PHẬT HỌC CƠ BẢN
KIẾN THỨC
CĂN BẢN PHẬT GIÁO
 
CHƯƠNG 2

 

CẢNH GIỚI
 
1.- CON NGƯỜI THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO NHƯ THẾ NÀO ? 
Con người là một trong những loài động vật có lý trí ở trên thế gian. Chung quanh thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều loài khác nữa. Vậy thì theo quan niệm của Phật giáo, con người chiếm một địa vị ra sao ? 
Ở trong sáu đường (thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc- sanh), con người đứng hàng thứ hai sau chư thiên thần, như thế hẳn nó phải mang một tính chất gì đặc biệc ! Chư Thiên do tu 10 điều thiện mà thành, còn con người nhờ biết giữ gìn  giới (không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) mà được báo thân trong đời nầy. Trong trường hợp người không tin theo Phật giáo thì sao ? Đây là luật tự nhiên hình thành, dù tin hay không, cái nhân làm người vẫn đều do các yếu tố kia kết nạp lại, không ai chối cải được cả. 
Có thể nói con người có lý trí, tư tưởng để cân nhắc việc lợi hại, đúng sai, trong khi đó loài động vật cũng có trí hiểu biết nhưng lại thiếu phần tư tưởng. Sự khác nhau là ở điểm nầy. Con vật nhiều lúc cũng biết mừng giận ghét thương như người và chúng cũng quý đời sống hơn là phải đi vào chỗ chết, như con heo, con chó, gà, vịt ta nuôi trong nhà lâu ngày là một điều dễ hiểu. 
Mặt khác, con người rất khôn ngoan nhưng lại là con vật yếu đuối không thể tưởng tượng được, nhất là lúc mới sanh. 
Con người không biết tu nhân tích đức, sau khi chết cũng phải bị đọa lạc như các giống vật khác. 
2.- THẬP NHỊ XỨ LÀ GÌ ? 
Thập nhị xứ là mười hai xứ hay nơi chốn tùy thuộc vào các yếu tố như : sáu yếu tố thuộc về cơ thể và sáu phần còn lại thuộc về hoàn cảnh bên ngoài (sáu nội xứ và sáu ngoại xứ) hợp thành con người và cuộc sống hiện tại. 
Sự phân biệt của ta do 5 yếu tố như màu sắc, lãnh thọ, tư tưởng (nghĩ), hành vi và phần quan trọng là nhận thức, gọi là năm uẩn (chỗ chứa nhóm), hợp lực với 6 căn (1) hay là 6 nội xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cùng với 6 trần (2) là màu sắc, âm thanh, mùi vị, tiếp xúc hay đụng chạm và các pháp hay còn gọi là 6 ngoại xứ hình thành mười hai xứ. 
Mắt để nhìn và phân biệt màu sắc, tai để nghe các âm thanh động tịnh, mũi để hửi mùi hôi, tanh, thơm, thối, lưỡi nếm qua các vị ngọt, lạt, chua, cay, thân thể phải đụng chạm với hoàn cảnh trong hàng ngày, ý hợp với các pháp bên ngoài tức là cảnh trần và được gọi một cách nôm na là thập nhị xứ. 
Có thể tóm lược 6 nội xứ và 6 ngoại xứ trong bản sau : 
12 xứ 
6 nội xứ  6 ngoại xứ 
mắt tai mũi lưỡi thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp 
Xứ còn có nghĩa là nơi hay điểm phát xuất, tức là điểm tựa để cho tâm phân biệt được thế giới vạn vật bên ngoài. 
(1) Căn là gốc, căn cứ, điểm phát sinh. 
(2) Trần là cảnh trần, bụi bặm. 
3.- THẬP BÁT GIỚI LÀ GÌ ? 
Như trên đã trình bày, 12 xứ gồm 6 nội xứ và 6 ngoại xứ cộng thêm với 6 thức hợp thành 18 giới. 
Chữ Giới có nghĩa là giới hạn hay phạm vi nào đó mà mỗi phần của tâm, cảnh, thức hay thân nương gá vào nơi mỗi cơ quan hoạt động để hoàn thành được việc nhận thức. 
Mười tám giới được chia ra làm 3 phần như dưới đây : 
Sáu thức : Nhãn thức, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý thức tức là cái biết hay điều phân biệt của mỗi cơ quan. 
Sáu nội xứ : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. 
Sáu ngoại xứ : màu sắc, âm thanh, mùi, vị, tiếp xúc và các pháp. 
Như vậy, 6 thức và 6 nội xứ giống hay khác nhau ? Về hình thức giữa 6 thức và 6 nội xứ tuy giống nhau, nhưng về sự phân biệt nhận thức thì hoàn toàn khác biệt. Trong mỗi cơ quan : Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý còn có chữ thức kèm theo, tức là hàm ý nói do sự nhận thức bên trong. Còn 6 nội xứ là phần tự nhiên, mặc dù không ý thức tới ngoại cảnh chúng ta cũng có thể biết được mọi vật một cách tổng quát. 
Hiểu biết và phân biệt là 2 khía cạnh khác nhau, nếu rõ được điều đó tức là ta phân biệt được dễ dàng 18 giới. 
4.- THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO TAM GIỚI LÀ GÌ ? 
Hầu hết chúng ta sống ở cõi nầy và chỉ biết được những gì trong phạm vi hữu hạn mà thôi. Theo như khoa học cho biết thì ngoài thế giới nầy, còn có những thế giới khác mà Phật giáo gọi là tam giới. 
Tam giới gồm có Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Giới hay cõi đều có nghĩa như nhau. Con người ở cõi Dục luôn luôn nghĩ tới những thỏa mãn vật chất, danh vọng hay địa vị cao sang và chính chúng ta đang sống trong cõi dục nầy. Sắc-giới cao hơn một bậc, ở đó không còn có những ham muốn thô như cõi dục mà chỉ có những hình sắc, âm thinh làm cho con người say đắm, nhưng vẫn còn bị sa đọa một khi hết phước như các tiên nhân chẳng hạn. Vô-sắc-giới là cảnh giới không còn có hình sắc, tướng mạo và là cõi trời như phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ. Con người nhờ tu hành 10 điều thiện mà đạt được phước báo ở cõi nầy và vẫn còn bị vướng mắc vào sự chấp có, chấp không nên chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ngoài vòng sanh tử luân hồi. Nói một cách khác, tất cả các chúng sanh trong 3 cõi đều còn phải bị kiếp luân hồi, tức là khi hưởng hết phước vẫn phải bị sa đọa. Tuy nhiên con người sống ở cõi Sắc và cõi Vô-sắc nhờ đã dày công tu luyện mà thành, nhưng còn bị một phần của nghiệp lực chi phối, do đó chưa giác ngộ hoàn toàn được. 
Ở mỗi cảnh giới đều có sự sinh hoạt khác nhau. Chúng ta ăn uống bằng thức ăn, người ở cõi Sắc thọ thực bằng nhạc trời và muôn ngàn chất hoa thơm thiên nhiên khác và cõi Vô-sắc thưởng thức món ăn qua giác quan là đủ. Con người ở đó bay đi tự tại qua lại trong các cõi khác. 
Hưởng được phúc đức như các cõi trời gọi là sung sướng nhưng vẫn còn bị luân hồi, người Phật tử chân chánh không cầu mong như thế. 
5.- CỬU PHẨM LÀ GÌ ? 
Cửu phẩm là chín bậc sắp xếp theo thứ tự 9 bậc cao thấp khác nhau cho việc tu giải thoát và dùng cánh hoa sen để tượng trưng. Cửu phẩm hay chín phẩm hoa sen phân ra như sau : 
Thượng phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh. 
Trung phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh. 
Hạ phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh. 
Trên hoa sen có 9 cánh, xen kẻ vào nhau, gồm có 3 tầng : Tầng trên cùng, tầng giữa và tầng dưới. 
Người nào khi chết thoát sanh vào được phần trên hết gọi là Thượng-phẩm thượng-sanh, cho đến cánh hoa sau chót là Hạ-phẩm hạ-sanh. Dù có phân ra Hạ, Trung, Thượng nhưng đều trong cùng một cánh hoa sen. Tu hành được lên cửu phẩm sen, sau khi lìa cõi đời nầy là người đã dày công thực hành Phật giáo lúc sống. Chín phẩm hoa sen chỉ có ở thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà. Trong các lễ cầu siêu, chúng ta thường nghe chư Tăng phục nguyện "thoát hóa liên đài" (thoát sanh vào cánh hoa sen) hay trong bài Hồi-Hướng có câu "Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất-thối Bồ-Tát vi bạn lữ" (chín phẩm hoa sen là cha mẹ, Hoa nở ta gặp được Phật và ngộ đạo mầu chứng lý vô sanh, vì tất cả các bậc Bất-thối Bồ-Tát là bạn hữu). Ở đời chúng ta chỉ cần thành tâm niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà và tụng kinh, trì chú, đến lúc quá vãng sẽ được Ngài tiếp rước thần hồn đưa về thế giới Cực-Lạc, tùy theo công tích của người để được định lượng vị trí nơi chín phẩm hoa sen. 
Phật tử chúng ta nên cố gắng tu phước huệ thế nào để sau khi trả báo thân nầy có thể lên được đài hoa sen báu nơi cõi An-Lạc Tây- phương. 
6.- NIẾT BÀN LÀ CẢNH GIỚI NHƯ THẾ NÀO ? 
Niết-Bàn (Nirvana) là trạng thái vắng lặng an vui mà chỉ có các bậc tu chứng mới đạt ngộ được. 
Chỗ cứu cánh của Phật giáo là tu để đạt đến Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn không phải là thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà, lại cũng không phải là cảnh sung sướng tuyệt đỉnh như một số người nghĩ mà là nơi tịch tịnh vượt ra ngoài ngôn ngữ nghĩ bàn của chúng ta. Chư Phật và các vị Bồ-Tát đã chứng đắc mới biết rõ được trạng thái của cảnh ấy mà thôi. Muốn diễn đạt theo ngôn ngữ thường của chúng ta để chỉ rõ Niết-bàn thì cảnh giới ấy ra sao ? 
Căn cứ theo tư tưởng Đại-thừa Phật giáo, Niết-bàn không ở đâu xa lạ mà ngay trong đời sống hiện tại cũng có thể chứng minh được. Chẳng hạn, nơi mỗi hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của ta làm việc lành, tự nhiên tâm hồn được thoải mái an vui, đó chính là trạng thái không ràng buộc, là cảnh giới Niết-bàn, giải thoát rồi vậy. 
Thật vậy, Niết-bàn đồng nghĩa với giải thoát, chỉ khi nào tâm tư chúng ta không bị câu thúc bởi phiền não, tham đắm và vọng chấp mê lầm thì đó là Niết-bàn. Nói như thế không có nghĩa là chủ trương xóa bỏ cảnh Niết-bàn thật sự mà để chứng minh cho dễ hiểu cái lý thú của trạng thái giải thoát thôi. Đối với người đã nghiên cứu nhiều về Phật giáo có thể hiểu tinh thần của Niết-bàn không câu chấp, nhưng người chưa có cơ duyên với Phật Pháp phải có một cảnh giới thực thể ở ngay trước mắt và bên kia nhãn giới, vì có được như vậy thì những kẻ thực hành đúng mức tinh thần lợi tha, vô ngã của Phật giáo mới có được điểm tựa nhắm tới sau khi bỏ Báo thân nầy. 
Phật giáo không chủ trương ru ngủ con người, bằng cách đưa ra một cảnh giới hoàn toàn an vui giải thoát để mê hoặc sự dễ tin của quần chúng mà chính chúng ta phải đích thân thực hành rồi tùy theo trình độ hiểu biết của mình mà cảnh Niết-bàn sẽ là đáp số cho việc tìm hiểu của mỗi người. 
Niết-bàn được quan niệm như là một thực thể chỉ có khi nào chúng ta đã diệt trừ được mọi phiền não vi tế mới có thể chứng biết được trọn vẹn. 
7.- HÃY NÓI VỀ CẢNH GIỚI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ ? 
Người tu theo pháp môn "Tịnh-độ" chuyên việc tụng kinh và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà luôn luôn nghĩ tới cảnh giới Cực-Lạc và cầu mong được sanh về đó sau khi chết. 
Nơi đó, theo như kinh A-Di-Đà diễn tả, thì có ao bảy báu, nước tám công đức, trong nước có cát vàng trải làm đất, bốn bên có mành lưới bao bọc, cây cối xanh tươi suốt quanh năm. Ngoài ra còn có cả ngọc xa-cừ, lưu-ly, pha-lê lót dưới lối đi để trang sức cho cảnh trí nữa. Mặt khác, con người cảnh Cực-Lạc đẹp đẽ, tướng mạo trang nghiêm, thường được trẻ mãi không già. Chính đức Phật A-Di-Đà có phát lời thệ nguyện là cứu độ hết tất cả chúng sanh để đưa về cảnh giới Cực-Lạc rồi Ngài mới thành đạo chứng quả. Ở Việt-Nam pháp môn Tịnh-độ thịnh hành nhất từ đời Lý Trần. Thời kỳ nầy Phật giáo phái Thiền pha lẫn lộn với Tịnh-độ và Mật-giáo. Pháp môn tu Tịnh-độ rất đơn giản bằng phương pháp niệm Phật. Đức Phật A-Di-Đà thường được xưng niệm danh hiệu trong lúc niệm Phật. Người thực hành miệng niệm, tâm nhớ nghĩ tới Phật, gạt bỏ mọi ý niệm xấu ác khác xen tạp vào trong tâm tưởng, tức là phải có sự chí thành thì mới có sự cảm ứng để gần gũi được thế giới Cực-Lạc và niệm cho tới khi thuần thục mới đạt được điều lợi ích. 
Việc niệm Phật rất dễ thực hành, ai cũng có thể làm được, không luận già trẻ lớn bé. Nhất là những vị lớn tuổi thường để ra hằng giờ mỗi ngày để niệm Phật. Nhờ công đức niệm Phật mà có người biết trước được giờ chết và dặn dò con cháu những điều tâm phúc hay tắm rửa sạch sẽ trước khi nhắm mắt lìa đời. Đối với kẻ làm ác thì khó mà hưởng được phút vui hiếm có nầy, như những người lúc sống làm việc mổ thịt trâu bò, cắt tiết heo, dê đến khi chết như có ai tới đòi đền mạng nên họ không thể nào nhắm được mắt, lại còn phải chịu vậy vùng đau đớn, có khi còn la rống lên lớn tiếng rồi mới tắt hơi thở. Vậy thì còn chần chờ gì nữa mà chúng ta không tu để được về thế giới giải thoát an vui của cảnh Cực-Lạc. Ở đó có nhạc trời tấu khúc, chim hót líu lo suốt bốn mùa và mọi phiền lo như đều được lắng sạch, cho đến món ăn đều hoàn toàn bằng pháp thiền định vui vẻ. 
Tu mau kẻo trễ là một cách khuyến khích mọi người cố gắng thực hành theo pháp môn niệm Phật cầu vảng sanh sau khi chết đã được nhiều người tin tưởng, áp dụng. 
8.- THEO PHẬT GIÁO ĐỊA NGỤC LÀ CẢNH NHƯ THẾ NÀO ?
Cảnh địa ngục có phải là một cái cớ để dọa nạt mà đạo Phật cố tình đưa nhân sinh vào con đường cùng không lối thoát hoặc lợi dụng lòng tin của người đời để ru ngủ như đã có người nghĩ không ? 
Địa ngục là cảnh có thật với đủ các hình phạt để xử trị kẻ nào ở thế gian làm việc ác, khi chết oan hồn đi vào đó nhận lấy quả báo. Các hình phạt được ghi nhận là : Ngục thiết-hoàn (vòng sắt nóng), cưa xẻ, đập (đánh, tra tấn, xiềng, kẹp v.v..). Do đó, nhiều người khi nghĩ tới cảnh địa ngục liền phát rợn tóc gáy lên. Có nhiều sự tích còn chứng minh đầy đủ có cảnh giới tối tăm bẩn thỉu nầy. Ngay cả những người ngồi đồng thiếp hồn cũng đi vào chốn địa ngục và chứng kiến được cảnh tra tấn rùng rợn ở đó về thuật lại. Sư Từ-Đạo-Hạnh tìm cách báo thù cho cha, ông Từ-Vinh bị chết oan do tay Pháp-sư Đại-Điên trù yếm, sau đó món nợ máu đã trả xong mới được yên chuyện. Bà Thanh-Đề bị hành hạ trong kiếp đói khát ở cảnh địa ngục ... là những chứng minh cho thấy được hình tướng của cảnh giới địa ngục như thế nào. Nói về sự tướng thì luận như thế, còn đứng về mặt lý, nhất là căn cứ theo hành vi thiện ác trong đời hiện tại, thì chính những việc đau đớn, đọa đày, ức hiếp, bị tù hảm giữa xã hội loài người bây giờ, chúng ta cũng có quyền kết luận được đó là thế giới của đọa lạc, đau thương. Đối với người nào chưa hiểu về lý, chúng ta phải chỉ ra được địa ngục có hình tướng dài ngắn, lớn nhỏ ra sao để hướng dẫn họ cách tu và tìm ra con đường thoát khỏi sự ràng buộc u tối kia. 
Chỉ có tư tưởng của Đại-thừa Phật giáo mới chứng tỏ được cái viên dung vô ngại mà người bình dân cũng như giới trí thức đều học hỏi tu tập để mong thoát khỏi địa ngục. 
Tùy theo trình độ của người cao thấp mà đạo Phật hướng dẫn cho kẻ tu hành đạt đến giải thoát khỏi vòng sanh tử để chứng nhập Niết-bàn tịch tịnh, tức là không còn bị đọa lạc vào cảnh giới khốn khổ lầm than ... 
9.- CẢNH GIỚI CỦA NGẠ QUỈ Ở ĐÂU ?
Cảnh ngạ quỉ tức là cảnh giới mà nơi đó chúng sanh phải chịu đói khát, bị hành phạt đau đớn về thể xác lẫn tinh thần. 
Những ai sống ở đời có tính tham lam, keo kiệt như có tâm bòn rút của người để thu lợi về cho mình, lúc chết phải chịu cảnh đọa đày, lạnh lẽo đói khát. Hành động bẩn thỉu của con người nơi trần thế kéo theo cho tới lúc chết phải bị đọa vào kiếp đói khát trong loài quỉ để trả cho xong món nợ truyền kiếp ở đời. Loài quỉ đói được kể rằng có nhiều hình tướng khác nhau như quỉ một giò, quỉ sứ, quỉ hóa đá, quỉ đoạt mệnh, quỉ đói, quỉ ưa phá phách v.v... Con quỉ có thể không giống với hình người. Chúng có hình lông lá dễ sợ và thường sinh sống cạnh thế giới loài người, vì nghiệp nặng, những hồn oan của người khi chết không đi đầu thai được nên hóa thành quỉ và ở lơ lững giữa từng không như một thế giới vô hình mà mắt thường của ta khó hình dung ra được. 
Không luận Phật giáo mới nói tới cảnh ngạ quỉ, nhiều người cũng kể lại rằng chính họ đã thấy được loài quỉ dữ. Có một điều lạ lùng là trong thời buổi chiến tranh, có nhiều tiếng vũ khí nên loài quỉ cũng ít thấy xuất hiện nơi thế giới loài người, có lẽ chúng sợ binh khí chăng ? 
Quỉ là một vấn đề lớn mà các nhà khoa học không thể nào giải thích nổi, theo Phật giáo, những người chết oan ức linh hồn không đi đầu thai được và còn vất vưởng nơi đình miếu, gốc cây để khuấy phá người đời. Do đó, Phật giáo có những cuộc lễ như chẩn tế cô hồn vào dịp lễ Vu-Lan rằm tháng bảy để nhờ lời kinh kệ và hơi hương khói mà các hồn oan được ấm lòng đi đầu thai ở kiếp khác. 
Muốn biết sau khi chết chúng ta thành kiếp gì, chỉ cần nhìn vào hành vi của việc làm hiện tại để có thể đoan chắc đúng được 90% theo luật nhân quả luân hồi, không hề sai lệch. 
10.- SÚC SANH LÀ LOÀI GÌ VÀ CHÚNG SINH HOẠT Ở ĐÂU ? 
Súc sanh là giống thú hay còn gọi là loài lục súc như : Trâu, dê, heo, ngựa, chó, gà là sáu loài vật được người ta nuôi dưỡng trong nhà để chúng phục vụ cho người. 
Mỗi khi giận người nào ta thường nghe kẻ ấy dùng câu chửi rủa là : "Đồ súc sanh", tức có ý ám chỉ cho kẻ đối diện là thứ trâu bò ngu ngốc không ra gì cả. Con trâu và con ngựa được coi là loài động vật nặng nghiệp nhất phải mang kiếp kéo cày, kéo xe để trả nợ, vì kiếp trước chúng vốn đã tạo ra nhiều ác nghiệp. Do đó, để thỏa mãn cơn giận của mình, người ta ưa dùng lời độc địa nặng nề đối với kẻ khác. Nhưng tất cả loài người đều ghét ai gắn cho mình điều xấu xa, sỉ nhục ấy, vì đó là một sự xúc phạm đến danh dự kẻ khác một cách trầm trọng và như thế cũng có nghĩa rằng chính mình không muốn bị gán ghép cho những lời bất hão hạ cấp ấy, thì đừng mở lời độc ác xấu xa để làm cho người phải buồn khổ. Mặc dầu những giống vật nầy được chúng ta nuôi dưỡng, bảo hộ. Người Nhật cấm ăn thịt chó, nếu ai phạm sẽ bị phạt nặng. Người Ấn-Độ cấm ăn thịt bò, vì bò được xem như vật tổ, nên tuyệt đối cấm giết hại chúng. Người Việt-Nam theo đạo "Ông" không ăn thịt trâu v.v.. là những hình thức tôn trọng loài vật. 
            Lục đạo, theo Phật giáo, thì loài súc sanh được liệt vào hàng thức sáu (Nhơn, Thiên, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh) vì được xem như giống dơ dáy, xấu xí nhất vậy. Chúng ta phải biết tôn trọng loài vật, đừng đánh đập hành hạ chúng cách tàn nhẫn mà phải bảo vệ tất cả mọi loài. 
Kiếp của loài súc sanh rất khổ sở, vì chúng phải chịu đủ mọi cực hình do loài người và các loài vật mạnh khác lấn hiếp. 
11.- CÁC CÕI THIÊN CÓ LỐI SINH HOẠT NHƯ THẾ NÀO ? 
Thiên là trời, tiếng dùng để gọi chung cho tất cả các cảnh giới trên thế giới của loài người. Các cõi trời được ghi nhận gồm có 33 cảnh giới khác nhau. 
Nhờ tu theo pháp Thập thiện (10 điều lành), sau khi mãn báo thân nầy ở đời, con người được sanh lên các cõi trời Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Cõi trời Vô-sắc-giới có các trụ xứ như : Phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ, thức-vô-biên-xứ, vô-sở-hữu-xứ ... 
Con người sống nơi các cõi trời được hưởng mọi sự sung sướng, nhưng vẫn còn phải bị đọa lạc như con người ở thế gian nầy, nếu hết phước báo mà không lo tu thiện. Do đó, việc lấy 10 điều lành làm nhân trong việc tu tập là điều cần thiết để hưởng được quả nơi các cõi trời. Ngoài ra, thì giờ ở các cõi trời cũng dài hơn ở thế giới chúng ta. Cõi phi tưởng, con người nơi đó không còn tưởng nghĩ như chúng sanh cõi dục nữa. Vượt cao hơn thêm một bậc, người ở cõi phi-phi-tưởng xa lìa tất cả mọi việc nói năng nghĩ bàn. Cho đến món ăn của họ đều bằng thiền định, thức mặc cũng do thiên y tạo thành. Cõi thức-vô-biên-xứ, con người không còn trụ tâm vào nơi ý thức nữa mà đã vượt ra ngoài ngôn ngữ luận bàn của chúng ta. Xa hơn một từng nữa, cõi vô-sở-hữu-xứ, con người ở đó lìa tất cả mọi ý nghĩ, sống bằng trực giác, cũng như việc giao thiệp với nhau đều do trực giác cả. 
Người nơi các cõi trời có thể bay đi tự tại từ thế giới nầy qua thế giới khác trong khoảnh khắc thời gian chừng một bửa ăn mà không cần thủ tục thông hành rắc rối lôi thôi. Mỗi sáng, mọi người tụ tập hội lại một nơi do hiệu lệnh báo giờ ăn. Thức ăn toàn bằng hương hoa, mỹ nhạc trổi lên để mọi người tới đó hưởng cái hương vị cũng đủ no, không cần phải ăn uống thô tục như chúng ta. Sau khi thọ thực xong, mỗi người ai về cõi nấy và hẹn ngày hôm sau lại gặp nhau ở một nơi đã định. 
Dù được hưởng phước báo sung sướng trên các cõi trời, nhưng chưa phải nơi đã được giải thoát hoàn toàn, cho nên người Phật tử chân chánh cần nên có thái độ dứt khoát để chọn nghiệp sau nầy. 
12.- HÃY NÓI RÕ CẢNH GIỚI CỦA LOÀI A-TU-LA NHƯ THẾ NÀO ? 
Trong ba đường ác là địa-ngục, ngạ-quỷ và súc-sanh được coi là những nơi xấu xa, bẩn thỉu nhất, và trên đó một bậc có cảnh giới của loài A-tu-la, cũng còn nằm trong vòng trầm luân của sáu đường dữ. 
A-tu-la là loài quỷ thần ở giữa thế giới của loài người. Thần có khi là thiện thần và có khi là ác thần. Thiện thần thường hay gần gũi, ủng hộ người, nhưng ác thần lại tìm cách khuấy phá cuộc sống của dân gian. Con người phần nhiều đều không hiểu nổi loài thần, nên phải cúng cấp, cầu khẩn để mong được gia hộ, chở che. Những anh hùng, chí sĩ khi chết trên tên đạn một cách oan ức thường hiện thành thần và được dân chúng cúng bái đầy đủ, cũng có những ý niệm về loài quỷ thần, không còn xa lạ đối với chúng ta. 
Cảnh của A-tu-la không có hình tướng nhất định và loài quỷ thần cũng biến dạng thay hình rất nhanh chóng. Ngoài ra, thần cũng có thể bay đi tự tại được trong thế giới như chỗ không người mà ít có ai thấy được hình dung. 
A-tu-la nhiều khi được người ta kính nể, có lẫn sự căm thù do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho nên dù được coi trọng, chúng cũng phải ở dưới loài người một bậc. 
13.- TỨ SANH LÀ GÌ ? 
Tứ sanh là bốn loài động vật có sanh mạng và hình thành trong một thân xác không đồng nhau. 
Bốn loài động vật là : 
- Thai sanh 
- Thấp sanh 
- Noản sanh 
- Hóa sanh 
Thai sanh là loài động vật thọ hình bằng bào thai như người, trâu, bò, heo, chó ... Con người từ khi thọ thai cho tới lúc sanh ra phải ở trong bụng mẹ hơn 9 tháng, trong khi đó loài trâu, bò, ngựa có khoảng thời gian thọ thai lâu hơn lên tới một năm từ lúc bắt đầu tượng hình cho đến khi ra đời. 
Thấp sanh là loài vật sanh nơi ẩm thấp như trùn, dế, sâu, bọ, rắn, rết ... Những loài nầy có thân hình lớn nhỏ không đồng nhau, hoặc có 4 chân hoặc không chân hay nhiều chân ... 
Noản sanh là loài đẻ trứng như gà, vịt, chim, cá ... Sau khi đẻ trứng, con mẹ phải ấp trứng một thời gian 20 ngày như gà, chim hoặc 30 ngày như vịt để sau đó trứng nở thành con. Có một điều đặc biệt hơn cả là loài đẻ trứng khi vừa nở ra con là có thể chạy nhảy, ăn uống được tự nhiên rất mạnh khỏe. Trong khi đó loài mang thai cũng có một hoàn cảnh tương tự, trừ loài người. Người là loài động vật yếu đuối nhất trong muôn vật. Con người từ lúc sanh ra cho tới khi biết đi đứng, nói năng phải trải qua từ 8 đến 12 tháng mới thành được. Lúc đầu con người không tự ăn uống được mà phải do người mẹ săn sóc sú mớm sữa, cơm hay cháo cho độ 6 tháng sau, em bé mới tập ăn uống dần dần được. 
Hóa sanh là loài biến hóa như loài ấu trùng, loài bướm, nhộng, muỗi, ve ... Chúng phải thay hình đổi xác như lột da hay vỏ để thành một giống vật khác như con ngài hóa nhộng, tằm hóa bướm, lăng quăng hóa muỗi v.v... 
Trong bốn loài động vật đó, loài người được ghi nhận là khôn lanh hơn cả, biết biến chế đồ vật để sử dụng và có trí khôn tuyệt vời. Nhưng nếu không tu, con người cũng sẽ bị đọa làm thú sau khi chết. Đó là luật nhân quả tất định. 
14.- THAI SANH LÀ LOÀI SINH SỐNG Ở ĐÂU ? 
Chúng sanh có rất nhiều loài như sanh bằng cách biến hóa thay hình đổi xác, hoặc do trứng nở thành, con ở trong bào thai sanh ra gọi là thai sanh. 
Cùng loại với thai sanh, con người được coi như là giống vật tinh vi nhất, biết biến chế đồ vật thành đồ sử dụng, đồ trang sức và biết sống nương tựa lẫn nhau. Con người thời cổ cũng đã biết sử dụng lửa để nung chín các thức ăn. Trí khôn của loài người đã đạt được đến chỗ tuyệt đỉnh, biết khám phá ra màn bí mật của vũ trụ và những hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, gió, mưa, động đất ... để dự phòng những tai họa xảy đến. Ngày nay khoa học tiến bộ, con người đã lên được cung trăng mà năm, mười thế kỷ trước được xem như là việc quá xa vời và khó khăn. Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng loài người yếu đuối nhất trong các loài động vật sinh trưởng trong lốt thai bào. Thật vậy, lúc em bé vừa cất tiếng khóc chào đời, đã phải do sự săn sóc của người mẹ và trải qua trong vòng 8 tháng, 12 tháng hoặc hơn nữa, trẻ mới tập đi và học nói cũng như tự ăn uống được một vài thức mềm nhẹ, dễ tiêu hóa. Chính nhà bác học Pascal (1623-1662) cũng đã nhận xét về con người qua câu nói bất hủ như sau : 
"L'homme est un roseau faible dans l'universe, mais un roseau en pensant". 
(Con người là một cây sậy yếu đuối trong vũ trụ, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ). 
Thế nhưng các loài động vật khác có cùng lối sinh nở giống loài người như trâu, bò, heo, ngựa v.v... khi vừa mới sinh ra là đã biết chạy và ăn uống mạnh khỏe như thường. 
Loài người chỉ khôn hơn muôn vật về khía cạnh tư tưởng, nhưng chưa chắc đã giỏi bằng loài đồng vật về bản năng sinh tồn, làm tổ, di động ... 
15.- THẤP SANH LÀ LOÀI VẬT NHƯ THẾ NÀO ? 
Muôn loài, vạn vật đều ở trong 4 loài sanh sản khác nhau, nhưng cùng là giống động vật. Phật giáo gọi những loài nầy trong một danh từ tổng quát là chúng sanh. 
Thấp sanh là giống vật sanh ra dưới những nơi ẩm thấp, dơ dáy như trong bùn, trong đất cát có loài trùng, giun (trùn), rắn, rết ... Chúng có thân hình nhỏ, thường là loài bò sát có chân hoặc không chân. Khoảng thời gian sanh ra và tồn tại của loài động vật ở những nơi ẩm ướt thường ngắn ngủi. Chúng thường bị đe dọa, khủng bố, sát hại bởi các loài vật lớn hơn như là thứ mồi dinh dưỡng. Khi Thái-tử Tất-Đạt-Đa chưa xuất gia, Ngài có lần đi ngoạn cảnh và chứng kiến cảnh một người nông dân đang cày ruộng, những loại côn trùng vừa từ luống đất cày mới lật lên, liền bị loài chim mổ bắt, đàng sau bầy chim, người thợ săn đang rình bắt chúng.. Cứ như thế mà sự tranh nhau để sống giữa các loài vật tiếp tục diễn ra thành một trường tranh đấu chém giết không ngừng. Đây là một trong nhiều động cơ khiến Thái-tử lìa bỏ ngôi báu để xuất gia tầm đạo. 
Chúng ta vì nhân danh trí khôn của loài người để sát hại các loài khác không cùng giống loại. Chư Phật, các vị Bồ-Tát vì lòng bi nguyện, xem muôn loài, vạn vật đều bình đẳng như nhau. Từ loài bò, bay, cựa, động thấp nhất như giống côn trùng nhỏ nhoi cho đến các loài cao đẳng động vật như người đều có thể tiến hóa được nếu biết tu sửa theo thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo để được thoát kiếp đi đầu thai ở kiếp sau. Còn như con người nếu không biết tu thiện vẫn bị đọa làm giống vật như thường. 
Muôn loài vạn vật nếu biết nhìn nhau bằng con mắt tương ái, không cạnh tranh chém giết nhau, thì thế giới sẽ bớt cảnh nồi da xáo thịt và các cuộc chiến tranh đẩm máu không còn xảy ra nữa. 
16.- LOÀI NOÃN SANH SANH SỐNG Ở ĐÂU ? 
Như trong bài Tứ Sanh đã trình bày, noãn sanh là một trong bốn loài động vật có sanh mạng và sống ở trên không, trong đất, dưới nước ... 
Noãn-sanh là loài đẻ trứng. Từ trứng nở ra thành con như gà, vịt, chim, cá ... là những loài động vật lớn ta có thể nhìn thấy dễ dàng, nhưng còn có những loài vật nhỏ hơn cũng sinh nở theo lối để trứng như chí rận, dán, nhện, kiến, tuy chúng vẫn sống lẫn lộn chung quanh loài người, lại ít có ai để ý hay lưu tâm tới. Nếu chịu khó tìm tòi, chúng ta sẽ thấy rằng loài đẻ trứng đông hơn loài người, chúng sống rải rác thành đoàn thể có tổ chức như kiến, nhện, cá ... hay sinh hoạt rời rạc như dán, chí ... Loài đẻ trứng thường có mạng sống ngắn ngủi như loài gà, vịt chỉ sống lâu nhất được 5 năm là cùng. Dù cho sanh mạng ngắn hay dài, đẹp hay xấu, đạo Phật vẫn tôn trọng mọi loài đều có một giá trị như nhau. Vì câu nói "Tứ sanh chi từ phụ" (cha lành của bốn loài) có một giá trị từ bi và bình đẳng mà chỉ có người Phật tử mới quan niệm được như thế mà thôi. 
Tại sao đạo Phật lại chủ trương bình đẳng để hạ thấp giá trị con người ngang xuống với hàng hạ đẳng động vật như thế ? 
Thật ra cái giá trị không được căn cứ nơi một thân hình to lớn, cũng không phải do quyền lực và trí khôn để tự nhận mình có giá trị hơn mọi loài mà là do nơi sức mạnh của tinh thần mới thực tiển, đáng kể. Con người có giá trị đáng quý thật, nhưng lúc sống ta chỉ biết làm những việc ác, tới khi chết còn thua kiếp của con vật, thì cái giá trị nào hơn ? 
Chúng ta đừng vì cậy thế, ỷ quyền mà coi rẻ sinh mạng của các giống vật khác, nếu không khéo tu con người cũng sẽ đọa làm loài động vật không khác. 
17.- LOÀI HÓA SANH CÓ SỰ SANH SỐNG RA SAO ? 
Các loài động vật do sự xếp loại mà thành bộ loại khác nhau. Theo Phật giáo, chúng sanh là chỉ chung cho 4 loài động vật từ nhỏ đến lớn.  Hóa-sanh được xếp và hàng thứ tư trong 4 loài. 
Hóa-sanh là loài vật có lối sinh nở bằng cách biến, tức không do từ bao thai mà ra, cũng không do trứng nở, lại cũng không phải từ nơi ẩm thấp để thành hình. Chúng từ một giống vật nầy mà hóa ra giống vật khác như con tằm hòa thành bướm, con lăng quăng hóa muỗi, con ve hóa hình từ con sùng trong lòng đất mà ra. Loài động vật trong lớp hóa sanh thường có thân hình nhỏ và mạng sống rất ngắn ngủi như con lăng quăng chỉ sống được một ngày một đêm, con ve sanh tồn trong vòng một tuần lễ, mặc dù chúng phải ở trong kiếp trùng dưới đất suốt từ 5 đến 6 tháng mới hiện được nguyên hình. 
Dù là một sinh vật nhỏ đến đâu, Phật giáo vẫn quan niệm rằng giữa chúng có một giá trị ngang nhau. Con người vì không biết hay do khinh thường các giống vật khác mà không tôn trọng mạng sống của nhau. Cái điểm cao cả nhất, theo Phật giáo, không phải căn cứ vào sức mạnh hay mưu mẹo để hơn được các loài động vật khác mà do nơi giá trị tinh thần mới là điều đáng quý. Loài hóa sanh không nhiều như các loài đẻ trứng, loài sanh nơi ẩm thấp bẩn thỉu, nhưng không phải ít đối với chúng ta. Con vật nào có sanh mạng cũng đều biết tham sống và sợ chết như người cả. Tại sao chúng ta không chịu tìm hiểu ở điểm nầy giữa các loài vật khác mà chỉ nhìn thấy riêng thế giới của con người là tối linh, quan trọng ? 
Các loài đều được coi như có sự bình đẳng trong việc cấu tạo nên thân mạng, dù chúng mang lớp gì đi nữa, chỉ có đạo Phật mới chủ trương được như thế mà thôi. 
18.- TAM THỪA, TỨ QUẢ LÀ GÌ ? 
Quả vị tu chứng của hàng Tiểu-thừa và Đại-thừa có 3 bậc là Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát thừa. 
Cả 3 thừa, Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-Tát tu theo pháp môn gì để chứng đắc ? 
Hàng Thanh-văn hay còn gọi là Độc-giác nhờ quan sát âm thanh của vạn vật mà thành tựu, như quan sát chiếc lá rơi, cành cây gãy, sấm chớp v.v... nói chung, các hiện tượng vũ trụ ... để tìm ra chỗ rốt ráo của lý duyên sinh trong muôn loài vạn vật. Việc quan sát đến khi được thành tựu viên mãn, tức là tự giác ngộ hoàn toàn (độc giác). 
Duyên-giác tu quán pháp 12 nhân duyên để tìm ra chân lý của sự vật. Pháp 12 nhân duyên là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Con người và muôn vật ở trong vòng lẩn quẩn của pháp 12 nhân duyên. Do từ vô minh, con người đi đầu thai làm thân xác, rồi do hoàn cảnh chung quanh kéo lôi phải lăn lộn trong cuộc đời để thọ nhận các nghiệp báo từ nhiều đời, mãi cho tới khi già và chết. Khi chết rồi lại tái sanh và cứ như thế tiếp tục không lúc nào ngừng nghỉ như bánh xe quay trong vòng tròn, hễ giáp chu kỳ lại quay tiếp. Người tu quán các pháp ấy để thành đạo tức hàng Duyên-giác. 
Bồ-Tát nhờ tu các pháp Lục-độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và vạn hạnh mà thành Chánh-giác. Bồ-Tát luôn xả thân vì người để thực hành hạnh lợi tha. Nơi nào cần tới bàn tay cứu giúp, vị Bồ-Tát xả thân, ngay trong hiểm nạn cũng vẫn xong xáo thi hành hạnh nguyện của mình. Hàng Bồ-Tát thế không tiếc thân mạng. Chúng sanh nào cần tai, mắt, mũi, lưỡi, chân tay để cứu mạng nguy cấp, Bồ-Tát cho không tiếc, đúng theo hạnh bố thí không sợ sệt, không so đo, tính toán như ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đã hiện đủ mọi thân hình để cứu độ chúng sanh. 
Tứ quả là 4 quả vị tu chứng của riêng hàng Tiểu-thừa gồm có : Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Cách tu tập và dư báo của 4 quả thánh nầy sẽ nói riêng ở mỗi bài sau. 
Người tu muốn đạt được quả vị cao phải do cái nhân tu tập cũng như người bỏ vốn đầu tư nhiều hay ít để được kết quả lớn hoặc nhỏ. 
19.- TU-ĐÀ-HOÀN LÀ QUẢ VỊ NÀO TRONG HÀNG THÁNH ? 
Trong hàng Thánh, tức là bậc đã chứng đắc được đạo quả giác ngộ của Phật giáo có 4 quả vị thuộc hàng Tiểu-thừa mà Tu-đà-hoàn là quả vị tu chứng đầu tiên. 
Tu-đà-hoàn hay còn gọi là Dự-lưu, tức là chỉ cho người mới tu đắc và bắt đầu nhập vào quả Thánh, nhưng vì còn các trần sa nghiệp (nghiệp quả vi tế của nhiều đời) nên chưa giải thoát trọn vẹn được. Ngoài ra, còn có các tên gọi khác cũng để chỉ quả vị Tu-đà-hoàn như Nhập-lưu hay Nghịch-lưu, tức từ chỗ phàm phu chứng vào được bậc Thánh, vì đi ngược lại với dòng lưu chuyền của sanh tử để chứng Thánh. Mới nhập vào dòng Thánh cho nên hành giả còn phải gia công tu tập các pháp lành để được tiến xa hơn lên ở các quả vị khác trong hàng Thánh. 
Bậc Tu-đà-hoàn thực hành pháp môn gì mà đạt được, cũng như phải trải qua thời gian tu tập bao lâu để thành ? 
Tu-đà-hoàn tu theo pháp Tứ-đế và quán pháp Nhân-duyên, đã đoạn sạch được kiến-hoặc (cái thấy biết do cố chấp) mà thành. Theo kinh Đại-Thừa Nghĩa-Chương nói rằng Tu-đà-hoàn là tiếng ngoại quốc, dịch ra thành 3 nghĩa : 
Thứ nhất, dịch theo nguyên nghĩa, gọi là Vô-Lậu, tức tu pháp môn vô lậu mà thành. 
Thứ hai, theo nghĩa phóng dịch là Nghịch-Lưu, tức là vĩnh viễn không còn chịu sanh tử trong 3 đường dữ nữa. 
Nghĩa thứ ba, là Xúc-Trái, tức do cái nhân đã xa lìa 3 đường mà không còn thọ quả báo trong ấy nữa. 
Trí-Độ-Luận gọi quả Tu-đà-hoàn là "LƯU", tức là nhập vào một phần trong Bát-thánh-đạo, cũng có nghĩa là lưu nhập vào cõi Niết-bàn an lạc vĩnh viễn. 
Từ phàm phu, muốn chứng nhập vào dòng Thánh, quả Dự-lưu, phải trải qua 3 a-tăng-kỳ-kiếp hay còn gọi là vô-số-kiếp mới thành tựu viên mãn. Vì phàm phu cho nên chúng ta nghĩ số kiếp như thế là lâu, nhưng các bậc đã chứng quả Thánh nghĩa đó chỉ là khoảng cách như lúc khảy móng tay mà thôi. 
Các quả vị tu đạt được, ta cần phải thực hành mới chứng nghiệm được lời trong kinh điển, cũng như có uống nước ta mới cảm được vị và việc đả khát như thế nào. 
20.- LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT ĐƯỢC LÀ TU CHỨNG QUẢ ? 
Sống trong một xã hội có nhiều xáo trộn, tranh chấp diễn ra mỗi ngày, chúng ta ít thấy có ai tu hành chứng quả ngay trong đời nầy. Trừ những vị Bồ-Tát ra đời do một nguyện lực để lẫn lộn trong chúng ta, rồi tu hành đắc đạo, nhưng vì con mắt phàm của người đời khó ai biết được. 
Việc chứng quả chỉ có chư Phật và Bồ-Tát mới đạt tới được, còn các vị Tổ cũng tu chứng, nhưng trong hiện thế chúng ta không thấy được sự nhiệm mầu mà phải đợi lúc các vị ấy viên tịch (lìa đời) mới hiện ra những điềm lành. Ví dụ, khi sắp tịch, các vị Tổ thường di chúc lại cho các đệ tử một ngón tay hay chừa lại cả cánh tay, sau khi đốt xong mà vẫn không cháy. Gần đây nhất, vào năm 1963, Hòa-Thượng Quảng-Đức ngồi trong lửa hồng tự thiêu để cúng dường Phật Pháp mà không hề nao núng trước sức nóng của lửa, điều đó đủ chứng tỏ Ngài chính là vị Bồ-Tát do một nguyện lực kim cương mới đạt được. Có những trường hợp, người tu hành thấy mình đi trên hoa sen và thấy trước mắt hiện ra những thế giới muôn hình đẹp đẻ, đó không phải là chứng quả mà do ma lực hiện ra để thử thách, cũng như để đo trình độ tu tập của người ấy đạt tới chỗ thuần thục hay chưa. Cũng có người phát điên hoặc tâm trí tán loạn do bị ác ma cám dỗ trong lúc quá chú tâm vào cảnh huyễn tướng để bị lạc mất chánh niệm. Người nào tu hành đến một trình độ cao như kêu mưa, hú gió và sai sử được người khác làm theo mệnh lệnh vẫn chưa có thể gọi là người chứng quả mà phải gọi rằng kẻ đó nhờ tập trung tinh thần nhất quán mới đạt được thành công như thế trong việc tu niệm. 
Do đó, ta cần phân biệt giữa chứng quả với những cảnh giới huyễn do mã hiện để thử thách người tu hành, bằng cách thực hành pháp môn tu quán để khỏi bị nhận lầm chân và giả. 
21.- TƯ-ĐÀ-HÀM LÀ GÌ ? 
Tư-đà-hàm là quả vị tu chứng thứ hai trong 4 bậc Thánh của hàng Tiểu-thừa, và do tu nhân gì mà đạt thành ? 
Tư-đà-hàm, người Tàu dịch nghĩa là Nhất-Lai, tức là còn thọ sanh lại làm người một lần nữa để tu hành, những nghiệp lực của "tư hoặc" trong cõi dục còn lại một phần nên chưa hoàn toàn ra khỏi cảnh giới trần ai được (chín phẩm tư-hoặc : Dục giới, sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sỡ hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ). Do vướng mắc 3 phẩm tư-hoặc sau cùng chưa đoạn sạch nên quả tu chưa trọn vẹn, hành giả phải tấn tu thêm một lần nữa. Chín phẩm tư-hoặc ở trong 3 cõi gồm có 3 bậc thượng, trung và hạ được nhân lên thành 81 món tư-hoặc cả thảy. Quả vị của Tiểu-thừa hay 4 quả Thánh của Thanh-văn mà Tư-đà-hàm là bước thứ nhì trên đoạn đường tu giải thoát vậy. Cũng như người học viên học cấp bậc Cao-học, còn phải trải qua 2 năm lao lực nữa mới tiến lên Tiến-sĩ được. Ví dụ như thế có lẽ dễ hiểu cho tất cả những người quan tâm tới việc nghiên cứu, để biết lý do tại sao người sinh viên phải vất vả lắm trong việc học hỏi mới thành công. Tu hành cũng phải trải qua nhiều giai đoạn luyện tập công phu như việc học mới đạt được kết quả tốt. 
22.- A-NA-HÀM LÀ GÌ ? 
Quả vị thứ ba trên đường tu thuộc hàng Thanh-văn là A-na-hàm. Vậy A-na-hàm là gì ? 
A-na-hàm, Tàu dịch là Bất-Lai, tức là không thọ sanh trở lại nơi đời nầy nữa, vì đã dứt sạch tất cả tư-hoặc ở cõi dục. Quả vị nầy cũng ví như một người học sinh, bắt đầu từ vở lòng đi nốt đoạn đường dài suốt 22 năm để lấy được mãnh bằng Tiến-sĩ. Người đổ xong Tiến-sĩ còn có thể lấy thêm Thạc-sĩ, cũng như thế, hành giả muốn đi nốt đoạn đường tu niệm phải đạt tới quả A-la-hán sau cùng mới thành công viên mãn. Người tu đã chứng tới quả A-na-hàm thuộc hàng Tiểu-thừa Phật giáo, cũng có nghĩa là không còn bị chi phối bởi dòng sanh tử luân hồi của cõi dục nữa. Cũng cần nói rõ về nghĩa của chữ tư-hoặc là cái mê lầm về sự, do mê muội nơi sự vật mà ra. Ví dụ : 3 nhu cầu tối thiểu trong đời sống là sự ăn, mặc và ở khiến cho ta tham trước. Ý niệm nẩy sinh cùng trong một thân nầy cho nên nó còn có tên là mê lầm về câu sanh. Muốn tận diệt sự mê lầm đó, cần phải gắng chí tu trì để từ từ dứt bỏ những điều mê lầm căn bản đó gọi là tư hoặc. 
A-na-hàm đã trừ bỏ hẳn những mê lầm căn bản ấy từ thô đến tế để dũng mãnh đứng vào hàng Thánh mà không sợ bị chi phối bởi nghiệp lực nữa. 
Muốn tu hành chứng quả, chúng ta phải tinh tấn không ngừng trải quả nhiều đời nhiều kiếp mới đạt được. 
23.- A-LA-HÁN LÀ GÌ ? 
Giai đoạn sau cùng để đạt được mục đích của quả Thanh-văn thuộc Tiểu-thừa Phật giáo là A-la-hán. A-la-hán là gì, và tu pháp môn gì mà thành tựu ? 
A-la-hán Tàu dịch là vô sanh hay Ứng-Cúng, tức là không còn thọ sanh làm người trong cõi dục nữa mà là bậc đã giác ngộ sáng suốt xứng đáng thọ nhận của trời và người cúng dường. A-la-hán cũng như cấp bậc Thạc-sĩ, tức là người đã đạt được quả tu rốt ráo của việc tu tập. Thế thì quả vị của hàng Thanh-văn đâu có khác với Bồ-Tát ? Chỗ cứu cánh của bậc Thanh-văn là tu giải thoát lấy mình, trong khi đó Bồ-Tát không những tự độ cho chính bản thân mà còn cứu độ cho nhiều người khác đồng tu và đồng chứng quả. Khi đạt đến quả A-la-hán, hành giả không trở lại trần gian nữa nhưng Bồ-Tát mang hạnh nguyện từ bi và lăn xã trong đời gần gũi chúng sanh để cứu giúp cho họ. 
Ví dụ : Hai Bác-sĩ cùng học tốt nghiệp ra từ một Đại-học Y-khoa. Sau 10 năm một người giàu có dư dã, còn một người làm việc chỉ vừa đủ tiêu nhưng thân chủ của ông ta lại là những người rất có nhiệt tình và thường hay lui tới. Vì tư cách của ông một phần và giá cả phải chăng cũng là một khía cạnh tâm lý quan trọng. 
Quả tu của bậc Thánh thuộc Tiểu-thừa cũng như vậy mà A-la-hán là một chứng minh. 
24.- CHÚNG SANH CHỈ CHO NHỮNG LOÀI NÀO ? 
Chúng sanh chỉ chung cho các loài động vật sống trên mặt đất, trên không, kể cả những loài côn trùng nhỏ nhất như loài bò bay, cựa động ... 
Chúng sanh hiểu theo Phật giáo có 4 loài : Thai-sanh (loài sanh sản bằng bào thai) như người, trâu bò, chó, ngựa, heo ..., 
Noãn-sanh (loài đẻ trứng) như gà, vịt, chim muông ..., 
Thấp-sanh (loài sanh nới ẩm thấp) như trùng, dế, rắn rết ..., 
Hóa-sanh (loài sanh bằng cách thay hình đổi lớp) như các loại côn trùng, bướm, tằm, ngài (nhộng)... 
Như thế, danh từ chúng sanh dùng để chỉ chung số đông các loài động vật có thân xác ở trong thai bào sanh ra hoặc do từ trong trứng mà thành hình hay do nơi ẩm thấp để phát triển. ngoài ra, có loài còn do sự biến hình đổi xác mà thành được mạng sống. 
Tất cả các loài chúng sanh đều phải trải qua 4 thời kỳ : Sanh, trụ, dị, diệt (sanh ra, tồn tại trong một giai đoạn hữu hạn, thay đổi, và cuối cùng mất đi) hay nói cách khác theo danh từ thông thường cho dễ hiểu là sanh, già, bịnh và chết, để chỉ cho một giai đoạn từ khi một động vật có ra cho tới khi tan hoại vào trong lòng đất. 
Loài người nhân danh có trí khôn hơn các giống khác và có một đời sống lâu hơn mọi vật khác, phải biết lợi dụng ở điểm nầy để xây dựng xã hội ngày thêm tốt đẹp theo như tinh thần từ bi của Phật giáo biết tôn trọng mạng sống của tất cả mọi loài, như bốn đại nguyện của người hành Bồ-Tát hạnh. 
- Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp. 
- Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch. 
- Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học. 
- Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện được viên thành. 
25.- NGŨ ẤM GỔM CÓ NHỮNG GÌ ? 
Ngũ-ấm hay Ngũ-uẩn là sự chứa nhóm và kết hợp lại của 5 yếu tố căn bản để hoàn thành con người nơi trần thế. 
Ngũ-ấm gồm có sắc (mầu sắc), thọ (nhận lãnh), tưởng (tưởng nghĩ), hành (hành động) và thức (nhận thức hay sự hiểu biết). Nói một cách khác 5 ấm chia ra thành : 
- Vật chất : Đất, nước, gió, lửa (tứ đại) tức phần cấu tạo nên thân xác. 
- Cảm giác : Như các việc vui, buồn, mừng, giận, ghét, thương, việc nhận lãnh, từ chối ... đều thuộc về phần cảm giác của một người. 
- Tư tưởng : Tư tưởng là phần quan trọng nhất trong đời người. Tư tưởng còn có tư tưởng hướng thượng, tư tưởng thấp hèn, tư tưởng bi quan v.v... đều nhắm tới phần quyết định sự thành bại nên hư trong cuộc đời hiện tại và cho tương lai hay nói rộng hơn cho cả kiếp sau nữa. Vì thế, người có tư tưởng đúng sẽ làm việc theo con đường chính nghĩa và đem lại nhiều lợi ích thực tiển. Còn người có tư tưởng bạc nhược luôn luôn gieo rắc sự ủy mị chán nản đến cho mọi người và ngay chính họ cũng đã sóng một cuộc đời bê tha, lây lất. 
- Hành nghiệp : Tức là hành động và nghiệp lực song hành với nhau. Ta biết làm điều lành và tâm luôn hướng tới việc thiện thì tự nhiên đời sống nội tâm sẽ được thư thái dễ chịu. Một khi lỡ làm một việc trái với lương tâm, ta cảm thấy đau nhói, cắn rứt. Điều đó chứng tỏ rằng người biết hối lỗi và có thể sống hòa mình với cộng đồng xã hội để cùng nhau xây dựng một đời sống lành mạnh và tin yêu. 
-  Nhận thức : Phần quan trọng số một đối với người biết thăng tiến cuộc đời mình. Việc nhận thức lệch lạc sẽ dẫn ta đến bờ vực thẳm của thất bại, đau khổ. Nhận thức chính là đội quân tiền đạo, thành trì giữ vững được mọi giá trị tinh thần cho đời sống. 
Năm ấm là đầu dây mối nhợ dẫn dắt con người vào mọi nẽo đường đời. Muốn cho khỏi rơi vào một thế giới đen tối sau khi chết, ta phải phát khởi lòng từ bi rộng lớn đối với mọi loài. 
26.- THẬP PHƯƠNG LÀ GÌ ?  CHÚNG TA ĐANG Ở PHƯƠNG NÀO ? 
Thập phương nói cho đủ là thập phương pháp giới chúng sanh, danh từ thường dùng trong phạm vi Phật giáo để chỉ cho khoảng không gian rộng lớn bao la, tức là cái vô giới hạn của vũ trụ, vạn vật. 
Thập phương là 10 phương hay 10 hướng là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới. Có người còn gọi là 9 phương trời và 10 phương Phật cũng để chỉ cho cái vô hạn của vạn loại hữu tình. Sở dĩ gọi 9 phương trời là vị hạ phương tức hướng phía dưới ta không có ánh sáng mặt trời chói rọi chăng ? Tất cả mọi loài chúng sanh đều ở khắp trong 10 phương. Từ loài động vật hạ đẳng cho đến loài Người, Trời, Thần, Tiên, Phật v.v... đều hiện hữu ở trong các hướng nầy. Chúng ta đang ở phương nào ? Thật khó ai có thể xác định đúng được vị trí chúng ta ở phương nào. Nhưng căn cứ vào các cõi thể giới cấu tạo thì thế gian nầy tức là thế giới Ta-bà mà ta đang sanh sống nằm trong hướng Nam của 4 châu lớn (Bắc-cu-lô-châu, Tây-ngưu-hóa-châu, Nam-thiệm-bộ-châu, Đông-thắng-thần-châu). Ngoài ra, trong 10 phương ấy, chư Phật ở phương nào ? Phật là do Ứng-thân và Hóa-thân mà thành cho nên có thể hiện thân ở khắp trong 10 phương được tự tại, không có sự ngăn ngại nào cả, nghĩa là chư Phật qua lại trong 10 phương do sức hiện thần thông để cứu độ chúng sanh. Chỗ nào cần các Ngài liền thị hiện ngay đến đó để thuyết pháp và giáo hóa chúng sanh ngay trong khoảnh khắc. Trong kinh Pháp-Hoa, Phẩm Phổ-Môn thứ 25 có đoạn nói rằng người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân để được độ thoát thì ngài Quán-Thế-Âm liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp. Đức Bồ-Tát Quán-Thế-Âm do thành tựu các công đức như thế, dùng các thân hình dạo đi trong 10 phương các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên người nào một lòng chuyên niệm đến danh hiệu Ngài sẽ được như nguyện. 
Tóm lại, khi muốn diễn tả một việc rộng lớn ta thường dùng chữ thập phương, như người ấy ưa làm việc thập phương, vị Tỳ-kheo đi khất thực của thập phương v.v... 
27.- ĐẠI-HỔNG-CHUNG CÓ Ý NGHĨA RA SAO ? 
Đại-Hồng-Chung là cái chuông lớn hay còn gọi là chuông U-minh. Chuông U-minh mang một ý nghĩa tinh thần rất lớn lao. 
Tiếng vang của chuông có thể nghe thấu suốt được đến cõi tối tăm u ám nơi địa ngục, nhờ đó, chúng sanh nào bị đọa vào đó, khi nghe liền được giải thoát. Ở các ngôi chùa cổ thường có quả chuông lớn để gióng mỗi ngày hai buổi sáng và tối cho việc cầu nguyện. Giờ gióng chuông buổi sáng lúc 5 giờ, trước khi tụng thời công phu buổi sáng.  Người thỉnh chông vừa đánh vừa đọc bài kệ. 
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, 
Thiết vi u ám tất giai văn. 
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, 
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. 
Nghĩa là : 
Nguyện cầu cho tiếng chuông thấu suốt tới các cảnh giới, nơi tối tăm vây phủ bởi sắt nóng thảy đều nghe. Khi nghe chuông thì lòng trần (phiền não) nhẹ, chứng được đạo giải thoát và tất cả chúng sanh cùng thành chánh giác. 
Chuông thường gióng 108 lần tượng trưng cho 108 phiền não nơi mỗi chúng sanh mà cần cầu cho tất cả đều được siêu thoát. 
Buổi sáng sớm là giờ yên tỉnh, khi gióng lên, tiếng chuông ngân vang có thể nghe thấu suốt được các cỏi. Buổi tối, giờ ăn của loài quỷ đói, khi nghe chuông, chúng được nhẹ bớt lòng sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. 
Về lịch sử của Đại-Hồng-Chung, không thấy có sách nào đề cập tới. Theo truyền thuyết cho rằng chuông do Lương-Võ-Đế (thế kỷ thứ 6) khởi xướng đầu tiên để cầu nguyện cho các oan hồn bị đọa trong chốn U-minh do đạo nhãn của ông Chí-Công nhìn thấu suốt được và báo cho vua biết điềm ấy. 
Việc gần nhất của công dụng tiếng chuông là đánh thức dân chúng trong làng dậy để chuẩn bị ra đồng làm việc và giờ tan việc, ở thời buổi mà chiếc đồng hồ chưa được thông dụng ngày xưa trong các xã hội nông nghiệp. 
28.- THẤT TÌNH LỤC DỤC LÀ GÌ ? 
Bảy thứ tình cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm chung trong câu nói ngắn gọn là "thất tình lục dục". Vậy 7 thứ tình cảm và 6 điều ham muốn đó là những gì ? 
Bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như : Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục vậy. 
Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói v.v... Như khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao ; yêu thương mặt đỏ, nóng bừng v.v... Một trong 7 thứ tình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là : Chọn lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và xã bỏ những ý tưởng thấp hèn. 
Còn lục dục là gì ? Lục dục là 6 điều ham muốn đã trở thành thói quen khó sửa đổi : 
- Sắc dục : Ham muốn sắc đẹp. 
- Dung mạo dục : Ưa thích diện mạo đẹp đẽ. 
- Tư thái dục : Mong có dáng chững chạc, dịu dàng. 
- Muốn đụng chạm vào thân xác giữa nam nữ. 
- Say đắm lời ngọt ngào êm dịu. 
- Thích người cao lớn đẫy đà, phương phi, gọn gàng. 
Ngoài ra, còn một định nghĩa khác là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cũng nằm trong khía cạnh xấu của lục dục, nhưng theo thiển ý của bút giả, định nghĩa nầy không thể chấp nhận được. Đối với người tu, không phải dứt 7 thứ tình cảm, lìa 6 dục mà đạt được đạo, nhưng nương vào đó mà chuyển hướng tình cảm, ý muốn bất chánh trở lại với con đường thiện, tức là tự làm một cuộc cách mạng ngay chính bản thân. 
Cá nhân tốt, xã hội sẽ được cải thiện mà Phật giáo chủ trương phải hướng thiện ngay nơi mỗi ý nghĩ, lời nói. 
29.- TỘI NGŨ NGHỊCH TRONG PHẬT GIÁO LÀ TỘI GÌ ?
Trong Phật giáo, tội ngũ nghịch là một tội nặng như ngoài đời là tội bị tử hình vậy. Tội ngũ nghịch còn gọi là tội vô gián bị đọa vào địa ngục, vì trái với luân thường đạo lý nên gọi là nghịch. 
Năm tội cực ác ấy như là : Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, hủy phá thân Phật ra máu, phá hoại hòa hợp Tăng. 
Căn cứ vào kinh ngũ nghịch tội do vua A-Xà-Thế hỏi Phật, thì có năm tội thật nặng nề mà người tu hành phải tránh để khỏi gây ra hậu quả xấu, bị đọa vào địa ngục. Trong năm tội nghịch nầy, tội nào cũng nặng tầy trời cả. Theo truyền thuyết cho rằng khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, Đề-Bà-Đạt-Đa cố tâm hại Phật như cho lăn đá đè, cho voi dữ cán lên mình Phật, nhưng nhờ sức thần thông, đức Phật đã thoát ra được các nạn dữ đó. Những tội như thế được liệt vào tội thứ tư trong năm tội nghịch nầy. Cũng trong cùng một ý nghĩa đó, việc hủy phá hình tượng Phật như bắn phá, đâm đục đều có tội rất nặng. Cả năm tội nghịch nầy đều có chung hình tướng cho cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát), tức bao gồm cả Đại-thừa và Tiểu-thừa. 
Người não đã lỡ phạm vào một trong năm tội trên, còn cách nào cứu thoát được không ? 
Những kẻ phạm phải tội nghịch ác như thế, tâm sinh lý họ đã có sự mất quân bình nên gây ra sự lầm lỗi quá nặng. Muốn giải cứu, phạm nhân phải tự mình phát nguyện sám hối trước Tam-Bảo, hứa chừa bỏ những hành vi, ý nghĩ xấu ác thô bỉ kia và quyết tâm thực hành điều thiện thì mới có thể xóa bỏ được lỗi phạm trước, để bắt đầu làm lại mọi việc đổi mới hoàn toàn và phải cảnh giác việc ác trong mỗi ý niệm, trong hành vi, tư tưởng ... 
Người Phật tử khi đã biết lý nhân quả và tội phước báo ứng rồi thì đừng nên gây ra cho kẻ khác bất cứ một tội nhỏ nào, huống chi trong năm tội nghịch ác lại cần phải tìm cách lánh xa. 
30.- NGŨ THỪA TRONG PHẬT GIÁO LÀ NHỮNG GÌ ? 
Thừa có nghĩa là cái xe chuyên chở đưa người đi tới nơi chốn. Trong Phật giáo, thừa dùng chỉ cho giáo pháp để người tu đạt đến quả vị giải thoát. Ngũ thừa là 5 cổ xe vận chuyển người vào bến bờ định hướng. 
Ngũ thừa là : Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát thừa. 
1- Nhơn thừa : Do tu hành theo năm giới mà được làm người ở trong cõi nhân gian. 
2- Thiên thừa : Do tu theo 10 điều thiện để được sanh lên các cõi trời. 
3- Thanh-văn : Tu theo pháp tứ đế cầu đạt đến quả A-la-hán. 
4- Duyên-giác : Tu theo pháp 12 nhân duyên hoàn thành quả Bích-chi-Phật. 
5- Bồ-Tát thừa : Tu theo pháp Lục-độ mà chứng được đạo mầu giải thoát. 
Trong năm thừa gồm chung cả hàng Đại-thừa và Tiểu-thừa. Nói một cách khác, năm thừa còn phân loại theo cách thứ hai như : 
- Bồ-Tát 
- Duyên-giác 
- Thanh-văn 
- Các loài hữu tình tánh căn chậm, lẹ khác nhau. 
- Nhơn Thiên thừa. 
Như trong kinh Đại-Thừa Trang-Nghiêm Công-Đức và kinh Lăng-Già thì phân 5 thừa như cách trình bày thứ nhất ở trên. Giữa Bồ-Tát và Phật do tu nhân hành theo nhân quả "quyền", trong khi đó Phật tu hành theo nhân quả "Thật" và do đó có sự tu chứng đạt ngộ cũng khác nhau. Ngoài ra, các thừa khác chỉ biết áp dụng giáo lý của Phật một cách triệt để theo mẫu mực sẳn có, còn Bồ-Tát biết quyền do sức sáng tạo trong việc tu hành, nên quả vị tu chứng không đồng nhau. 
Theo trình độ và căn cơ của mỗi chúng sanh tu tập mà quả vị có cao thấp cũng đều do sức cố gắng là nhân đưa đến quả hiển nhiên. 
31.- THẬP ĐỊA LÀ GÌ ? HÃY PHÂN BIỆT CHỖ KHÁC NHAU GIỮA QUAN NIỆM CỦA BA THỪA ? 
Thập-địa hay còn gọi là Thập-trụ là 10 giai đoạn tu đạt được của 3 thừa : Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát. Thập-địa có nhiều cách phân chia. 
Bồ-Tát thừa quan niệm về Thập-địa như sau : 
1/. Hoan-hỉ-địa. 2/. Ly-cấu -ịa. 3/. Phát-quang-địa. 4/. Diệm-huệ-địa. 5/. Cực-ly-thắng-địa. 6/. Hiện-tiền-địa. 7/. Viễn-hành-địa. 8/. Bất-động-địa. 9/. Thiện-huệ-địa và 10/. Pháp-vân-địa. 
Ngoài ra, còn một cách phân chia khác : 
1/. Càng-huệ-địa, càng là khô khan. Dùng phép quán ngũ đình tâm (bất tịnh quán, từ bi quán, nhân duyên quán, giới phân biệt quán, sổ tức quán, tức quán hơi thở). 
2/. Tánh-địa, từ nơi phàm phu mà thành. 
3/. Nhẫn-địa, do nhẫn nhục mà đạt được chân lý. 
4/. Kiến-địa, đoạn được kiến hoặc của 3 cõi và ngộ được chân lý của pháp Tứ-đế. 
5/. Bất-địa, đoạn lìa các dục vọng của Dục-giới, chứng được Nhất-lai tức là quả Tư-đà-hàm và còn phải sanh trở lại nơi đời một lần nữa. 
6/. Ly-dục-địa : Chứng quả A-na-hàm hay Bất-hoàn và không còn sanh vào thế gian nầy nữa. 
7/. Dĩ-biện-địa : Đã trừ được kiến-hoặc và tư-hoặc trong 3 cõi, chứng thành A-la-hán. 
8/ Chi Phật-địa : Tức quả Bích-chi-Phật của hàng Tiểu-thừa. 
9/ Bồ-tát-địa : Do tụ lục độ, vạn hạnh trải qua vô số kiếp đã tròn đủ và chứng được quả vị Bồ-tát. 
10/ Phật-địa : Thân rốt sau của Bồ-Tát được hoàn toàn giác ngộ. Còn nếu phân chia theo Thanh-văn-thừa Thập-địa lại là quy y Tam- Bảo, Tấn, Tín-pháp, Nội-phàm-phu, Học-tín-giới, Bác-nhân-địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. 
Nhưng đối với hàng Duyên-giác lại quan niệm Thập-địa có khác : 
1.- Khổ hạnh đầy đủ 
2.- Ngộ pháp 12 nhân duyên 
3.- Ngộ được pháp Tứ-đế 
4.- Trí tuệ thậm thâm 
5.- Chứng được cửu thánh 
6.- Quan sát tường tận cỏi hư không pháp giới và cõi chúng sanh 
7.- Nhập vào chỗ tịch tĩnh an vui 
8.- Đạt được 6 phép thần thông 
9.- Thấu triệt được chân lý bí yếu của vạn pháp 
10.- Tập khí và tưởng nghĩ của kiếp hiện tại còn lại một ít nơi tâm niệm. 
Tóm lại, 10 cấp bậc tu chứng nầy chung cho cả hàng Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát đã dày công tu tập trong nhiều đời mà thành tựu Phật đạo. 
32.-  KIẾP LÀ GÌ ? CÓ KHÁC VỚI ĐỜI KHÔNG ? 
Chữ kiếp thường dùng để chỉ kiếp sống con người, tức khoảng thời gian lâu dài mà chúng ta không biết được đích xác là bao nhiêu năm. Nhưng theo sự đo lường của khoa học hiện đại đã cho một con số rõ ràng về kiếp như sau : 
Thế giới thành hình và hoại diệt luôn luôn xoay chuyển không ngừng. Mỗi một thế giới đều trải qua bốn thời kỳ là thành, trụ, hoại, không hay thành hình, tồn tại trong một thời gian, thay đổi và tiêu diệt. Mỗi thời kỳ đều có 20 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp độ khoảng 16,000,000 năm. Chữ kiếp nói đủ, theo tiếng Phạn là Kiếp-ba (Kalpa) nghĩa là thời phận, tức việc phân chia ranh giới của thời gian có hai trường hợp : Đại thời và Trường thời. 
Kiếp-thành là thời kỳ thế giới thành lập. Kiếp-trụ là sau khi thế giới đã thành hình và có các loài hữu tình chung sống lẫn lộn ở đó. Kiếp-hoại là giai đoạn phá hủy và kiếp không là thời kỳ bị tiêu diệt hoàn toàn không còn lại gì cả. Do đó, khi nói tới một kiếp là chỉ cho khoảng thời gian lâu xa thăm thẳm ! Các vị Bồ-Tát tu hành từ lúc phát tâm cho tới khi chứng quả phải trải qua 3 a-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật. Một kiếp khoảng thời gian đã lâu, lại còn phải qua 3 lần nhiều hơn như thế để hành giả thực hành đạo giải thoát, đủ cho thấy rằng công phu tu tập lâu xa đến chừng nào ! 
Tóm lại, một đại kiếp gồm có 4 thời kỳ tức là 4 trung kiếp. Mỗi thời kỳ có 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy, số năm của một đại kiếp là : 
Đ = tk x Tk = (20 x 4) = 80 x 16,000,000 = 1,280,000,000 năm. 
(một ngàn hai trăm tám mươi triệu năm) 
33.- A TĂNG LÀ GÌ, SỐ LƯỢNG CÓ THỂ TÍNH ĐẾM ĐƯỢC KHÔNG ? 
Chữ A-tăng-kỳ có nghĩa là vô số, dùng để chỉ cho số nhiều như số cát sông Hằng không thể nào tính đếm hết được. A-tăng-kỳ kiếp là kiếp sống hay sự tồn tại của thế giới qua hàng ngàn triệu năm. 
Theo như sự ước tính của khoa học thì một đại kiếp gồm có 4 trung kiếp, một trung kiếp có 20 tiểu kiếp và một tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy, câu nói 3 a-tăng-kỳ kiếp gồm một tiểu kiếp, một trung kiếp và một đại kiếp mà thành. Số năm giữa một kiếp với a-tăng-kỳ kiếp khác nhau hàng triệu triệu năm vậy. 
Đức Phật mỗi khi thuyết pháp gặp con số nhiều thường ví với số các của sông Hằng hay là a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ kiếp là khoảng thời gian để cho các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát tu tập đạt đến đạo giải thoát, và như thế số năm trong thời gian thực hành Phật giáo phải dài lâu biết bao nhiêu ! 
Chúng sanh vì không thấy được hết sự cấu tạo nên thế giới vũ trụ và do đó cũng lại càng mù mịt hơn khi nói tới niên số để hình thành các cõi. Con người chỉ biết hạn hẹp trong phạm vi nơi thế giới đang tồn tại, ngoài ra chung quanh chúng ta còn có biết bao nhiêu thế giới khác cũng hoạt động và người ta phải đợi đến một giai đoạn mà khoa học tiến bộ như ngày nay mới khám phá ra được màn bí mật của vũ trụ ! Nhưng khoa học cũng chưa đạt được tới chỗ sau cùng của những công cuộc thăm dò, thám hiểm, tìm tòi ... mà hiện còn có vô lượng vô số thế giới đang trãi qua các thời kỳ thành hình, tồn tại, hoại diệt và không. Chư Phật và các vị Bồ-Tát nhờ dày công tu luyện đã chứng minh được sự hiện hữu của muôn ngàn cõi khác nhau và số lượng niên đại trong mỗi thời kỳ mà con mắt thường của chúng sanh không thể hình dung hay tính đếm được. 
Con người chỉ biết được khoảng thời gian qua các thế hệ (một thế hệ 30 năm), đời, thế kỷ chứ không thể nào xác định rõ được số năm nhiều hơn ở mỗi thời kỳ thành hình của các thế giới khác nhau. 
34.- CỬU-ĐỊA LÀ GÌ ? CÓ KHÁC NHAU VỚI THẬP-ĐỊA ? 
Trong 3 cõi : Dục, sắc và vô-sắc lại chia thành Cửu-địa. Vậy Cửu-địa là gì ? 
1- Ngũ-thú tạp-cư-địa : 5 loài hữu tình chung nhau ở cõi dục. 
2- Ly-sanh hỷ-lạc-địa : Các bậc tu hành đã chứng được sơ quả và các khổ ở cõi dục đã dứt nên sanh tâm vui mừng. 
3- Định-sanh hỷ-lạc-địa : Bậc nhị thiền ở cõi sắc do sức thiền định mà được an vui. 
4- Ly-hỷ diệu-lạc-địa : Người tu chứng được quả tam thiền ở cõi trời sắc giới, vì đã xa lìa sự vui ở cõi dục và cõi sắc để có được cảnh vui mầu nhiệm hơn. 
5- Xả-niệm thanh-tịnh-địa : Chứng được quả tứ thiền và ở cõi sắc đã dứt trừ được tâm niệm xấu ác, hành giả chỉ còn lại thuần tự tánh thanh tịnh, bình đẳng và an trú được trong chánh niệm, không còn nhiễm trước các tạp niệm, vọng tâm nữa. 
6- Không-vô-biên-xứ : Thuộc về cõi trời thứ nhất của cõi vô-sắc, không còn các hình sắc nữa, người tu an trú trong thiền định. 
7- Thức-vô-biên-xứ : Cõi trời thứ hai thuộc về vô-sắc-giới và chúng sanh ở đó thường an trú trong cảnh định thức an ổn. 
8- Vô-sở-hữu-xứ : Cõi trời thứ 3 thuộc về vô-sắc-giới, chúng sanh nơi đó an định trong phép thiền quán sát, không còn có chỗ sở hữu. 
9- Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ : Cõi trời thứ 4 thuộc vô-sắc-giới chúng sanh phần nhiều đều an trú với cảnh định phi-tưởng và phi-phi-tưởng. 
Nói một cách dễ hiểu hơn, cõi dục gọi là tán địa tức là nơi gây ra nhiều xáo trộn, loạn động do tâm thức vẫn đục của chúng sanh tạo ra. Cõi sắc và vô sắc gọi là định địa, nhờ tu tập thiền định mà cảm thọ được quả báo an vui. Như vậy, cữu địa đây có khác với thập địa không ? 
Trong thập địa có cả hàng Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác và Phật địa và dung thông cho tất cả các bậc Thánh. Trong khi đó cữu địa chỉ là những bước tu tập từ thấp đến cao của hàng Tiểu thừa mà thôi. Đó là sự khác biệt nhau giữa hai trường hợp, mặc dù cả 2 đều có dùng chữ "Địa", nhưng ta không thể lầm lẫn được. 
Muốn đạt đến đơn vị rốt sau trên bước đường tu tập, hành giả phải tinh tấn tu tập để mới có thể thành tựu viên mãn. 
35  TỨ ĐẠI LÀ NHỮNG GÌ ? 
Mỗi một cá nhân có được thân nầy một phần do tinh huyết của cha mẹ tạo thành, một phần do các yếu tố vật chất bên ngoài nuôi dưỡng. 
Nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy rõ thân xác nầy gồm có 4 phần hợp lại như đất, nước, gió, lửa cấu thành. Các phần : Xương, thịt, da, tóc, răng, móng trong cơ thể thuộc về chất đất. Trong khi đó các chất lỏng như đờm, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước mắt, máu huyết ... thuộc về chất nước. Còn gió chỉ cho hơi thở, cơ quan hô hấp, các lỗ bài tiết ... Phần còn lại là chất nóng trong người, tức là nhiệt lượng tỏa khắp toàn thân thể để bảo tồn được xác thịt đứng vững, đó gọi là hỏa. 
Thân xác ta thành hình do 4 yếu tố kia gắn chặc vào nhau để tồn tại. Nếu một trong bốn yếu tố của tứ đại nầy thay đổi hoặc mất sự quân bình, tự nhiên cơ thể không thể giữ được thăng bằng, trái lại còn gây ra những triệu chứng bất bình thường, như khi thân thể bị thương thì toàn thân phải chịu ảnh hưởng. Người bị tăng huyết áp có những triệu chứng đau nhói khó chịu, hơi thở không điều hòa là dấu hiệu của người bịnh hoạn. Khi nào cả 4 yếu tố đều ngưng hoạt động thì cuộc đời của một người coi như đã mãn phần ở thế gian nầy. 
Lúc thân xác tan rã, các phần đất, nước, gió, lửa đều hoàn nguyên trở về trạng thái cũ, rốt cuộc con người không còn lưu lại được gì cho chính mình cả. 
Những người lúc sống biết tu phước làm thiện, khi chết được an lành. Với ý niệm đó, theo Phật giáo mỗi khi có người nhà sắp tắt hơi thở lìa đời thì mọi người thân thuộc nên hợp nhau lại cầu nguyện bằng lời kinh, để cho thần thức của người sắp chết được nhẹ nhàng đi đầu thai kiếp khác. 
Với thân tứ đại nầy không có gì đáng quí trọng cả, mà chúng ta chỉ lưu ý hướng thượng tinh thần mới là điều quyết định trong kiếp lai sinh ! 
36.- THẬP TRỤ TRONG PHẬT GIÁO LÀ GÌ ? 
Thập-trụ là chỗ của các bậc tu hành nương vào để an trụ. Chỗ an trụ ấy từ thấp đến cao có chia ra làm 10 thứ bậc như dưới đây : 
1- Phát-tâm-trụ : Lúc đầu mới phát tâm tu tập. 
2- Trị-địa-trụ : Chọn điểm tựa để nương náu. 
3- Tu-hành-trụ : Gia công thực hành việc tu tập. 
4- Sanh-quy-trụ : Phát tâm quy hướng. 
5- Phương-tiện-trụ : Do nơi pháp phương tiện mà hành đạo. 
6- Chánh-tâm-trụ : Tâm an định trong chánh niệm. 
7- Bất-thối-trụ : Lòng không thối chuyển. 
8- Đồng-chơn-trụ : Thiết thạch trong lành, tâm như gương sáng không bị vẫn đục. 
9- Pháp-vương-tử-trụ : Dũng mãnh phi thường như vua của các pháp. 
10- Quán-đảnh-trụ : Quán chiếu nơi đảnh đầu phát ra điện quang. 
Các bậc Bồ-Tát ra đời để trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh (thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sanh) mà an trụ tâm. Đây là giai đoạn thứ nhất trong 3 a-tăng-kỳ kiếp của hành giả trên đường tu. Ngoài ra, để thành tựu được 10 nơi trụ tâm vững chắc, người phát tâm tu hành cần phải có thêm lòng tin tưởng nữa. Đó là : 
1- Tín tâm, 2- Tinh tấn, 3- Niệm tâm, 4- Định tâm, 5- Huệ tâm, 6- Thí tâm, 7- Giới tâm, 8- Hộ tâm, 9- Nguyện tâm, 10- Hồi hướng tâm. 
Trước hết người hành trì Phật giáo phải tin rồi phát tâm tu tập thì mới đạt được kết quả như điều mong muốn. Khi định và huệ đã đủ, bèn khởi lòng từ bi bố thí và răn nhắc, ngăn ngừa tâm loạn động để giữ cho điều hòa từ nội thân đến ngoại cảnh. Nguyện cho mình được tròn đầy phước trí để hồi hướng về cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật quả. 
Phát lòng tin tưởng để an trụ tâm trong chánh pháp mà tu tập cho tới khi đạt được đạo, và việc tu hành vì chưa được thành tựu tới chỗ rốt ráo nên hành giả phải cần nương trụ. 
37.- THẬP HẠNH LÀ GÌ ?
Người phát tâm tu tập đã trải qua được giai đoạn đầu và tiến lên xa hơn nữa trong pháp sáu độ (bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định, trí-tuệ) và vạn hạnh tức là tu các hạnh khác nhau, trong đó có 10 hạnh như dưới đây : 
1- Hoan-hỷ-hạnh : Vui vẽ tự nhiên không có gì vướng bận tâm. 
2- Nhiêu-ích-hạnh : Làm cho nhiều người được lợi ích. 
3- Vô-nhuế-hạnh : Không để cho tâm vẩn đục, não loạn. 
4- Vô-tận-hạnh : Không cùng tận, tức không ranh giới, chướng ngại. 
5- Ly-si-loạn-hạnh : Lìa xa sự si mê ám chướng. 
6- Thiện-hiện-hạnh : Nghĩ và làm các việc thiện. 
7- Vô-trước-hạnh : Không tham trước mọi vật hay không đắm nhiễm. 
8- Tôn-trọng-hạnh : Tự tôn trọng mình và kính nhường người khác. 
9- Thiện-pháp-hạnh : Các pháp lành đều đầy đủ để trợ lực cho hành giả. 
10- Chơn-thật-hạnh : Lòng ngay thẳng, tánh cương trực. 
Bậc Bồ-Tát tu theo phép vạn hạnh để hoàn thành đạo nghiệp và đặc biệt chú trọng tới 10 hạnh căn bản trên đây mà đạt đến chân lý. Trong 10 hạnh có thể chia ra thành 2 bậc : Thấp và cao. Từ hạnh hoan hỷ tới hạnh thiện hiện, do nơi tự tâm hành giả phát sanh và chỉ cần sự gia công tu tập là có thể đạt được ; trong khi đó các hạnh không tham đắm trước mọi vật, lòng tôn kính, thực hiện các pháp lành và tánh ngay thật cần đòi hỏi cả một trời công phu ! Đây là một bước quan trọng trong suốt hành trình tiến và đường đạo rất khó khăn trở ngại, nếu không thật thận trọng rất dễ bị thối chí nản lòng nên nó đòi hỏi phải có sự cương quyết và dũng mãnh để chiến thắng được những cạm bẩy từ bên trong tâm thức cho tới bên ngoài cảnh vật. 
Khi thực hành trọn đủ 10 hạnh như vậy, bậc Bồ-Tát đã có một tâm niệm không thối chuyển để tiến lên được xa hơn trong các bậc thang kế tiếp của đạo giải thoát. 
38.- THẬP-HỔI-HƯỚNG LÀ GÌ ? 
Thập-hồi-hướng là 10 việc lợi lành hướng về tất cả muôn loài để chia sớt bớt phước báo và cùng nhau hướng tới Phật quả. 
Mười công đức để hồi hướng là : 
1- Cứu hộ chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng : Ra ân giúp đỡ cho chúng sanh, nhưng không vì đó mà chấp trước việc cứu giúp. 
2- Bất hoại hồi hướng : Không có một thế lực hay sức mạnh nào phá nổi để thoát lui việc giúp đỡ chúng sanh của hành giả. 
3- Đẳng chư Phật hồi hướng : Do lòng từ bi rộng lớn như chư Phật xin nguyện cứu giúp tất cả chúng sanh. 
4- Chí nhứt thiết xứ hồi hướng : Hoàn tất trong việc cứu giúp muôn loài. 
5- Vô tận công đức tạng hồi hướng : Có ngần nào công đức xin đem san sẽ ra cho tất cả chúng sanh. 
6- Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng : Tất cả những căn lành vững bền có được, tùy theo đó mà cứu giúp chúng sanh. 
7- Đẳng tâm tùy thuận chúng sanh nhứt thiết hồi hướng : Đem tâm bình đẳng để hòa nhập vào trong tất cả chúng sanh. 
8- Như tướng hồi hướng : Quay về với tánh thật của mình. 
9- Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng : Không chấp trước, không ràng buộc, tâm được giải thoát tự tại. 
10- Pháp giới vô lượng hồi hướng : Hướng về pháp giới chúng sanh để cầu cho trọn thành Phật đạo. 
Trong 10 chỗ trụ tâm, 10 hạnh an lạc và 10 việc lợi lành hồi hướng gọi là tam hiền. Trong 3 bậc nầy hành giả đều nhất tâm hướng về đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Do tu tập các công đức lợi lành mầu nhiệm ấy như là rường cột của việc tu nên gọi là tư lương vị hay là món ăn tinh thần cao khiết. 
Từ chỗ sơ tâm tiến lên tới cấp bậc nầy hành giả đã trải qua bao nhiêu việc thực hành khó khăn trong suốt một đại a-tăng-kỳ kiếp. 
39.- THẤT PHẬT LÀ NHỮNG VỊ PHẬT NÀO ? 
Thất Phật là bảy đức Phật trong quá khứ tính cho đến Phật Thích-Ca, giáo chủ cõi Ta-Bà, Đản-sanh năm 624, Tịch-diệt năm 544 trước kỷ nguyên Tây-lịch. 
Quá-khứ Trang-Nghiêm kiếp có ba đức Phật : 
- Phật Tỳ-Bà-Thi, Phật Thi-Khí, Phật Tỳ-Xá-Phù 
Hiền-kiếp quá-khứ có bốn đức Phật : 
- Phật Câu-Lưu-Tôn, Phật Câu-Na-Hàm Mâu-Ni, Phật Ca-Diếp, Phật Thích-Ca-Văn. 
- Phật Tỳ-Bà-Thi hay Phật Di-Vệ. 
- Phật Thi-Khí cũng đọc là Thức-Khí 
- Phật Tỳ-Xá-Phù dịch là Biến-Nhất-Thiết Tự-Tại. Ba vị Phật này ở vào kiếp chót của kiếp Trang-Nghiêm đời quá-khứ. 
- Phật Câu-Lưu-Tôn dịch là Sở-Ưng-Đoạn, ra đời đầu tiên trong 1000 đức Phật. 
Lúc đó thọ mạng con người là 6 vạn tuổi, trong tiểu kiếp thứ chín thuộc Hiền Kiếp hiện tại. 
- Phật Câu-Na-Hàm Mâu-Ni dịch là Kim-Tịch, ra đời lúc con người sống bốn vạn tuổi. 
- Phật Ca-Diếp dịch là Ẩm-Quang, ra đời lúc con người sống hai vạn tuổi. 
- Phật Thích-Ca Mâu-Ni dịch là Năng-Nhân Tịch-Mặc, ra đời lúc con người sống 100 tuổi. 
Phật Thích-Ca ra đời thuyết giáo chia thành ba thời kỳ : Chánh-pháp ; khoảng 500 năm sau đức Phật nhập diệt, Tượng-pháp từ khoảng sau 500 năm đến 2000 năm, và cuối cùng là thời kỳ Mạt-pháp, sau Phật nhập diệt khoảng 2000 năm. Chúng ta đang ở trong đời Mạt-pháp, tuổi thọ mạng giảm dần từ 100 xuống 80 như hiện tại. 
Bảy đức Phật ra đời cứu độ chúng sanh, và kế tiếp đức Phật Di-Lặc xuất thế đem an vui cho nhân loại chúng sanh trong pháp giới. 
40.-  THẾ GIỚI THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO RA SAO ?
Thế giới là nơi có loài người và muôn vật sinh tồn nên còn gọi là Thế-gian. Do đó chữ thế gian được chia ra làm 2 loại : Hữu tình thế gian và môi sinh của các loài chúng sanh. 
Thế nào là hữu tình và môi sinh thế gian ? 
Loài hữu tình có thân hình, có cảm giác, còn môi sinh như sông ngòi, núi rừng, biển, cơm ăn, áo mặc và những tiện nghi vật chất cống hiến cho loài động vật sanh tồn. Do chánh-báo, tức tạo nhân gì chúng sanh sẽ cảm thọ nên nghiệp ấy mà thành hình hài và phải nương vào y-báo (các tiện ích) để hiện hữu. 
Theo quan niệm của Phật giáo, trong vũ trụ có những thế giới khác nhau, hợp nhau 1000 thế giới thành một Tiểu-thiên thế-giới, gồm chung 1000 Tiểu-thiên thế-giới lại là một Trung-thiên thế-giới, gồm chung 1000 Trung-thiên thế-giới lại thành Đại-thiên thế-giới. Đó là Tam-thiên Đại-thiên thế-giới, tức là bao dung cả Tiểu, Trung và Đại mà thành hình 3 ngàn cõi khác nhau. 
Theo các nhà khoa học ngày nay, ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có vô số thế giới nhỏ li ti như hạt bụi ở khắp các cõi trong mười phương. 
Thế giới ngày nay nơi mà chúng ta đang tồn tại đây gọi là thế giới Ta-Bà. Chữ Ta-Bà vốn nghĩa là kham nhẫn, tức có ý nói rằng loài chúng sanh ở đó phải chịu đựng tất cả những điều thống khổ. 
Muốn thoát được sự thống khổ ở thế gian, chúng ta phải biết tu nhân lành và tạo điều phước đức mới cảm thọ được chánh báo an lạc.    
 
--o0o--