, chân tay để cứu mạng nguy
cấp, Bồ-Tát cho không tiếc, đúng theo hạnh bố thí không sợ sệt,
không so đo, tính toán như ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đã hiện đủ mọi
thân hình để cứu độ chúng sanh.
- Tứ quả là 4 quả
vị tu chứng của riêng hàng Tiểu-thừa gồm có : Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Cách tu tập và dư báo của 4 quả
thánh nầy sẽ nói riêng ở mỗi bài sau.
- Người tu muốn
đạt được quả vị cao phải do cái nhân tu tập cũng như người bỏ vốn
đầu tư nhiều hay ít để được kết quả lớn hoặc nhỏ.
-
19.- TU-ĐÀ-HOÀN LÀ QUẢ VỊ NÀO TRONG
HÀNG THÁNH ?
- Trong hàng
Thánh, tức là bậc đã chứng đắc được đạo quả giác ngộ của Phật giáo
có 4 quả vị thuộc hàng Tiểu-thừa mà Tu-đà-hoàn là quả vị tu chứng
đầu tiên.
- Tu-đà-hoàn hay
còn gọi là Dự-lưu, tức là chỉ cho người mới tu đắc và bắt đầu nhập
vào quả Thánh, nhưng vì còn các trần sa nghiệp (nghiệp quả vi tế
của nhiều đời) nên chưa giải thoát trọn vẹn được. Ngoài ra, còn có
các tên gọi khác cũng để chỉ quả vị Tu-đà-hoàn như Nhập-lưu hay
Nghịch-lưu, tức từ chỗ phàm phu chứng vào được bậc Thánh, vì đi
ngược lại với dòng lưu chuyền của sanh tử để chứng Thánh. Mới nhập
vào dòng Thánh cho nên hành giả còn phải gia công tu tập các pháp
lành để được tiến xa hơn lên ở các quả vị khác trong hàng Thánh.
- Bậc Tu-đà-hoàn
thực hành pháp môn gì mà đạt được, cũng như phải trải qua thời
gian tu tập bao lâu để thành ?
- Tu-đà-hoàn tu
theo pháp Tứ-đế và quán pháp Nhân-duyên, đã đoạn sạch được
kiến-hoặc (cái thấy biết do cố chấp) mà thành. Theo kinh Đại-Thừa
Nghĩa-Chương nói rằng Tu-đà-hoàn là tiếng ngoại quốc, dịch ra
thành 3 nghĩa :
- Thứ nhất, dịch
theo nguyên nghĩa, gọi là Vô-Lậu, tức tu pháp môn vô lậu mà
thành.
- Thứ hai, theo
nghĩa phóng dịch là Nghịch-Lưu, tức là vĩnh viễn không còn chịu
sanh tử trong 3 đường dữ nữa.
- Nghĩa thứ ba,
là Xúc-Trái, tức do cái nhân đã xa lìa 3 đường mà không còn thọ
quả báo trong ấy nữa.
- Trí-Độ-Luận gọi
quả Tu-đà-hoàn là "LƯU", tức là nhập vào một phần trong
Bát-thánh-đạo, cũng có nghĩa là lưu nhập vào cõi Niết-bàn an lạc
vĩnh viễn.
- Từ phàm phu,
muốn chứng nhập vào dòng Thánh, quả Dự-lưu, phải trải qua 3
a-tăng-kỳ-kiếp hay còn gọi là vô-số-kiếp mới thành tựu viên mãn.
Vì phàm phu cho nên chúng ta nghĩ số kiếp như thế là lâu, nhưng
các bậc đã chứng quả Thánh nghĩa đó chỉ là khoảng cách như lúc
khảy móng tay mà thôi.
- Các quả vị tu
đạt được, ta cần phải thực hành mới chứng nghiệm được lời trong
kinh điển, cũng như có uống nước ta mới cảm được vị và việc đả
khát như thế nào.
-
20.- LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT ĐƯỢC LÀ TU
CHỨNG QUẢ ?
- Sống trong một
xã hội có nhiều xáo trộn, tranh chấp diễn ra mỗi ngày, chúng ta ít
thấy có ai tu hành chứng quả ngay trong đời nầy. Trừ những vị
Bồ-Tát ra đời do một nguyện lực để lẫn lộn trong chúng ta, rồi tu
hành đắc đạo, nhưng vì con mắt phàm của người đời khó ai biết
được.
- Việc chứng quả
chỉ có chư Phật và Bồ-Tát mới đạt tới được, còn các vị Tổ cũng tu
chứng, nhưng trong hiện thế chúng ta không thấy được sự nhiệm mầu
mà phải đợi lúc các vị ấy viên tịch (lìa đời) mới hiện ra những
điềm lành. Ví dụ, khi sắp tịch, các vị Tổ thường di chúc lại cho
các đệ tử một ngón tay hay chừa lại cả cánh tay, sau khi đốt xong
mà vẫn không cháy. Gần đây nhất, vào năm 1963, Hòa-Thượng
Quảng-Đức ngồi trong lửa hồng tự thiêu để cúng dường Phật Pháp mà
không hề nao núng trước sức nóng của lửa, điều đó đủ chứng tỏ Ngài
chính là vị Bồ-Tát do một nguyện lực kim cương mới đạt được. Có
những trường hợp, người tu hành thấy mình đi trên hoa sen và thấy
trước mắt hiện ra những thế giới muôn hình đẹp đẻ, đó không phải
là chứng quả mà do ma lực hiện ra để thử thách, cũng như để đo
trình độ tu tập của người ấy đạt tới chỗ thuần thục hay chưa. Cũng
có người phát điên hoặc tâm trí tán loạn do bị ác ma cám dỗ trong
lúc quá chú tâm vào cảnh huyễn tướng để bị lạc mất chánh niệm.
Người nào tu hành đến một trình độ cao như kêu mưa, hú gió và sai
sử được người khác làm theo mệnh lệnh vẫn chưa có thể gọi là người
chứng quả mà phải gọi rằng kẻ đó nhờ tập trung tinh thần nhất quán
mới đạt được thành công như thế trong việc tu niệm.
- Do đó, ta cần
phân biệt giữa chứng quả với những cảnh giới huyễn do mã hiện để
thử thách người tu hành, bằng cách thực hành pháp môn tu quán để
khỏi bị nhận lầm chân và giả.
-
21.- TƯ-ĐÀ-HÀM LÀ GÌ ?
- Tư-đà-hàm là
quả vị tu chứng thứ hai trong 4 bậc Thánh của hàng Tiểu-thừa, và
do tu nhân gì mà đạt thành ?
- Tư-đà-hàm,
người Tàu dịch nghĩa là Nhất-Lai, tức là còn thọ sanh lại làm
người một lần nữa để tu hành, những nghiệp lực của "tư hoặc" trong
cõi dục còn lại một phần nên chưa hoàn toàn ra khỏi cảnh giới trần
ai được (chín phẩm tư-hoặc : Dục giới, sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sỡ hữu xứ,
phi tưởng phi phi tưởng xứ). Do vướng mắc 3 phẩm tư-hoặc sau cùng
chưa đoạn sạch nên quả tu chưa trọn vẹn, hành giả phải tấn tu thêm
một lần nữa. Chín phẩm tư-hoặc ở trong 3 cõi gồm có 3 bậc thượng,
trung và hạ được nhân lên thành 81 món tư-hoặc cả thảy. Quả vị của
Tiểu-thừa hay 4 quả Thánh của Thanh-văn mà Tư-đà-hàm là bước thứ
nhì trên đoạn đường tu giải thoát vậy. Cũng như người học viên học
cấp bậc Cao-học, còn phải trải qua 2 năm lao lực nữa mới tiến lên
Tiến-sĩ được. Ví dụ như thế có lẽ dễ hiểu cho tất cả những người
quan tâm tới việc nghiên cứu, để biết lý do tại sao người sinh
viên phải vất vả lắm trong việc học hỏi mới thành công. Tu hành
cũng phải trải qua nhiều giai đoạn luyện tập công phu như việc học
mới đạt được kết quả tốt.
-
22.- A-NA-HÀM LÀ GÌ ?
- Quả vị thứ ba
trên đường tu thuộc hàng Thanh-văn là A-na-hàm. Vậy A-na-hàm là gì
?
- A-na-hàm, Tàu
dịch là Bất-Lai, tức là không thọ sanh trở lại nơi đời nầy nữa, vì
đã dứt sạch tất cả tư-hoặc ở cõi dục. Quả vị nầy cũng ví như một
người học sinh, bắt đầu từ vở lòng đi nốt đoạn đường dài suốt 22
năm để lấy được mãnh bằng Tiến-sĩ. Người đổ xong Tiến-sĩ còn có
thể lấy thêm Thạc-sĩ, cũng như thế, hành giả muốn đi nốt đoạn
đường tu niệm phải đạt tới quả A-la-hán sau cùng mới thành công
viên mãn. Người tu đã chứng tới quả A-na-hàm thuộc hàng Tiểu-thừa
Phật giáo, cũng có nghĩa là không còn bị chi phối bởi dòng sanh tử
luân hồi của cõi dục nữa. Cũng cần nói rõ về nghĩa của chữ tư-hoặc
là cái mê lầm về sự, do mê muội nơi sự vật mà ra. Ví dụ : 3 nhu
cầu tối thiểu trong đời sống là sự ăn, mặc và ở khiến cho ta tham
trước. Ý niệm nẩy sinh cùng trong một thân nầy cho nên nó còn có
tên là mê lầm về câu sanh. Muốn tận diệt sự mê lầm đó, cần phải
gắng chí tu trì để từ từ dứt bỏ những điều mê lầm căn bản đó gọi
là tư hoặc.
- A-na-hàm đã trừ
bỏ hẳn những mê lầm căn bản ấy từ thô đến tế để dũng mãnh đứng vào
hàng Thánh mà không sợ bị chi phối bởi nghiệp lực nữa.
- Muốn tu hành
chứng quả, chúng ta phải tinh tấn không ngừng trải quả nhiều đời
nhiều kiếp mới đạt được.
-
23.- A-LA-HÁN LÀ GÌ ?
- Giai đoạn sau
cùng để đạt được mục đích của quả Thanh-văn thuộc Tiểu-thừa Phật
giáo là A-la-hán. A-la-hán là gì, và tu pháp môn gì mà thành tựu
?
- A-la-hán Tàu
dịch là vô sanh hay Ứng-Cúng, tức là không còn thọ sanh làm người
trong cõi dục nữa mà là bậc đã giác ngộ sáng suốt xứng đáng thọ
nhận của trời và người cúng dường. A-la-hán cũng như cấp bậc
Thạc-sĩ, tức là người đã đạt được quả tu rốt ráo của việc tu tập.
Thế thì quả vị của hàng Thanh-văn đâu có khác với Bồ-Tát ? Chỗ cứu
cánh của bậc Thanh-văn là tu giải thoát lấy mình, trong khi đó
Bồ-Tát không những tự độ cho chính bản thân mà còn cứu độ cho
nhiều người khác đồng tu và đồng chứng quả. Khi đạt đến quả
A-la-hán, hành giả không trở lại trần gian nữa nhưng Bồ-Tát mang
hạnh nguyện từ bi và lăn xã trong đời gần gũi chúng sanh để cứu
giúp cho họ.
- Ví dụ : Hai
Bác-sĩ cùng học tốt nghiệp ra từ một Đại-học Y-khoa. Sau 10 năm
một người giàu có dư dã, còn một người làm việc chỉ vừa đủ tiêu
nhưng thân chủ của ông ta lại là những người rất có nhiệt tình và
thường hay lui tới. Vì tư cách của ông một phần và giá cả phải
chăng cũng là một khía cạnh tâm lý quan trọng.
- Quả tu của bậc
Thánh thuộc Tiểu-thừa cũng như vậy mà A-la-hán là một chứng minh.
-
24.- CHÚNG SANH CHỈ CHO NHỮNG LOÀI
NÀO ?
- Chúng sanh chỉ
chung cho các loài động vật sống trên mặt đất, trên không, kể cả
những loài côn trùng nhỏ nhất như loài bò bay, cựa động ...
- Chúng sanh hiểu
theo Phật giáo có 4 loài : Thai-sanh (loài sanh sản bằng bào thai)
như người, trâu bò, chó, ngựa, heo ...,
- Noãn-sanh (loài
đẻ trứng) như gà, vịt, chim muông ...,
- Thấp-sanh (loài
sanh nới ẩm thấp) như trùng, dế, rắn rết ...,
- Hóa-sanh (loài
sanh bằng cách thay hình đổi lớp) như các loại côn trùng, bướm,
tằm, ngài (nhộng)...
- Như thế, danh
từ chúng sanh dùng để chỉ chung số đông các loài động vật có thân
xác ở trong thai bào sanh ra hoặc do từ trong trứng mà thành hình
hay do nơi ẩm thấp để phát triển. ngoài ra, có loài còn do sự biến
hình đổi xác mà thành được mạng sống.
- Tất cả các loài
chúng sanh đều phải trải qua 4 thời kỳ : Sanh, trụ, dị, diệt (sanh
ra, tồn tại trong một giai đoạn hữu hạn, thay đổi, và cuối cùng
mất đi) hay nói cách khác theo danh từ thông thường cho dễ hiểu là
sanh, già, bịnh và chết, để chỉ cho một giai đoạn từ khi một động
vật có ra cho tới khi tan hoại vào trong lòng đất.
- Loài người nhân
danh có trí khôn hơn các giống khác và có một đời sống lâu hơn mọi
vật khác, phải biết lợi dụng ở điểm nầy để xây dựng xã hội ngày
thêm tốt đẹp theo như tinh thần từ bi của Phật giáo biết tôn trọng
mạng sống của tất cả mọi loài, như bốn đại nguyện của người hành
Bồ-Tát hạnh.
- - Chúng sanh
không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp.
- - Phiền não
không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
- - Pháp môn
không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.
- - Phật đạo
không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.
-
25.- NGŨ ẤM GỔM CÓ NHỮNG GÌ ?
- Ngũ-ấm hay
Ngũ-uẩn là sự chứa nhóm và kết hợp lại của 5 yếu tố căn bản để
hoàn thành con người nơi trần thế.
- Ngũ-ấm gồm có
sắc (mầu sắc), thọ (nhận lãnh), tưởng (tưởng nghĩ), hành (hành
động) và thức (nhận thức hay sự hiểu biết). Nói một cách khác 5 ấm
chia ra thành :
- - Vật chất :
Đất, nước, gió, lửa (tứ đại) tức phần cấu tạo nên thân xác.
- - Cảm giác :
Như các việc vui, buồn, mừng, giận, ghét, thương, việc nhận lãnh,
từ chối ... đều thuộc về phần cảm giác của một người.
- - Tư tưởng : Tư
tưởng là phần quan trọng nhất trong đời người. Tư tưởng còn có tư
tưởng hướng thượng, tư tưởng thấp hèn, tư tưởng bi quan v.v... đều
nhắm tới phần quyết định sự thành bại nên hư trong cuộc đời hiện
tại và cho tương lai hay nói rộng hơn cho cả kiếp sau nữa. Vì thế,
người có tư tưởng đúng sẽ làm việc theo con đường chính nghĩa và
đem lại nhiều lợi ích thực tiển. Còn người có tư tưởng bạc nhược
luôn luôn gieo rắc sự ủy mị chán nản đến cho mọi người và ngay
chính họ cũng đã sóng một cuộc đời bê tha, lây lất.
- - Hành nghiệp :
Tức là hành động và nghiệp lực song hành với nhau. Ta biết làm
điều lành và tâm luôn hướng tới việc thiện thì tự nhiên đời sống
nội tâm sẽ được thư thái dễ chịu. Một khi lỡ làm một việc trái với
lương tâm, ta cảm thấy đau nhói, cắn rứt. Điều đó chứng tỏ rằng
người biết hối lỗi và có thể sống hòa mình với cộng đồng xã hội để
cùng nhau xây dựng một đời sống lành mạnh và tin yêu.
- - Nhận thức :
Phần quan trọng số một đối với người biết thăng tiến cuộc đời
mình. Việc nhận thức lệch lạc sẽ dẫn ta đến bờ vực thẳm của thất
bại, đau khổ. Nhận thức chính là đội quân tiền đạo, thành trì giữ
vững được mọi giá trị tinh thần cho đời sống.
- Năm ấm là đầu dây mối nhợ dẫn dắt
con người vào mọi nẽo đường đời. Muốn cho khỏi rơi vào một thế
giới đen tối sau khi chết, ta phải phát khởi lòng từ bi rộng lớn
đối với mọi loài.
-
26.- THẬP PHƯƠNG LÀ GÌ ? CHÚNG TA
ĐANG Ở PHƯƠNG NÀO ?
- Thập phương nói
cho đủ là thập phương pháp giới chúng sanh, danh từ thường dùng
trong phạm vi Phật giáo để chỉ cho khoảng không gian rộng lớn bao
la, tức là cái vô giới hạn của vũ trụ, vạn vật.
- Thập phương là
10 phương hay 10 hướng là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam,
đông bắc, tây bắc, trên và dưới. Có người còn gọi là 9 phương trời
và 10 phương Phật cũng để chỉ cho cái vô hạn của vạn loại hữu
tình. Sở dĩ gọi 9 phương trời là vị hạ phương tức hướng phía dưới
ta không có ánh sáng mặt trời chói rọi chăng ? Tất cả mọi loài
chúng sanh đều ở khắp trong 10 phương. Từ loài động vật hạ đẳng
cho đến loài Người, Trời, Thần, Tiên, Phật v.v... đều hiện hữu ở
trong các hướng nầy. Chúng ta đang ở phương nào ? Thật khó ai có
thể xác định đúng được vị trí chúng ta ở phương nào. Nhưng căn cứ
vào các cõi thể giới cấu tạo thì thế gian nầy tức là thế giới
Ta-bà mà ta đang sanh sống nằm trong hướng Nam của 4 châu lớn
(Bắc-cu-lô-châu, Tây-ngưu-hóa-châu, Nam-thiệm-bộ-châu,
Đông-thắng-thần-châu). Ngoài ra, trong 10 phương ấy, chư Phật ở
phương nào ? Phật là do Ứng-thân và Hóa-thân mà thành cho nên có
thể hiện thân ở khắp trong 10 phương được tự tại, không có sự ngăn
ngại nào cả, nghĩa là chư Phật qua lại trong 10 phương do sức hiện
thần thông để cứu độ chúng sanh. Chỗ nào cần các Ngài liền thị
hiện ngay đến đó để thuyết pháp và giáo hóa chúng sanh ngay trong
khoảnh khắc. Trong kinh Pháp-Hoa, Phẩm Phổ-Môn thứ 25 có đoạn nói
rằng người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà,
A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân
để được độ thoát thì ngài Quán-Thế-Âm liền đều hiện ra mà vì đó
nói pháp. Đức Bồ-Tát Quán-Thế-Âm do thành tựu các công đức như
thế, dùng các thân hình dạo đi trong 10 phương các cõi nước để độ
thoát chúng sanh, cho nên người nào một lòng chuyên niệm đến danh
hiệu Ngài sẽ được như nguyện.
- Tóm lại, khi
muốn diễn tả một việc rộng lớn ta thường dùng chữ thập phương, như
người ấy ưa làm việc thập phương, vị Tỳ-kheo đi khất thực của thập
phương v.v...
-
27.- ĐẠI-HỔNG-CHUNG CÓ Ý NGHĨA RA SAO
?
- Đại-Hồng-Chung
là cái chuông lớn hay còn gọi là chuông U-minh. Chuông U-minh mang
một ý nghĩa tinh thần rất lớn lao.
- Tiếng vang của
chuông có thể nghe thấu suốt được đến cõi tối tăm u ám nơi địa
ngục, nhờ đó, chúng sanh nào bị đọa vào đó, khi nghe liền được
giải thoát. Ở các ngôi chùa cổ thường có quả chuông lớn để gióng
mỗi ngày hai buổi sáng và tối cho việc cầu nguyện. Giờ gióng
chuông buổi sáng lúc 5 giờ, trước khi tụng thời công phu buổi
sáng. Người thỉnh chông vừa đánh vừa đọc bài kệ.
- Nguyện thử
chung thinh siêu pháp giới,
- Thiết vi u ám
tất giai văn.
- Văn trần thanh
tịnh chứng viên thông,
- Nhứt thiết
chúng sanh thành chánh giác.
- Nghĩa là :
- Nguyện cầu cho
tiếng chuông thấu suốt tới các cảnh giới, nơi tối tăm vây phủ bởi
sắt nóng thảy đều nghe. Khi nghe chuông thì lòng trần (phiền não)
nhẹ, chứng được đạo giải thoát và tất cả chúng sanh cùng thành
chánh giác.
- Chuông thường
gióng 108 lần tượng trưng cho 108 phiền não nơi mỗi chúng sanh mà
cần cầu cho tất cả đều được siêu thoát.
- Buổi sáng sớm
là giờ yên tỉnh, khi gióng lên, tiếng chuông ngân vang có thể nghe
thấu suốt được các cỏi. Buổi tối, giờ ăn của loài quỷ đói, khi
nghe chuông, chúng được nhẹ bớt lòng sân hận mà giải thoát khỏi
kiếp ngạ quỷ.
- Về lịch sử của
Đại-Hồng-Chung, không thấy có sách nào đề cập tới. Theo truyền
thuyết cho rằng chuông do Lương-Võ-Đế (thế kỷ thứ 6) khởi xướng
đầu tiên để cầu nguyện cho các oan hồn bị đọa trong chốn U-minh do
đạo nhãn của ông Chí-Công nhìn thấu suốt được và báo cho vua biết
điềm ấy.
- Việc gần nhất
của công dụng tiếng chuông là đánh thức dân chúng trong làng dậy
để chuẩn bị ra đồng làm việc và giờ tan việc, ở thời buổi mà chiếc
đồng hồ chưa được thông dụng ngày xưa trong các xã hội nông
nghiệp.
-
28.- THẤT TÌNH LỤC DỤC LÀ GÌ
?
- Bảy thứ tình
cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm
chung trong câu nói ngắn gọn là "thất tình lục dục". Vậy 7 thứ
tình cảm và 6 điều ham muốn đó là những gì ?
- Bảy thứ tình
cảm mà mỗi chúng ta đều có như : Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui
vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai,
lạc, ái, ố và dục vậy.
- Bảy trạng thái
tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi nào
gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên
ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời
nói v.v... Như khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt
ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao ; yêu thương
mặt đỏ, nóng bừng v.v... Một trong 7 thứ tình cảm trên thái quá
cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây
ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với
thất tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết
đúng đắn là : Chọn lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ
nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và xã bỏ những ý tưởng thấp
hèn.
- Còn lục dục là
gì ? Lục dục là 6 điều ham muốn đã trở thành thói quen khó sửa đổi
:
- - Sắc dục : Ham
muốn sắc đẹp.
- - Dung mạo dục
: Ưa thích diện mạo đẹp đẽ.
- - Tư thái dục :
Mong có dáng chững chạc, dịu dàng.
- - Muốn đụng
chạm vào thân xác giữa nam nữ.
- - Say đắm lời
ngọt ngào êm dịu.
- - Thích người
cao lớn đẫy đà, phương phi, gọn gàng.
- Ngoài ra, còn
một định nghĩa khác là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cũng nằm
trong khía cạnh xấu của lục dục, nhưng theo thiển ý của bút giả,
định nghĩa nầy không thể chấp nhận được. Đối với người tu, không
phải dứt 7 thứ tình cảm, lìa 6 dục mà đạt được đạo, nhưng nương
vào đó mà chuyển hướng tình cảm, ý muốn bất chánh trở lại với con
đường thiện, tức là tự làm một cuộc cách mạng ngay chính bản
thân.
- Cá nhân tốt, xã
hội sẽ được cải thiện mà Phật giáo chủ trương phải hướng thiện
ngay nơi mỗi ý nghĩ, lời nói.
-
29.- TỘI NGŨ NGHỊCH TRONG PHẬT GIÁO
LÀ TỘI GÌ ?
- Trong Phật
giáo, tội ngũ nghịch là một tội nặng như ngoài đời là tội bị tử
hình vậy. Tội ngũ nghịch còn gọi là tội vô gián bị đọa vào địa
ngục, vì trái với luân thường đạo lý nên gọi là nghịch.
- Năm tội cực ác
ấy như là : Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, hủy phá thân
Phật ra máu, phá hoại hòa hợp Tăng.
- Căn cứ vào kinh
ngũ nghịch tội do vua A-Xà-Thế hỏi Phật, thì có năm tội thật nặng
nề mà người tu hành phải tránh để khỏi gây ra hậu quả xấu, bị đọa
vào địa ngục. Trong năm tội nghịch nầy, tội nào cũng nặng tầy trời
cả. Theo truyền thuyết cho rằng khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế,
Đề-Bà-Đạt-Đa cố tâm hại Phật như cho lăn đá đè, cho voi dữ cán lên
mình Phật, nhưng nhờ sức thần thông, đức Phật đã thoát ra được các
nạn dữ đó. Những tội như thế được liệt vào tội thứ tư trong năm
tội nghịch nầy. Cũng trong cùng một ý nghĩa đó, việc hủy phá hình
tượng Phật như bắn phá, đâm đục đều có tội rất nặng. Cả năm tội
nghịch nầy đều có chung hình tướng cho cả ba thừa (Thanh-văn,
Duyên-giác, Bồ-Tát), tức bao gồm cả Đại-thừa và Tiểu-thừa.
- Người não đã lỡ
phạm vào một trong năm tội trên, còn cách nào cứu thoát được không
?
- Những kẻ phạm
phải tội nghịch ác như thế, tâm sinh lý họ đã có sự mất quân bình
nên gây ra sự lầm lỗi quá nặng. Muốn giải cứu, phạm nhân phải tự
mình phát nguyện sám hối trước Tam-Bảo, hứa chừa bỏ những hành vi,
ý nghĩ xấu ác thô bỉ kia và quyết tâm thực hành điều thiện thì mới
có thể xóa bỏ được lỗi phạm trước, để bắt đầu làm lại mọi việc đổi
mới hoàn toàn và phải cảnh giác việc ác trong mỗi ý niệm, trong
hành vi, tư tưởng ...
- Người Phật tử
khi đã biết lý nhân quả và tội phước báo ứng rồi thì đừng nên gây
ra cho kẻ khác bất cứ một tội nhỏ nào, huống chi trong năm tội
nghịch ác lại cần phải tìm cách lánh xa.
-
30.- NGŨ THỪA TRONG PHẬT GIÁO LÀ
NHỮNG GÌ ?
- Thừa có nghĩa
là cái xe chuyên chở đưa người đi tới nơi chốn. Trong Phật giáo,
thừa dùng chỉ cho giáo pháp để người tu đạt đến quả vị giải thoát.
Ngũ thừa là 5 cổ xe vận chuyển người vào bến bờ định hướng.
- Ngũ thừa là :
Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát thừa.
- 1- Nhơn thừa :
Do tu hành theo năm giới mà được làm người ở trong cõi nhân gian.
- 2- Thiên thừa :
Do tu theo 10 điều thiện để được sanh lên các cõi trời.
- 3- Thanh-văn :
Tu theo pháp tứ đế cầu đạt đến quả A-la-hán.
- 4- Duyên-giác :
Tu theo pháp 12 nhân duyên hoàn thành quả Bích-chi-Phật.
- 5- Bồ-Tát thừa
: Tu theo pháp Lục-độ mà chứng được đạo mầu giải thoát.
- Trong năm thừa
gồm chung cả hàng Đại-thừa và Tiểu-thừa. Nói một cách khác, năm
thừa còn phân loại theo cách thứ hai như :
- - Bồ-Tát
- - Duyên-giác
- - Thanh-văn
- - Các loài hữu
tình tánh căn chậm, lẹ khác nhau.
- - Nhơn Thiên
thừa.
- Như trong kinh
Đại-Thừa Trang-Nghiêm Công-Đức và kinh Lăng-Già thì phân 5 thừa
như cách trình bày thứ nhất ở trên. Giữa Bồ-Tát và Phật do tu nhân
hành theo nhân quả "quyền", trong khi đó Phật tu hành theo nhân
quả "Thật" và do đó có sự tu chứng đạt ngộ cũng khác nhau. Ngoài
ra, các thừa khác chỉ biết áp dụng giáo lý của Phật một cách triệt
để theo mẫu mực sẳn có, còn Bồ-Tát biết quyền do sức sáng tạo
trong việc tu hành, nên quả vị tu chứng không đồng nhau.
- Theo trình độ
và căn cơ của mỗi chúng sanh tu tập mà quả vị có cao thấp cũng đều
do sức cố gắng là nhân đưa đến quả hiển nhiên.
-
31.- THẬP ĐỊA LÀ GÌ ? HÃY PHÂN BIỆT
CHỖ KHÁC NHAU GIỮA QUAN NIỆM CỦA BA THỪA ?
- Thập-địa hay
còn gọi là Thập-trụ là 10 giai đoạn tu đạt được của 3 thừa :
Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát. Thập-địa có nhiều cách phân
chia.
- Bồ-Tát thừa quan niệm về Thập-địa
như sau :
- 1/.
Hoan-hỉ-địa. 2/. Ly-cấu -ịa. 3/. Phát-quang-địa. 4/. Diệm-huệ-địa.
5/. Cực-ly-thắng-địa. 6/. Hiện-tiền-địa. 7/. Viễn-hành-địa. 8/.
Bất-động-địa. 9/. Thiện-huệ-địa và 10/. Pháp-vân-địa.
- Ngoài ra, còn
một cách phân chia khác :
- 1/.
Càng-huệ-địa, càng là khô khan. Dùng phép quán ngũ đình tâm (bất
tịnh quán, từ bi quán, nhân duyên quán, giới phân biệt quán, sổ
tức quán, tức quán hơi thở).
- 2/. Tánh-địa,
từ nơi phàm phu mà thành.
- 3/. Nhẫn-địa,
do nhẫn nhục mà đạt được chân lý.
- 4/. Kiến-địa,
đoạn được kiến hoặc của 3 cõi và ngộ được chân lý của pháp Tứ-đế.
- 5/. Bất-địa,
đoạn lìa các dục vọng của Dục-giới, chứng được Nhất-lai tức là quả
Tư-đà-hàm và còn phải sanh trở lại nơi đời một lần nữa.
- 6/. Ly-dục-địa
: Chứng quả A-na-hàm hay Bất-hoàn và không còn sanh vào thế gian
nầy nữa.
- 7/. Dĩ-biện-địa
: Đã trừ được kiến-hoặc và tư-hoặc trong 3 cõi, chứng thành
A-la-hán.
- 8/ Chi Phật-địa
: Tức quả Bích-chi-Phật của hàng Tiểu-thừa.
- 9/ Bồ-tát-địa :
Do tụ lục độ, vạn hạnh trải qua vô số kiếp đã tròn đủ và chứng
được quả vị Bồ-tát.
- 10/ Phật-địa :
Thân rốt sau của Bồ-Tát được hoàn toàn giác ngộ. Còn nếu phân chia
theo Thanh-văn-thừa Thập-địa lại là quy y Tam- Bảo, Tấn, Tín-pháp,
Nội-phàm-phu, Học-tín-giới, Bác-nhân-địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm và A-la-hán.
- Nhưng đối với
hàng Duyên-giác lại quan niệm Thập-địa có khác :
- 1.- Khổ hạnh
đầy đủ
- 2.- Ngộ pháp 12
nhân duyên
- 3.- Ngộ được
pháp Tứ-đế
- 4.- Trí tuệ
thậm thâm
- 5.- Chứng được
cửu thánh
- 6.- Quan sát
tường tận cỏi hư không pháp giới và cõi chúng sanh
- 7.- Nhập vào
chỗ tịch tĩnh an vui
- 8.- Đạt được 6
phép thần thông
- 9.- Thấu triệt
được chân lý bí yếu của vạn pháp
- 10.- Tập khí và
tưởng nghĩ của kiếp hiện tại còn lại một ít nơi tâm niệm.
- Tóm lại, 10 cấp
bậc tu chứng nầy chung cho cả hàng Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát
đã dày công tu tập trong nhiều đời mà thành tựu Phật đạo.
-
32.- KIẾP LÀ GÌ ? CÓ KHÁC VỚI ĐỜI
KHÔNG ?
- Chữ kiếp thường
dùng để chỉ kiếp sống con người, tức khoảng thời gian lâu dài mà
chúng ta không biết được đích xác là bao nhiêu năm. Nhưng theo sự
đo lường của khoa học hiện đại đã cho một con số rõ ràng về kiếp
như sau :
- Thế giới thành
hình và hoại diệt luôn luôn xoay chuyển không ngừng. Mỗi một thế
giới đều trải qua bốn thời kỳ là thành, trụ, hoại, không hay thành
hình, tồn tại trong một thời gian, thay đổi và tiêu diệt. Mỗi thời
kỳ đều có 20 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp độ khoảng 16,000,000 năm.
Chữ kiếp nói đủ, theo tiếng Phạn là Kiếp-ba (Kalpa) nghĩa là thời
phận, tức việc phân chia ranh giới của thời gian có hai trường hợp
: Đại thời và Trường thời.
- Kiếp-thành là
thời kỳ thế giới thành lập. Kiếp-trụ là sau khi thế giới đã thành
hình và có các loài hữu tình chung sống lẫn lộn ở đó. Kiếp-hoại là
giai đoạn phá hủy và kiếp không là thời kỳ bị tiêu diệt hoàn toàn
không còn lại gì cả. Do đó, khi nói tới một kiếp là chỉ cho khoảng
thời gian lâu xa thăm thẳm ! Các vị Bồ-Tát tu hành từ lúc phát tâm
cho tới khi chứng quả phải trải qua 3 a-tăng-kỳ kiếp mới thành
Phật. Một kiếp khoảng thời gian đã lâu, lại còn phải qua 3 lần
nhiều hơn như thế để hành giả thực hành đạo giải thoát, đủ cho
thấy rằng công phu tu tập lâu xa đến chừng nào !
- Tóm lại, một
đại kiếp gồm có 4 thời kỳ tức là 4 trung kiếp. Mỗi thời kỳ có 20
tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy, số năm của
một đại kiếp là :
- Đ = tk x Tk = (20 x 4) = 80 x
16,000,000 = 1,280,000,000 năm.
- (một ngàn hai trăm tám mươi triệu
năm)
-
33.- A TĂNG LÀ GÌ, SỐ LƯỢNG CÓ THỂ
TÍNH ĐẾM ĐƯỢC KHÔNG ?
- Chữ A-tăng-kỳ
có nghĩa là vô số, dùng để chỉ cho số nhiều như số cát sông Hằng
không thể nào tính đếm hết được. A-tăng-kỳ kiếp là kiếp sống hay
sự tồn tại của thế giới qua hàng ngàn triệu năm.
- Theo như sự ước
tính của khoa học thì một đại kiếp gồm có 4 trung kiếp, một trung
kiếp có 20 tiểu kiếp và một tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy,
câu nói 3 a-tăng-kỳ kiếp gồm một tiểu kiếp, một trung kiếp và một
đại kiếp mà thành. Số năm giữa một kiếp với a-tăng-kỳ kiếp khác
nhau hàng triệu triệu năm vậy.
- Đức Phật mỗi
khi thuyết pháp gặp con số nhiều thường ví với số các của sông
Hằng hay là a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ kiếp là khoảng thời gian để
cho các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát tu tập đạt đến đạo giải
thoát, và như thế số năm trong thời gian thực hành Phật giáo phải
dài lâu biết bao nhiêu !
- Chúng sanh vì
không thấy được hết sự cấu tạo nên thế giới vũ trụ và do đó cũng
lại càng mù mịt hơn khi nói tới niên số để hình thành các cõi. Con
người chỉ biết hạn hẹp trong phạm vi nơi thế giới đang tồn tại,
ngoài ra chung quanh chúng ta còn có biết bao nhiêu thế giới khác
cũng hoạt động và người ta phải đợi đến một giai đoạn mà khoa học
tiến bộ như ngày nay mới khám phá ra được màn bí mật của vũ trụ !
Nhưng khoa học cũng chưa đạt được tới chỗ sau cùng của những công
cuộc thăm dò, thám hiểm, tìm tòi ... mà hiện còn có vô lượng vô số
thế giới đang trãi qua các thời kỳ thành hình, tồn tại, hoại diệt
và không. Chư Phật và các vị Bồ-Tát nhờ dày công tu luyện đã chứng
minh được sự hiện hữu của muôn ngàn cõi khác nhau và số lượng niên
đại trong mỗi thời kỳ mà con mắt thường của chúng sanh không thể
hình dung hay tính đếm được.
- Con người chỉ
biết được khoảng thời gian qua các thế hệ (một thế hệ 30 năm),
đời, thế kỷ chứ không thể nào xác định rõ được số năm nhiều hơn ở
mỗi thời kỳ thành hình của các thế giới khác nhau.
-
34.- CỬU-ĐỊA LÀ GÌ ? CÓ KHÁC NHAU VỚI
THẬP-ĐỊA ?
- Trong 3 cõi :
Dục, sắc và vô-sắc lại chia thành Cửu-địa. Vậy Cửu-địa là gì ?
- 1- Ngũ-thú
tạp-cư-địa : 5 loài hữu tình chung nhau ở cõi dục.
- 2- Ly-sanh
hỷ-lạc-địa : Các bậc tu hành đã chứng được sơ quả và các khổ ở cõi
dục đã dứt nên sanh tâm vui mừng.
- 3- Định-sanh
hỷ-lạc-địa : Bậc nhị thiền ở cõi sắc do sức thiền định mà được an
vui.
- 4- Ly-hỷ
diệu-lạc-địa : Người tu chứng được quả tam thiền ở cõi trời sắc
giới, vì đã xa lìa sự vui ở cõi dục và cõi sắc để có được cảnh vui
mầu nhiệm hơn.
- 5- Xả-niệm
thanh-tịnh-địa : Chứng được quả tứ thiền và ở cõi sắc đã dứt trừ
được tâm niệm xấu ác, hành giả chỉ còn lại thuần tự tánh thanh
tịnh, bình đẳng và an trú được trong chánh niệm, không còn nhiễm
trước các tạp niệm, vọng tâm nữa.
- 6-
Không-vô-biên-xứ : Thuộc về cõi trời thứ nhất của cõi vô-sắc,
không còn các hình sắc nữa, người tu an trú trong thiền định.
- 7-
Thức-vô-biên-xứ : Cõi trời thứ hai thuộc về vô-sắc-giới và chúng
sanh ở đó thường an trú trong cảnh định thức an ổn.
- 8- Vô-sở-hữu-xứ
: Cõi trời thứ 3 thuộc về vô-sắc-giới, chúng sanh nơi đó an định
trong phép thiền quán sát, không còn có chỗ sở hữu.
- 9- Phi-tưởng
phi-phi-tưởng-xứ : Cõi trời thứ 4 thuộc vô-sắc-giới chúng sanh
phần nhiều đều an trú với cảnh định phi-tưởng và phi-phi-tưởng.
- Nói một cách dễ
hiểu hơn, cõi dục gọi là tán địa tức là nơi gây ra nhiều xáo trộn,
loạn động do tâm thức vẫn đục của chúng sanh tạo ra. Cõi sắc và vô
sắc gọi là định địa, nhờ tu tập thiền định mà cảm thọ được quả báo
an vui. Như vậy, cữu địa đây có khác với thập địa không ?
- Trong thập địa
có cả hàng Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác và Phật địa và dung thông
cho tất cả các bậc Thánh. Trong khi đó cữu địa chỉ là những bước
tu tập từ thấp đến cao của hàng Tiểu thừa mà thôi. Đó là sự khác
biệt nhau giữa hai trường hợp, mặc dù cả 2 đều có dùng chữ "Địa",
nhưng ta không thể lầm lẫn được.
- Muốn đạt đến
đơn vị rốt sau trên bước đường tu tập, hành giả phải tinh tấn tu
tập để mới có thể thành tựu viên mãn.
-
35 TỨ ĐẠI LÀ NHỮNG GÌ ?
- Mỗi một cá nhân
có được thân nầy một phần do tinh huyết của cha mẹ tạo thành, một
phần do các yếu tố vật chất bên ngoài nuôi dưỡng.
- Nếu phân tích
kỹ ta sẽ thấy rõ thân xác nầy gồm có 4 phần hợp lại như đất, nước,
gió, lửa cấu thành. Các phần : Xương, thịt, da, tóc, răng, móng
trong cơ thể thuộc về chất đất. Trong khi đó các chất lỏng như
đờm, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước mắt, máu huyết ...
thuộc về chất nước. Còn gió chỉ cho hơi thở, cơ quan hô hấp, các
lỗ bài tiết ... Phần còn lại là chất nóng trong người, tức là
nhiệt lượng tỏa khắp toàn thân thể để bảo tồn được xác thịt đứng
vững, đó gọi là hỏa.
- Thân xác ta
thành hình do 4 yếu tố kia gắn chặc vào nhau để tồn tại. Nếu một
trong bốn yếu tố của tứ đại nầy thay đổi hoặc mất sự quân bình, tự
nhiên cơ thể không thể giữ được thăng bằng, trái lại còn gây ra
những triệu chứng bất bình thường, như khi thân thể bị thương thì
toàn thân phải chịu ảnh hưởng. Người bị tăng huyết áp có những
triệu chứng đau nhói khó chịu, hơi thở không điều hòa là dấu hiệu
của người bịnh hoạn. Khi nào cả 4 yếu tố đều ngưng hoạt động thì
cuộc đời của một người coi như đã mãn phần ở thế gian nầy.
- Lúc thân xác
tan rã, các phần đất, nước, gió, lửa đều hoàn nguyên trở về trạng
thái cũ, rốt cuộc con người không còn lưu lại được gì cho chính
mình cả.
- Những người lúc
sống biết tu phước làm thiện, khi chết được an lành. Với ý niệm
đó, theo Phật giáo mỗi khi có người nhà sắp tắt hơi thở lìa đời
thì mọi người thân thuộc nên hợp nhau lại cầu nguyện bằng lời
kinh, để cho thần thức của người sắp chết được nhẹ nhàng đi đầu
thai kiếp khác.
- Với thân tứ đại
nầy không có gì đáng quí trọng cả, mà chúng ta chỉ lưu ý hướng
thượng tinh thần mới là điều quyết định trong kiếp lai sinh !
-
36.- THẬP TRỤ TRONG PHẬT GIÁO LÀ GÌ
?
- Thập-trụ là chỗ
của các bậc tu hành nương vào để an trụ. Chỗ an trụ ấy từ thấp đến
cao có chia ra làm 10 thứ bậc như dưới đây :
- 1- Phát-tâm-trụ
: Lúc đầu mới phát tâm tu tập.
- 2- Trị-địa-trụ
: Chọn điểm tựa để nương náu.
- 3- Tu-hành-trụ
: Gia công thực hành việc tu tập.
- 4- Sanh-quy-trụ
: Phát tâm quy hướng.
- 5-
Phương-tiện-trụ : Do nơi pháp phương tiện mà hành đạo.
- 6-
Chánh-tâm-trụ : Tâm an định trong chánh niệm.
- 7- Bất-thối-trụ
: Lòng không thối chuyển.
- 8-
Đồng-chơn-trụ : Thiết thạch trong lành, tâm như gương sáng không
bị vẫn đục.
- 9-
Pháp-vương-tử-trụ : Dũng mãnh phi thường như vua của các pháp.
- 10-
Quán-đảnh-trụ : Quán chiếu nơi đảnh đầu phát ra điện quang.
- Các bậc Bồ-Tát
ra đời để trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh (thượng hoằng
Phật đạo, hạ hóa chúng sanh) mà an trụ tâm. Đây là giai đoạn thứ
nhất trong 3 a-tăng-kỳ kiếp của hành giả trên đường tu. Ngoài ra,
để thành tựu được 10 nơi trụ tâm vững chắc, người phát tâm tu hành
cần phải có thêm lòng tin tưởng nữa. Đó là :
- 1- Tín tâm, 2-
Tinh tấn, 3- Niệm tâm, 4- Định tâm, 5- Huệ tâm, 6- Thí tâm, 7-
Giới tâm, 8- Hộ tâm, 9- Nguyện tâm, 10- Hồi hướng tâm.
- Trước hết người
hành trì Phật giáo phải tin rồi phát tâm tu tập thì mới đạt được
kết quả như điều mong muốn. Khi định và huệ đã đủ, bèn khởi lòng
từ bi bố thí và răn nhắc, ngăn ngừa tâm loạn động để giữ cho điều
hòa từ nội thân đến ngoại cảnh. Nguyện cho mình được tròn đầy
phước trí để hồi hướng về cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật
quả.
- Phát lòng tin
tưởng để an trụ tâm trong chánh pháp mà tu tập cho tới khi đạt
được đạo, và việc tu hành vì chưa được thành tựu tới chỗ rốt ráo
nên hành giả phải cần nương trụ.
-
37.- THẬP HẠNH LÀ GÌ ?
- Người phát tâm
tu tập đã trải qua được giai đoạn đầu và tiến lên xa hơn nữa trong
pháp sáu độ (bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định,
trí-tuệ) và vạn hạnh tức là tu các hạnh khác nhau, trong đó có 10
hạnh như dưới đây :
- 1- Hoan-hỷ-hạnh
: Vui vẽ tự nhiên không có gì vướng bận tâm.
- 2-
Nhiêu-ích-hạnh : Làm cho nhiều người được lợi ích.
- 3- Vô-nhuế-hạnh
: Không để cho tâm vẩn đục, não loạn.
- 4- Vô-tận-hạnh
: Không cùng tận, tức không ranh giới, chướng ngại.
- 5-
Ly-si-loạn-hạnh : Lìa xa sự si mê ám chướng.
- 6-
Thiện-hiện-hạnh : Nghĩ và làm các việc thiện.
- 7-
Vô-trước-hạnh : Không tham trước mọi vật hay không đắm nhiễm.
- 8-
Tôn-trọng-hạnh : Tự tôn trọng mình và kính nhường người khác.
- 9-
Thiện-pháp-hạnh : Các pháp lành đều đầy đủ để trợ lực cho hành
giả.
- 10-
Chơn-thật-hạnh : Lòng ngay thẳng, tánh cương trực.
- Bậc Bồ-Tát tu
theo phép vạn hạnh để hoàn thành đạo nghiệp và đặc biệt chú trọng
tới 10 hạnh căn bản trên đây mà đạt đến chân lý. Trong 10 hạnh có
thể chia ra thành 2 bậc : Thấp và cao. Từ hạnh hoan hỷ tới hạnh
thiện hiện, do nơi tự tâm hành giả phát sanh và chỉ cần sự gia
công tu tập là có thể đạt được ; trong khi đó các hạnh không tham
đắm trước mọi vật, lòng tôn kính, thực hiện các pháp lành và tánh
ngay thật cần đòi hỏi cả một trời công phu ! Đây là một bước quan
trọng trong suốt hành trình tiến và đường đạo rất khó khăn trở
ngại, nếu không thật thận trọng rất dễ bị thối chí nản lòng nên nó
đòi hỏi phải có sự cương quyết và dũng mãnh để chiến thắng được
những cạm bẩy từ bên trong tâm thức cho tới bên ngoài cảnh vật.
- Khi thực hành
trọn đủ 10 hạnh như vậy, bậc Bồ-Tát đã có một tâm niệm không thối
chuyển để tiến lên được xa hơn trong các bậc thang kế tiếp của đạo
giải thoát.
-
38.- THẬP-HỔI-HƯỚNG LÀ GÌ ?
- Thập-hồi-hướng
là 10 việc lợi lành hướng về tất cả muôn loài để chia sớt bớt
phước báo và cùng nhau hướng tới Phật quả.
- Mười công đức
để hồi hướng là :
- 1- Cứu hộ chúng
sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng : Ra ân giúp đỡ cho chúng sanh,
nhưng không vì đó mà chấp trước việc cứu giúp.
- 2- Bất hoại hồi
hướng : Không có một thế lực hay sức mạnh nào phá nổi để thoát lui
việc giúp đỡ chúng sanh của hành giả.
- 3- Đẳng chư
Phật hồi hướng : Do lòng từ bi rộng lớn như chư Phật xin nguyện
cứu giúp tất cả chúng sanh.
- 4- Chí nhứt
thiết xứ hồi hướng : Hoàn tất trong việc cứu giúp muôn loài.
- 5- Vô tận công
đức tạng hồi hướng : Có ngần nào công đức xin đem san sẽ ra cho
tất cả chúng sanh.
- 6- Tùy thuận
nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng : Tất cả những căn lành
vững bền có được, tùy theo đó mà cứu giúp chúng sanh.
- 7- Đẳng tâm tùy
thuận chúng sanh nhứt thiết hồi hướng : Đem tâm bình đẳng để hòa
nhập vào trong tất cả chúng sanh.
- 8- Như tướng
hồi hướng : Quay về với tánh thật của mình.
- 9- Vô trước vô
phược giải thoát tâm hồi hướng : Không chấp trước, không ràng
buộc, tâm được giải thoát tự tại.
- 10- Pháp giới
vô lượng hồi hướng : Hướng về pháp giới chúng sanh để cầu cho trọn
thành Phật đạo.
- Trong 10 chỗ
trụ tâm, 10 hạnh an lạc và 10 việc lợi lành hồi hướng gọi là tam
hiền. Trong 3 bậc nầy hành giả đều nhất tâm hướng về đạo Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác. Do tu tập các công đức lợi lành mầu nhiệm
ấy như là rường cột của việc tu nên gọi là tư lương vị hay là món
ăn tinh thần cao khiết.
- Từ chỗ sơ tâm
tiến lên tới cấp bậc nầy hành giả đã trải qua bao nhiêu việc thực
hành khó khăn trong suốt một đại a-tăng-kỳ kiếp.
-
39.- THẤT PHẬT LÀ NHỮNG VỊ PHẬT NÀO
?
- Thất Phật là
bảy đức Phật trong quá khứ tính cho đến Phật Thích-Ca, giáo chủ
cõi Ta-Bà, Đản-sanh năm 624, Tịch-diệt năm 544 trước kỷ nguyên
Tây-lịch.
- Quá-khứ
Trang-Nghiêm kiếp có ba đức Phật :
- - Phật
Tỳ-Bà-Thi, Phật Thi-Khí, Phật Tỳ-Xá-Phù
- Hiền-kiếp
quá-khứ có bốn đức Phật :
- - Phật
Câu-Lưu-Tôn, Phật Câu-Na-Hàm Mâu-Ni, Phật Ca-Diếp, Phật
Thích-Ca-Văn.
- - Phật
Tỳ-Bà-Thi hay Phật Di-Vệ.
- - Phật Thi-Khí
cũng đọc là Thức-Khí
- - Phật
Tỳ-Xá-Phù dịch là Biến-Nhất-Thiết Tự-Tại. Ba vị Phật này ở vào
kiếp chót của kiếp Trang-Nghiêm đời quá-khứ.
- - Phật
Câu-Lưu-Tôn dịch là Sở-Ưng-Đoạn, ra đời đầu tiên trong 1000 đức
Phật.
- Lúc đó thọ mạng
con người là 6 vạn tuổi, trong tiểu kiếp thứ chín thuộc Hiền Kiếp
hiện tại.
- - Phật
Câu-Na-Hàm Mâu-Ni dịch là Kim-Tịch, ra đời lúc con người sống bốn
vạn tuổi.
- - Phật Ca-Diếp
dịch là Ẩm-Quang, ra đời lúc con người sống hai vạn tuổi.
- - Phật Thích-Ca
Mâu-Ni dịch là Năng-Nhân Tịch-Mặc, ra đời lúc con người sống 100
tuổi.
- Phật Thích-Ca
ra đời thuyết giáo chia thành ba thời kỳ : Chánh-pháp ; khoảng 500
năm sau đức Phật nhập diệt, Tượng-pháp từ khoảng sau 500 năm đến
2000 năm, và cuối cùng là thời kỳ Mạt-pháp, sau Phật nhập diệt
khoảng 2000 năm. Chúng ta đang ở trong đời Mạt-pháp, tuổi thọ mạng
giảm dần từ 100 xuống 80 như hiện tại.
- Bảy đức Phật ra
đời cứu độ chúng sanh, và kế tiếp đức Phật Di-Lặc xuất thế đem an
vui cho nhân loại chúng sanh trong pháp giới.
-
40.- THẾ GIỚI THEO QUAN NIỆM
CỦA PHẬT GIÁO RA SAO ?
- Thế giới là nơi
có loài người và muôn vật sinh tồn nên còn gọi là Thế-gian. Do đó
chữ thế gian được chia ra làm 2 loại : Hữu tình thế gian và môi
sinh của các loài chúng sanh.
- Thế nào là hữu
tình và môi sinh thế gian ?
- Loài hữu tình
có thân hình, có cảm giác, còn môi sinh như sông ngòi, núi rừng,
biển, cơm ăn, áo mặc và những tiện nghi vật chất cống hiến cho
loài động vật sanh tồn. Do chánh-báo, tức tạo nhân gì chúng sanh
sẽ cảm thọ nên nghiệp ấy mà thành hình hài và phải nương vào y-báo
(các tiện ích) để hiện hữu.
- Theo quan niệm
của Phật giáo, trong vũ trụ có những thế giới khác nhau, hợp nhau
1000 thế giới thành một Tiểu-thiên thế-giới, gồm chung 1000
Tiểu-thiên thế-giới lại là một Trung-thiên thế-giới, gồm chung
1000 Trung-thiên thế-giới lại thành Đại-thiên thế-giới. Đó là
Tam-thiên Đại-thiên thế-giới, tức là bao dung cả Tiểu, Trung và
Đại mà thành hình 3 ngàn cõi khác nhau.
- Theo các nhà
khoa học ngày nay, ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có vô số
thế giới nhỏ li ti như hạt bụi ở khắp các cõi trong mười phương.
- Thế giới ngày nay nơi mà chúng ta
đang tồn tại đây gọi là thế giới Ta-Bà. Chữ Ta-Bà vốn nghĩa là
kham nhẫn, tức có ý nói rằng loài chúng sanh ở đó phải chịu đựng
tất cả những điều thống khổ.
- Muốn thoát được sự thống khổ ở thế
gian, chúng ta phải biết tu nhân lành và tạo điều phước đức mới
cảm thọ được chánh báo an lạc.
--o0o--
|
|