-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Tám
Quyển Sách Quý
- Thích Thiện Hoa
---o0o---
Quyển 1
Tu Tâm
-
- Người đời
sớm phải tri cơ,
- Gương lu vì
bụi, trăng mờ vì mây.
- Chở che nhờ
đức cao dày,
- Dẫu tu cho
mấy chẳng tài tu tâm.
-
-
Tu tâm Là Một vấn đề
quan trọng
- Người đời hung dữ, vì chẳng biết tu
tâm
Gia đình không hạnh phúc, vì chẳng biết tu tâm;
Xóm, làng hay rầy rà kiện cáo vì dân quê chẳng biết tu tâm;
Thế giới chiến tranh, tương tàn tương sát, vì nhân loại chẳng biết
tu tâm;
Phật tử tu hành bị thối chuyển, vì chẳng biết tu tâm.
Con người có Tu Tâm, mới trở nên hiền từ,
Gia đình có Tu Tâm, thân tộc mới được hạnh phúc.
Quốc gia có Tu Tâm, nước nhà mới có thạnh trị.
Nhơn loại có Tu Tâm, thế giới mới được hòa bình
Phật tử có Tu Tâm, mới mau thành đạo chứng quả.
Thích Thiện Hoa
- Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
- Thưa quý vị,
- Tôi rất vui
mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bơ thì giờ quý báu, để đến
chùa lạy Phật nghe kinh, Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì
ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều
lành. Một người tránh dữ làm lành, thì người ấy trở nên hiền từ.
Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả
nước đều tránh giữ làm lành thì toàn dân có đạo đức, trở nên một
nước thạnh trị. Cả nhơn loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế
giới chẳng được đại đồng, nhơn loại không hưởng được hạnh phúc
thái bình.
- Hơn nữa, trong
kinh Pháp Hoa Phật dạy: " Người nào niệm "Nam mô Phật" thì người
ấy (hột giống Phật đã gieo vào trong tâm điền của họ rồi, không
sớm thì chầy) sẽ được thành Phật". Huống chi quý vị thường đến
chùa lạy Phật nghe kinh, thì có lý nào sau này chẳng được thành
Phật quả.
- Sách Đại học
nói:"Dục bình thiên hạ, tiên trị kỳ quốc; dục trị kỳ quốc, tiền tề
kỳ gia; dục tề kỳ gia tiên tu kỳ thân, dục tù kỳ thân, tiên chánh
kỳ tâm"
- Nghĩa là: Muốn cho thiên hạ được
hòa bình thi trước phải mỗi nước được thanh trị; muốn cho mỗi nước
được thạnh trị, thì mỗi gia đình trước phải chỉnh đốn; muốn cho
gia đình được chinh đốn, thì mỗi người trước phải tu thân; muốn tu
thân, thì mỗi người trước phải sửa Tâm mình cho chơn chánh.
- Bởi thế nên hôm
nay tôi giảng về vấn đề " Tu Tâm"
- Thưa quý vi,
- Người đời có
hai điều thiếu thốn:
- 1. Thiếu thốn
về vật chất- Người thiếu thốn về vật chất: Cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, nhà cửa trống trước rách sau, khổ sở về xác thịt.
- 2. Thiếu thốn
về tinh thần- Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, gian
xảo, tật đố, kiêu căng v.v.. tạo đủ điều tội ác; không những có
hại cho mình hay một đời mình, nhiều khi còn liên lụy đến bà con,
hoặc có hại đến nhiều đời sao nữa, nên thiếu thốn về vật chất.
- Xưa có vị Hiền
triết, không nhà cửa, chì dùng cái thùng cây làm nhà ở: nhưng vì
tinh thần nay đủ, nên vị Hiền triết ấy chẳng thấy chút gì khổ sở.
Trái lại như ông Thạch Sùng, vua Kiệt, vua Trụ v.v… tuy đầy đủ về
vật chất, nhưng thiếu thốn về tinh thần, nên tâm hồn vần đau khổ,
làm nhiều điều tội lỗi tày trời!
- Song le, người
đời chi lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợi và lo sợ
nghèo thiếu về tinh thần! Hôm nay tôi hiến cho quý vị một món quà
về tinh thần.
- Thưa quý vị!
Trong sách Nho, Thầy Mạnh nói: " Nhơn,nhơn tầm giả; Nghĩa, nhơn lộ
giả; xả kỳ lộ nhi phất do, phóng kỳ tâm nhi bất tri cầu". Nghỉa
là: Nhơn, là cái tâm của con người vậy; Nghĩa, là con đường của
người đi vậy ( đi lên, đi xuống, qua lại, tới, lui v.v.. cũng theo
đường mà đi). Tại sao người đời lại bỏ con đường của mình không
chịu đi ( người đời làm việc gì cũng nhờ tâm: kinh dinh sự nghiệp
lớn lao, cũng nhờ tâm suy tính; được tài hay trí giỏi công danh vĩ
đại, cũng nhờ tâm lo lường); thế mà người đời lại bỏ cái tâm của
mình, chẳng biết tìm cầu!
- Nói đến đây,
thầy Mạnh lại than rằng: " Ai tai! Nhơn hữu kê khuyến, xả nhi tắc
tri cầu chi, hửu phóng tâm nhi bất tri cầu": Rất thương thay cho
người đời! Mất những vật nhỏ mọn như đồng xu, cắc bạc, con gà, con
chó chẳng xứng đáng chi, mà họ còn biết tìm kiếm, huống chi cái
Tâm là vật quý giá vô cùng: Làm Hiền nhân Quân tử cũng nhờ tâm;
thành Phật làm Tố cũng nhờ tâm, thế mà người đời lại bỏ cái tâm
của mình không biết tìm cầu. Thầy Mạnh Tử lại nói tiếp: " Học vấn
chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ!" đạo học vẫn không có
chi lạ, chỉ tìm kiếm cái phóng tâm của mình mà thôi!
- Trong kinh Lăng
Nghiêm, Phật dạy: "Nhược bất thức tri tâm mục sở tại, tắc bất năng
đắc hàng phục trần lao; thí như Quốc vương vi tặc sở xâm, phát
binh thảo trừ, thị binh yếu đương trị tặc sở tại; sử nhữ lưu
chuyể, tâm mục vi cựu". Làm cho ông lưu chuyển sanh tử, là lỗi tại
cái tâm và con mắt của ông. Vậy nếu ông không biết cái tâm cùng
với con mắt ở chỗ nào, thời ông không thể hàng phục được phiền não
trần lao. Cũng như vi quốc vương bị giặc xâm chiếm, đem binh đẹp
trừ, nếu không biết được giặc ở chỗ nào, thì không bao giờ dẹp trừ
được giặc.
- Bởi thế nên
người học Phật, muốn thoát ly sanh tử, ra khỏi luân hồi, điều cần
yếu là phải biết tâm mình. Khi biết được chơn tâm và vọng tâm rồi,
mới có thể lần hồi dẹp trừ vọng tâm, trở về với bản thế chơn tâm
của mình được.
- Trong kinh Lăng
Nghiêm, Phật lại dạy: " Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, điên
đảo đủ điều, là do hạt giống nghiệp sẵn có, nó dính liền nhau, như
chùm trái ác xóa. Người tu hành không thể thành quả vị vô thương
Bồ đề, mà chỉ thành Thinh văn Duyên giác và Thiên ma ngoại đạo
v.v… là bởi không biết hai món "chơn" và "vọng". Nếu các ông lầm
lộn tu tập theo vọng niệm, mà muốn chứng đạo quả Bồ đề, thì cũng
như người nấu cát muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp cũng
không kết quả được".
- Trong kinh Lăng
Nghiêm, Phật nhiều lần gạn hỏi ông A Nan, cái "Tâm" ở chỗ nào?
- Ông A Nan đáp:
Tâm ở trong thân, tâm ở ngoài thân, tâm núp trong con mắt, tâm ở
chặn giữa v.v… đều không trúng cả.
- Thưa quý vị!
Chúng ta với Phật không khác, nhưng vì chúng ta chưa nhận đượ bản
tâm của mình, nên làm chúng sanh; Chư Phật đã chứng được cái bản
tâm ấy rồi, nên các Ngài thành Phật.
- Vì vậy, thế hôm
nay tôi giảng về vấn đề " Tu Tâm"
-
Tu và Tâm
- Chữ "Tu" nghĩa
là sửa; Sửa cái xấu trở lại cái tốt, sửa các dở trở lại hay, sửa
cái quay trở lại phải, sửa phàm Thánh. Như nhà cửa hư hao, đất
vườn u trệ, nay sửa lại cho tốt đẹp, như thế gọi là "Tu bố" Thân
thể lôi thôi hành vi bẩn thỉu, nay sửa lại cho đàng hoàng, như thế
gọi là "Tu thân". Tâm tánh ô trược tham lam, tật đố, tà kiến, si
mê v.v… nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp, như thế gọi là "Tu
Tâm",
- "Tâm" là "cái
hiểu biết phân biệt", cũng gọi là "phần tinh thần". Tâm không có
hình tướng dài, ngắn, vuông, tròn, hay có màu sắc xanh, đỏ, trắng
và vàng gì. Không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không
thể dùng tay chơn rờ đụng được tâm; chỉ o thấy cái tác dụng của
nó, nên biết có tâm. Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe
hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có
điện. Như cho điện vào neon, thì thấy đèn sáng, cho vào quạt thì
thấy quạt xoay v.v…. Vì thế, nên người ta biết có điện- Tâm chúng
ta cũng thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe và phân biệt v.v… nên
chúng ta biết có Tâm.
- Tâm có chia làm
hai phân; Chơn và Vọng. Đứng về phần chơn tâm (thế) thì không thể
dùng lời nói luận bàn, hay tâm trí suy nghĩ được, mà cần phải tự
chứng ngộ, nên trong kinh nói: " Rời tướng nói năng, rời tướng
danh tự, rời tướng tâm duyên" Song đứng về phần "vọng tâm", thì có
thể nói năng và phân biệt được.
- Trong bài này,
tôi chi bàn về "vọng tâm" (thức). Khi chúng ta hiểu biết và đẹp
trừ được cái "vọng" rồi, thì "chơn tâm" hiện ra. Cũng như sóng
lặng rồi, thì tánh nước bằng phẳng tự hiện.
- Thưa quý vị!
Như trên tôi đã nói: "Tâm không có hình tướng: dài, ngắn, vuông,
tròn, hay xanh, đỏ, trắng, vàng gì, nên không thể dùng mắt thấy,
tai nghe, hay rờ mó được Tâm. Song nhờ thấy cái tác dụng của nó
nên chúng ta mới biết có "Tâm".
- Mọi người không
phải chỉ có năm " giác quan" mà có đều đến tám cái "Biết", tức là
tám cái Tâm. Theo Duy thức học gọi là "Tám thức" (tám cái Biết).
Tám cái Tâm này đều có chủ quyền thống lãnh mỗi chỗ; cũng như mỗi
ông Vua ngự trị mỗi nước, nên trong Duy thức học gọi là "Tám Tâm
Vương".
-
-
TÂM VƯƠNG
- 1.- Trong lúc
chương ta mở mắt thấy các cảnh vật, biết được cảnh đây xanh, kia
đỏ, đó trắng, nọ vàng v.v… Vì cái biết này thuộc về con mắt, nên
trong Duy thức gọi là "Nhãn thức" (cái biết của con mắt).
- 2. – Lỗ tai
chúng ta, khi nghe các tiếng, biết được tiếng hay, dở, phải, trái
v.v…Bởi cái biết này thuộc về lỗ tai, nên trong Duy thức gọi là
"Nhĩ thức" (cái biết của lỗ tai).
- 3.- Lỗ mũi
chúng ta, khi ngửi mùi, biết được đây là mùi thơm hay hôi v.v… cái
biết đó thuộc về lỗ tai, nên trong Duy thức gọi là "Tỷ thức" (cái
biết của lỗ tai).
- 4.- Miệng chúng
ta, khi nếm các vị, biết được vị này ngọt, lạt, cay, đắng, béo,
bùi v.v…Cái biết này thuộc về lưỡi, nên trong Duy thức gọi là
"Thiệt thức" (cái biết của lưỡi).
- 5.- Thân thể
chúng ta, đụng lửa biết nóng, xuống nước biết lạnh, mặc đồ mỏng
biết mát, mang đồ mỏng biết mát, mang đồ dày biết nực, đụng đá
biết cứng, cầm bông biết mềm v.v… Vì cái biết này thuộc về thân,
nên trong Duy thức gọi là " Thân thức" (cái biết của thân). Cả năm
thức này, khi chứng được quả vô lậu thì nó chuyển thành "Thành sở
tác trí".
- 6.- Trong khi
chúng ta, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, miệng
không nếm, thân thể không chạm xúc; nói cho gọn hơn, là trong lúc
năm giác quan không tiếp xúc với trần cảnh, mà ý thức vẫn phân
biệt tính toán: nhớ những cảnh đã qua, suy xét những điều chưa
đến. Cái biết như thế, thuộc về "Ý thức". Như ngày hôm qua, chúng
ta đi coi haut, tai không còn nghe tiếng Các Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa v.v… mà trong ý thức vẫn còn mơ màng
điệu bộ người haut, in như còn phưởng phất ở trước mắt, tiếng
người ca như văng vẳng bên tai. Mặc dù không có cảnh vật hiện tiền
phản ảnh vào 5 giác quan, mà ý thức chúng ta cũng vẫnn tính toán
phân biệt.
- Một tỷ dụ nữa,
như chúng ta chưa đi học, mà biết rằng mình học sẽ được, chưa làm
ruộng, mà biết mình làm ruộng đây trúng hay that, chưa buôn bán,
mà có thể đoán trước rằng, buôn bán đây lời hay lỗ; nghĩa là,
những việc đã qua, chưa đến hay hiện tại, chúng ta đều suy xét
biết được. Nhưng cái biết như thế, trong Duy thức học gọi là "Ý
thức" (cái biết của Ý), cũng gọi là "Đệ lục thức" (cái biết thứ
6).
- Cái Ý thức này,
công dụng của nó lợi hại vô cùng. Nếu nó suy nghĩ tính toán những
việc hay, tốt, thì thân chúng ta sẽ làm điều lành, miệng nói những
lời phải, đều có lợi ích cho mình và người. Như các nhà tu hành
khi niệm Phật, quán tưởng, tham thiền, nhập định v.v… cho đến lúc
thành đạo,chứng quả, cũng nhờ công dụng của "đệ lục thức" này. Đến
khi chứng được quả vô lậu, thì ý thức trở thành " Diệu quán sát
trí"
- Ở thế gian,
kinh doanh được sự nghiệp lớn lao, hay làm những điều núi lỏ, sóng
nghiêng, tội ác tày trời, cũng đều do ý thức này suy nghĩ lợi hại
cả; nên trong Duy thức nói: " Công vi thủ, tội vi khôi". Nghĩa là;
luận về công thì thức này có công hơn; còn nói về ác thì thức này
cũng đứng đầu.
- 7.-Quý vị đã
rõ, mỗi người đều có 6 cái biết, nói bằng cách khác là 6 món cảm
giác. Vậy bay giờ đây, chúng ta nên suy xét sâu thêm một từng nữa:
cái ý thức kia, tuy ở trong 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, nó
đều có công năng phi thường hơn 5 thức ttrước, nhưng có khi nó bị
gián đoạn. Như khi chúng ta ngủ mê, hoặc cheat giấc hay những lúc
bị chụp thuốc mê, lúc ấy không phải cheat, nhưng không biết chi
cả, và những người tu Vô tướng định v.v… lúc bay giờ cũng không
còn tính toán phân biệt gì nữa. Đây là những bằng chứng trong khi
ý thức bị gián đoạn.
- Qua các thời
gian ấy, thì ý thức (cái biết thou 6) lại khởi lên phân biệt như
thường. Vậy trong lúc nó bị gián đoạn, chắc phải nương về một nơi
nào? Chỗ ấy, theo Duy thức học gọi nó là "ý căn" ( nghĩa là cái
gốc của ý thức thou 6). Tôi xin tỷ dụ để quý vị dễ hiểu, như đám
cỏ cú kia, bị đá đè hay nắng rụi, đến lúc người ta dời viên đá nơi
khác, hoặc gặp mưa xuống thì cỏ nứt mộng mọc chồi. Cho biết trong
lúc cỏ rụi, là nó chi trở về củ của nó, ẩn ở dưới đất mà thôi. Nếu
cỏ kia không có củ, thì không làm sao nứt mộng mọc chồi được. Còn
ý thức thứ 6 cũng thế, khi không có phân biệt nó không phải mất
hẳn mà chỉ trở về với gốc của nó là thức thứ bảy, nên trong Duy
thức cũng gọi là "Ý căn" (gốc của ý thức). Theo tiếng Phạn gọi là
"Mạt na thức".
- Công năng của
thức thứ bảy này lả thường thường chấp Ta khác với người. Chúng ta
đi, đứng, nằm, ngồi, không lúc nào quên được mình (ta). Khi đối
với người nói chuyện, vừa mở miệng ra là đã nói "Tôi" (ta). Hay
những lúc tình cờ cây rơi (rout), hoặc bị người đánh v.v… thì ta
ngẫu nhiên đưa tay đỡ, tránh. Đây là những bằng chứng thức này
cũng bảo thủ cái ngã (ta).
- Lại nữa, khi
sanh về cõi Trời, thì thức này chấp mình là Trời, sanh về cõi
người, chấp mình là người, cho đến sanh làm loài vật, thì chấp
mình là loài vật. Tóm lại, từ phàm đến Thánh, không một vị nào
chẳng chấp có Ta, chỉ trừ những vị đã chứng được "Sanh-không trí"-
Thức thư bảy này, lại có công năng đem các pháp hiện hành, huân
chứa vào một cái kho vô tận (Tàng thức); rồi từ cái kho ấy, đưa
chủng tử các pháp ra, khởi hiện hành. Nếu không nhờ thức thứ bảy
này, huân tập những việc thấy, nghe, hay, biết vào kho vô tận
(Tàng thức), thì chúng ta không thể ký ức lại được một việc gì cả.
- Như người nhiếp
ảnh, nếu anh không đem cuốn phim ấy cất một nơi nào, thì đến khi
muốn rọi lại, không bao giờ rọi được. Song chiếu lại được, thì
biết anh có đem cuốn phim ấy cất. Thức này cũng thế, khi chúng ta
đọc một bộ sách, hay nghe một việc gì, nếu không có thức này đem
cất chứa vào kho vô tận, thì lúc xem qua khỏi mắt, tai hết nghe;
nghĩa là, đến khi cảnh vật hiện tiền không còn nhớ lại một việc gì
cả. Bởi có nhớ lại được, nên biết rằng nó có chứa đựng một nơi nào
vậy.
- Thế nên thức
thứ Bảy này, cũng có tên là "Truyền tống thức" (truyền vào và tống
ra). Đến khi chúng được quả vô lậu, thì thức này đổi tên là "Bình
đẳng tánh trí"
- 8.- Thưa quý
vị! Cứ theo chánh giác và chánh lý mà phán đoán: đã có cái "năng
phân biệt chấp ta" tức là thức thứ Bảy, thì cố nhiên phải có "cái
ta bị chấp" là thức thứ Tám. Cũng như nói "tôi cầm viết"; đã có
cái tay cầm, nhứt định phải có vật bị cầm. Vì thế nên thức thứ Tám
cũng có tên là "Ngã ái chấp tàng" (bị thức thú Bảy chấp làm ta).
- Như trên đã
nói: "Thức thứ bảy đem các pháp hiện hành luân chứa vào một nơi".
Nếu đã có kẻ đem chứa, thì nhứt định phải có chỗ để chứa. Cũng như
có người đem cất đồ vào kho, thì phải có cái kho để cất. Chúng ta
từ nhỏ đến lớn, hoặc đọc được 100 bộ sách, hay làm không biết bao
nhiêu công việc, trải qua trong một thời gian năm mười năm, không
nghĩ đến thì thôi, nếu một phen hồi tưởng lại những sách ta đã đọc
và những việc ta đã làm, thì nó vẫn hiện rõ ràng, in tuồng như mới
đọc và mới làm.
- Một bằng chứng
nữa: Chúng ta đi từ Nam chí Bắc. Xem không biết bao nhiêu phong
cảnh, hay du loch thế giới, thấy những vật lạ thường, khi trở về
nhà, các cảnh vật ấy không còn thấy nữa; nhưng một phen nhớ lại,
thì thấy rõ ràng như ở trước mắt, vẫn còn lớp lang tuần tự. Như
thế thì biết rằng, phải có cái kho bằng tinh thần vô hình và vô
at65n ( Tàng thức) để chứa đựng bao nhiêu hình ảnh của những cảnh
ta đã xem, những sách vở ta đã đọc và những việc ta đã làm…. Nếu
không có cái kho vô tận này, để chứa giữ lại, thì những sách ta đã
đọc và những cảnh ta đã xem và thôi đọc; nghĩa là phải quên liền
khi các cảnh vật không còn hiện tiền phản ánh vào bộ óc nữa. Về
sau chúng ta muốn nhớ lại cảnh vật đã qua, hay một bộ sách đã đọc,
cũng không bao giờ nhớ được.
- Vì thế nên biết
phải có một cái kho vô hình chứa giữ lại. Cái kho ấy theo Duy thức
gọi là "Tàng thức", nghĩa là "cái thức chứa"; vì nó chứa căn thân,
khí giới và chủng tử các pháp vậy; cũng tên là "Đệ bát thức" (cái
biết thứ tám). Theo tiếng Phạn gọi là "A lại da thức".
- Đến khi chứng
được quả vô lậu, thì thức này đổi tên là "Bạch tịnh thức", hay gọi
là "Đại viên cảnh trí".
- Thưa quý vị! Cố
nhơn có làm một bài kệ, để cho chúng ta nhớ cái tài năng hay tác
dụng của tám thức như sau:
- Bát cá đệ
huynh, nhứt cá si
- Độc hữu nhứt cá
tối linh ly
- Ngũ cá moan
tiền tố mãi mại
- Nhứt cá gia
trung tác chủ y.
- Nghĩa là: Trong
tám an hem, thức thứ Bảy là si mê (ngã si), duy có thức thứ Sáu,
rất khôn lanh (công vi thủ, tội vi khôi); còn Năm thức trước như
người làm công ở ngoài cửa, chỉ lo buôn bán, tiếp rước khách hàng
(tiếp xúc với 5 trần cảnh); một mình thức thứ Tám làm ông chủ nhà
(chứa đựng).
- Xem bài kệ này
chúng ta có thể biết qua được khả năng của 8 thức, mà thức thứ 6
và thức thứ 7 là lợi hại hơn hết. Nếu thức thứ Bảy si mê, Bồ tát
Ma ha tát Bồ tát Ma ha tát chấp ngã, thức thứ Sáu suy tính làm
những việc tội ác, thì chúng ta muôn kiếp trầm luân, không bao giờ
thoát ly sanh tử luân hồi được. Vì thế nên người tu Phật, lúc nào
cũng phải dùng thức thứ 6 và thức thứ 7, quán nhơn vô ngã, để phá
trừ si mê chấp ngã, dứt phiền não chướng; rồi quán pháp vô ngã, để
phá trừ pháp chấp, dứt sở tri chướng. Khi ngã chấp và pháp chấp
hết rồi, tức là phiền não chướng và sở tri chướng đã dứt, thì
chứng được hai quả thù thắng là: Bồ đề và Niết bàn.
- Vì thế nên
trong Duy thức học nói: "Lục, that nhơn trung chuyển; ngũ bát quả
thượng viên". Nghĩa là: trong lúc tu nhơn, thì chỉ dùng thức thứ 6
và thức thứ 7; đến khi kết quả thì cả 5 thức trước, và thức thứ 8
cũng được viên thành.
- Vì 5 thức trước
như người làm công, không có quyền, còn thức thứ 8 chỉ có tài chứa
đựng; duy có thức thứ 6 và thức thứ 7 này, nếu có công thì nó hạng
nhứt, mà có tội nó cũng đứng đầu. Người học Phật đối với hai thức
ấy, lúc nào cũng phãi can thận và sửa đổi, như thế gọi là "Tu
Tâm".
-
-
TÂM
SỞ
- Thưa quý vị! Từ
trước đến đây, chúng tôi căn cứ theo tác dụng hiện thật của các
giác quan vá sách Duy thức mà giải thích, thì mọi người không
nhũng có 5 cái biết, mà phải có đến 8 cái Biết: Cái biết xem của
mắt, cái biết nghe của tai, cái biết ngửi của mũi, cái biết nếmm
của lưỡi, cái biết cảm xúc của thân, cái biết phân biệt, so đo của
ý thức , cái biết chấp ngã (ta) của thức thứ 7 và cái biết giữ gìn
chứa lại của thức thứ 8.
- Tám cái biết
này, có sức tự tại và tự chủ, cũng như ông Vua,nên trong Duy thức
gọi là "Tâm vương". Nhưng nếu chỉ có một ông Vua, thì dầu tài hay
trí giỏi đến đâu, cũng không thể làm gì được, nên ngoài Vua ra,
còn phải nhờ Quần thần, binh tướng mới có thể đánh Nam dẹp Bắc,
sửa trị nước nhà,hoặc kinh doanh sự nghiệp vĩ đại trong nước.
- Tám thức tâm
vương cũng thế, nếu chỉ có tâm vương (vua) mà không có tâm sở
9quần thần) thì tâm vương này cũng như người làm vua mà không có
binh tướng; thì không thể tạo tác những điều tội ác hay từ thiện
được. Bởi thế nên ngoài 8 thức tâm vương này, còn có 51 món sở hữu
của tâm vương, theo Duy thức học gọi tắt là "Tâm Sở"
- Trong 51 món tâm sở, chia làm sáu
đẳng phái: 1, biến hành, 2. Biệt cảnh, 3. Thiện (lành), 4. Căn bổn
phiền não, 5. Tùy phiền não, 6. Bất định. Trong đây có hai đảng
quan trọng nhứt là : Lành (thiện) và "Dữ" (phiền não).
- Hai đảng này,
rất nghỉch nhau và thường chiến tranh nhau luôn. Mỗi khi đạo binh
hiền lành chiến đấu thắng được giặc phiền não (ác), thì chúng ta
trở nên Hiền nhơn Quân tử, hoặc thành Bồ tát hay Phật. Trái lại,
nếu bên ác là giặc phiền não, chiến đấu được thắng, thì chúng ta
mất tự chủ, nó sai sử chúng ta phải say mê theo tửu, sắc. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- , tài, khí
v.v..mất hết tự do làm cho tánh tình ta xấu xa, thấp hèn cử chỉ đê
tiện, hành vi tồi tàn, trở thành kẻ tiểu nhơn, hoặc đoạ địa ngục,
ngạ quỷ hay súc sanh.
- Thế nên người
tu hành, điều cần yếu là luôn luôn lúc nào cũng chiến đấu làm sao
cho thắng được giặc phiền não ở tâm mình, như thế gọi là "Tu Tâm’.
- Vậy chúng ta
cũng nên biết rõ, đạo binh hiền từ ở nơi tâm ta, có bao nhiêu binh
sĩ, tên họ tánh tình, hình dáng và tài năng thế nào? Rồi chúng ta
cũng phải biết giặc trong tâm ta, có bao nhiêu tên, đầu đảng là
ai, te7n họ tánh tình, hình tướng và tài năng của giặc ra sao? Khi
biết được tài năng binh mình, thấy rõ được sức giặc, thì chúng ta
mới mong thắng được giặc. Hôm nay tôi xin tuần tự kể bày, để quý
vị được rõ. Trong tâm ta, về khối Ác là giặc phiền não có 30 tên.
-
-
Căn Bản Phiền Não
- 1.- Tham là
tham lam. Người tham lam, tánh hay để ý dòm rình những cái gì họ
ưa thích: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v… Rồi
họ lập mưu này kế nọ, để tìm kiếm cho được, được mấy cũng không
vưà, nên tục ngữ có câu: " Bể kia dễ lắp, túi tham khó đầy!". Tham
cho mình, rồi tham cho bà con quyến thuộc. Nói rộng ra, tham cho
cả quốc gia, xã hội của mình.
- Cũng vì lòng
tham, mà nhơn loại tranh giành xâu xé cướp bóc giết hại lẫn nhau,
chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không những có hại
cho mình về hiện tại. Tham không những có hại cho mình về hiện
tại, mà còn liên lụy đến người và về tướng lai nữa là khác.
- Phật-tử tự xét
mình, nếu có tâm tham lam, phải tập tánh thiểu dục tri túc, bỏ dần
lòng tham đi; như thế gọi là "Tu Tâm".
- 2.- Sân là nóng
nảy. Người có tánh nóng nảy, gẳp những việc trái ý thì nổi nóng
lên, trong tâm bực tức, không an, ngoài mặt nhăn nhó, xấu xí vô
cùng, mắt đỏ tía hoặc tái xanh. Bộ dạng thô bỉ, thốt ra lời nói
thiếu nhã nhặn, có khi đánh đập hoặc chém giết người. Phật tử
chúng ta, mỗi khi nổi sân lên, cắc cớ lấy kiến rọi mắt mình, thật
"ngộ" hết sức…không phải là Phật-tử chút nào! Tánh "nóng nảy" rất
có hại: làm cho ánh em chẳng ưa, trong gia đình không được hòa
nhã, ngoài xã hội chẳng được kính yêu. Nhiều người vì nóng nảy mà
đánh đập vợ con. lắm khi phải mang bịnh tật suốt đời, hoặc giết
hại đồng bào, chủng loại. Cũng có người vì quá nóng nảy mà làm hư
danh giá, quyền lợi và cả đời tu của mình. Trong kinh Hoa-Nghiêm,
Phật dạy :"Nhứt niệm sân tâmkhởi, bách vạn chướng moan khai": Một
niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa ngiệp chướng đều mở
ra. Thuở xưa, ông Uất-Đầu-Làm-Phất, vì sân mà phải đọa làm con
phi-ly trùng. Ông Độc Giác Tiên Nhơn cũng vì sân, mà mất cả năm
phép thần thông. Trong kinh nói: " Nhứt sân chi hóa, năng thiêu
vạn khoảnh công đức chi sơn". Nghĩa là: một đốm lửa sân, có thể
đốt hết muôn mẫu rừng công-đức. Chúng ta thấy, trong hàng Phật tử,
có người phát tâm tu được 5,7 năm hoặc đôi ba năm, cũng có thể gọi
là người có công với Đạo. Một khi gặp cảnh nghịch, nổi sân lên rồi
bỏ hết: Phật pháp không tưởng, việc Đạo cũng chẳng làm, trái lại
còn tìm cách phá hoại. Thật "đốn củi ba năm chỉ tiêu trong một
giời", rất uổng cho công trình tu tập bao nhiêu năm của người ấy!
- Tổ xưa có quở
rằng: "Sân si nghiệp chướng không chừa, bo bo mà giữ tương dưa
gì!" Sân rất có hại như thế, hàng Phật tử chúng ta phải tu pháp
nhẫn nhục để lần lần dẹp lòng sân; như thể gọi là "Tu Tâm".
- 3. SI là si mê
(có chỗ gọi là vô minh). Đối với sự vật hiện tiền, tâm tánh mờ ám,
không có trí huệ sáng suốt để phán đoán việc hay, dở, tốt, xấu lợi
hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lổi, có hại cho mình,
và người (theo thế tục gọi là "dại" hay "ngu"). Cái Si này thường
ám ảnh trong tất cả việc làm, hại người chẳng phải nhỏ, mà nhứt là
khi tham và sân.
- Như anh chàng
thanh niên kia, biết cô mỹ nhơn nọ bị ho lao và có bịnh truyền
độc… Nhưng đến khi si mê ám ảnh, thì anh không còn thấy vi trùng
lao và bịnh truyền độc nữa.
- Một người tham
tiền, đánh bài bạc, mê đề, vì si mê ám ảnh, nên đến lúc thua hết
của tiền mà cũng không chán.
- Có một người vì
lòng tham, si nổi lên, giữa lúc ban ngày đông người, vào tiệm giựt
vàng.
- Lính bắt được
hỏi: "ANh không thấy lính tráng ở chung quanh và không sợ tù tội
sao?" Anh trả lời rằng: "Lúc đó tôi chỉ thấy vàng thôi; nếu thấy
lính tráng tội, thì tôi đâu dám làm như thế!"
- Đây là những
bằng chứng, trong lúc tham, vì có si mê ám ảnh, nên anh chàng
thanh niên kia phải mang bịnh ho lao và truyền độc; người đánh bạc
nọ mới hết cửa hết nhà; anh giựt vàng kia mới mang gông cùm từ
tội! Nếu trong lúc ấy, được sáng suốt, phân biệt lợi hại, thì anh
thanh niên kia có thể thắng lại được dục vọng của mình, đâu có lâm
bệnh hiểm nghèo như thế; người đánh bạc, cậu giựt vàng, có thể
thắng được lòng tham, không đến đổi bị hết của và mang tù tội. Cho
biết trong lúc tham mà có Si, thì có hại rất lớn! Khi nóng giận
cũng vậy, nếu trong lúc nóng giận mà sáng suốt, biết suy xét việc
lợi hại, lúc ấy có thể dằn bớt sự nóng giận ít nhiều! Trái lại vì
bị si mê ám ảnh, nên nói càn làm bướng, đến khi hết giận rồi thì
tội lỗi quá nhiều! Nên lời tục nói: "Aꮠnóng mất ngon, giận lắm mất
khôn" là vậy.
- Có nhiều người
trong lúc nóng giận, đánh đập vợ con đến tàn tật, phá hoại nhà cửa
cho đến tiêu tan, hoặc uống thuốc độc hay trầm mình, để cho thoát
kiếp thân đau khổ! Những tai nạn như thế, đều do si mê ám ảnh cả.
- Tổ sư có dạy
rằng: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì!; nghĩa là
không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình tự giác ngộ chậm. Nói
cho dể hiểu, là không sợ tham, sân mà chỉ sợ si mê đó thôi. Nếu
tham, sân nổi lên, mà ta sáng suốt phán đoán kịp thời, không có si
mê, thì tham sân kia cũng chẳng làm gì được. Người học Phật phải
dẹp trừ lòng si mê của mình, lúc nào cũng phải sáng suốt đối với
tất cả mọi việc. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- 4.- MẠN là ngã
mạn cống cao. Nói theo lối thông thường có hơi thô một chút là
"phách lối" lấn lướt, hiếp đáp người. Vì ỷ tiền tài, tài năng và
quyền thế của mình mà khing rẻ người, chẳng kính người già cả,
không kể người phước đức. Bởi hiêu hiêu tự đắc, coi không có người
(mục hạ vô nhơn) nên chẳng ai ưa. Vì lòng ngã mạn, cho mình hơn ai
hết, không kính phục người, nên bị tổn đức. Vì thế mà phước lành
tổn giả, tội lỗi càng thêm, nên phải sanh tử luân hồi, không bao
giờ cùng tột. Người học Phật nên tự kiểm thảo mình, nếu có ngã mạn
cống cao thì phải cố gắng dẹp trừ đi. Như thế mới phải là Phật tử,
và như thế mới gọi là "Tu Tâm".
- 5.-NGHI là nghi
ngờ. Đối với đạo lý chơn chánh, lại nghi ngờ không tin. Những pháp
tu giải thoát và điều phước thiện, lại do dự chẳng làm. Nó chướng
ngại lòng tin, cản trở việc từ thiện. Nghi có ba: 1-Nghi mình. Như
nghe nó: "Tu hành sẽ được giải thoát", rồi từ nghi ngờ: không biết
mình đã có tu được hay không? Vì lòng nghi ngờ, do dự ấy, nên
không chịu tu. 2.- Nghi người; nghĩa là nghi người dạy mình. Như
có người dạy ta: "Làm lành được phước, làm ác sẽ bị tội". Chúng ta
nghi: không biết người ấy nói có thiệt hay không? Bởi nghi nên
không làm 3.- Nghi pháp; như nghe lời Phật dạy: "Người chí tâm
niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày được nhứt tâm, thì người
ấy đến khi lâm chung, sẽ được Phật Di Đà tiếp dẫn, sanh về nước
Cực lạc", rồi họ nghi rằng: phương pháp ấy không biết kết quả có
đúng như vậy hay không? nên họ chẳng siêng tu.
- Nói tóm lại, vì
lòng nghi ngờ, nó cản trở nhiều điều tiến triển. Những người có
tánh đa nghi, đối với bạn bè, họ thấy không có ai là người tin
cậy. Trong gia đình họ thấy không có người nào là thân mật. Phật
tử nên cẩn thận đề phòng mọi việc, nhưng phải cương quyết dẹp trừ
tánh nghi ngờ. Như thế gọi là "Tu Tâm’.
- 6.- THÂn KIẾN
là chấp nhận thân ngũ ấm, tứ đại giả hợp này là "Ta". Hoặc nghe
theo lời tà giáo nói: "Người có 3 hồn, 7 vía, linh hồn, thế phách
v.v…" rồi chấp 3 hồn 7 vía v.v… đó là Ta. Vì chấp "Ta thật có",
nên kiếm món này vật nọ đễ cho ta ăn, sắm kiểu kia cách nọ để cho
Ta mặc, lo cất nhà cửa, mua ruộng vườn để cho Ta dùng, tranh danh
đoạt lợi, mỗi mỗi cũng vì Ta! Không những lo cho Ta, mà lại lo cho
cả gia đình, quyến thuộc, quốc gia và xã hội của ta nữa. Vì "chấp
Ta" mà tạo ra nhiều tội lỗi: lo tranh danh đoạt lợi cho ta hưởng,
xâu xé cướp giựt nhau để cho quốc gia xã hội Ta dùng. Vì thế, nên
thế giới đạn bay như mưa, bom nổ như pháo, máu chảy thành sông,
xương chất tợ múi!
- Hàng Phật tử chúng ta, phải sáng
suốt quan sát thân già này giả hợp không có thật có. Hễ phá trừ
thân kiến rồi, (chấp Ta) thì tánh ích kỷ vị ngã không còn, nên
không tạo những điều tội lỗi vì bản ngã nữa. Như thế gọi là"Tu
Tâm".
- 7.-BIÊN KIẾN là
chấp một bên, hoặc chấp chết rồi còn hoài, hay chấp chết rồi mất
hẳn.
- Một, vì chấp có
Ta, nên có người chấp "Ta" chết rồi còn hoài không mất: Người chết
vẫn sanh làm người, thú chết sanh trở lãi thú, Thánh nhơn chết trở
làm Thánh nhơn. Vì chấp như vậy, cho nên chẳng sợ tội ác, và cũng
không cần tu thiện; bởi họ cho tu cũng vậy không tu cũng vậy. Do
chấp cái "Ta" thường còn không mất có hại như thế, nên trong kinh
Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
- Hai, có người
chấp "chết rồi mất hẳn". Vì họ thấy bầu thế giới mênh mang, không
gian vô tận, chết rồi là mất chớ có thấy tội phước gì đâu! Thấy
đời sống của mình chết rồi không còn giá trị chi hết, nên mặc tình
làm những điều tội lỗi. Họ nói rằng: "Tu nhơn tích đức già đời
cũng chết; hung hoang bạo ngược tận số cũng không còn". Biết bao
người vì chấp chết rồi là hết, nên mỗi khi gặp cảnh nghịch lòng,
nhứt là tình duyên trắc trở, họ không trầm tĩnh sáng suốt tìm
phương pháp để xử trí. Cứ cho chết rồi là hết đau khổ, nên họ tự
liều mình với chén thuốc độc hay dòng sông sâu! Chớ họ không biết
rằng chết rồi đâu có phải là hết khổ! Bởi chấp chết rồi mất hẳn có
hại như vậy, nên trong đạo Phật gọi là "Đoạn kiến ngoại đạo".
- Thật ra người
chết không phải thường còn và cũng không phải mất hẳn, mà theo
nghiệp lực lành hay dữ luân hồi.
- Người Phật tử
phá trừ hai món chấp trên, như thế gọi là "Tu Tâm".
- 8.-KIẾN THỦ là
bảo thủ sự hiểu biết sai lầm của mình. Đây có hai cách: 1.- Hành
vi của mình sai lầm, ý kiến lại thấp thỏi, nhưng không tự hiểu
biết, lúc nào cũng bảo thủ cho mình là hay giỏi, đúng đắn hơn hết,
ai nói cũng chẳng nghe. 2.-Biết mình như thế là sai, nói như vậy
là dở, nhưng cứ bảo thủ cái sai và cái dở ấy, không chịu thay đổi.
- Như có người,
ông bà trước đã lỡ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà,
nhưng cứ theo như vậy mãi không đổi. Họ bảo rằng: "Xưa sao nay
vậy!". Hay như có người, cha mẹ trước đó có làm nghề tội lỗi, qua
đến đời con, cứ bảo thủ nghề ấy, không chịu thay đổi.
- Nói cho rõ hơn,
là những tục lệ trong thế gian, như mỗi năm phải làm trâu bò để tế
thần; khi người chết phải làm heo bò cúng kiến, mỗi kỳ tuần tự hay
giỗ quảy, phải đốt giấy tiền vàng bạc áo quần kho phướn; mỗi năm
phải hội họp để cúng tà thần ác quỉ v.v… Người học Phật phải dẹp
trừ "kiến thủ", như thế gọi là "Tu Tâm’.
- 9.- GIỚI CẤM THỦ là giữ theo giới
cấm của ngoại đạo tà giáo. Cấm một cách vô lý không phải nhân giải
thoát mà chấp là nhân giải thoát. Như bên AᮠĐộ có những phái ngoại
đạo leo lên cây cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa v.v… có đạo mỗi
năm phải giết một người tế thần; như đạo của anh Vô Não, phải giết
cho đủ 1.000 người mới đắc đạo. Người học Phật phải dẹp trừ "giới
cấm thủ", như thế gọi là "Tu Tâm’.
- 10.- TÀ KIẾN là
chấp theo lối tà. Phàm chấp những cái gì không chơn chánh đều
thuộc về tà kiến. Nói bằng cách khác là "mê tín". Như thờ đầu
trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, coi ngày, tìm
huyệt, buộc tom, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… Thật ra người
học đạo nên coi chỗ tạo nhơn của mình lành hay dữ, chánh hay tà mà
thôi, chớ không nên coi bói làm gì. Nói rộng ra thì gồm cả bốn
chấp trên đều về tà kiến.
- Hàng Phật tử phải dẹp trừ "Tà
kiến", như thế gọi là "Tu Tâm’.
-
-
Tùy Phiền Não
- Thưa quý vị!
Mưới món phiền não tôi vừa kể trên, trong kinh gọi là "Thập
thiết". Nghĩa là 10 món này xiềng-xích này nó xiềng- xích trói cột
chúng-sanh không giải-thoát được sanh-tử luân hồi; cũng kêu là
"thập-sử", vì nó sai sử chúng ta làm nô lệ cho that tình lục dục
lăn lộn trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới, Vô-sắc-giới) và quanh
quẩn sáu đường (Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, Thiên, Nhơn, A-tu-la)
chịu khổ. Người học Phật phải phá trừ 10 cái xiềng xích này thì
mới được tự do giải thoát và mới khỏi làm nô lệ cho thất tình, lục
dục. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- Mười món trênn
đây, trong Duy-thức gọi là căn bản phiền não; nghĩa là 10 món
phiền não gốc. Từ 10 món phiền não gốc này, sanh ra 20 món chi-mạt
phiền não sau đây, trong Duy thức gọi là "Tùy phiền não", nghĩa là
phiền-não chi-mạt từ nơi gốc mà sanh ra.
- 11. Phẩn là tức giận. Do đối với
nghịch cảnh, trước hết nổi nóng lên (sân), kế đó sanh ra tức giận
nghẹn ngào, nói chẳng ra tiếng, hoặc tuôn ra nước mắt lộ ra gương
mặt hầm hừ, bộ dạng hung hăng, mất tánh ôn hòa nhã nhặn. Vì tức
giận nên mới đánh đập chưởi mắng người, làm những điều tội lỗi. Vì
tức giận mà đập bàn, vỗ ghế, la ó ray rà, mất hết tư cách của
người Phật-tử. Vì tức giận mà đánh người một cách tàn nhẫn; chẳng
biết đã tay; giết người như chém chuối, không chút đau long!...
Cũng có người tức giận bởi tình duyên trace trở, mà đâm ra liều
mình tự tử, uống thuốc độc hay trầm mình, hoặc giết con, đốt chồng
v.v… như trên mặt báo thường kể.
- Hàng Phật-tử
chúng ta ôn hòa nhã nhặn; mỗi khi long tức giận nổi lên, phải định
tâm niệm Phật, để dằn nó xuống. Như thế gọi là "Tu Tâm"
- 12.-Hận là hờn.
Có 2:1. –Hờn mát, nghĩa là hờn một chút thôi. 2.-Hờn thiệt, nghĩa
là gặp việc gì trái ý, hờn hoài không bỏ. Người có tánh hờn mát,
thì hay hờn lắm, dù là việc không đáng, nhưng chỉ hờn trong giây
lát thôi. Còn người hờn thật, thì ít hay hờn, nhưng mỗi khi hờn,
thì ít có bỏ qua được. Như lời tục nói "Hờn thâm xương"
- Vì gặp nghịch
cảnh, trước sanh ra nóng giận, sau khi giận không bỏ qua được, nên
mới có "Hờn". Vì hờn nên ôm ấp oán thù. Bởi ôm ấp oán thu, cho nên
lập mưu này kẻ nọ, để gặp cơ hội thuận tiện đặng trả thù. Như lời
tục nói "Thù xưa chẳng đội trời chung" là vậy.
- Cái "Hờn" này
tuy nó ngấm ngầm, mà dễ sợ lắm! Cũng như lửa than, mỗi khi gặp bối
hay bùi nhùi, có hơi gió thổi, thì nó cháy phừng lên. Người ôm
long "hờn oán" cũng thế: Nó chỉ ngấm ngầm trong tâm mà thôi, mỗi
khi có người chọc ghẹo đến, hoặc gặp những việc trái ý, mặc dù
chẳng xứng đáng chỉ, nhưng cũng nổi nóng lên làm dữ.
- Người đáng lúc
ôm ấp cái "hờn", thì gặp cảnh nào cũng hướng mắt, thấy ai cũng
muốn gây. Gặp những người như vậy, chúng ta không nên chọc ghẹo
đến họ. Phật-tử chúng ta, quán sát cái "Hờn", có hại như thế, và
trong lúc ta hờn người, sẽ nặng long mình! Sách nói: "Oán gia nghi
giải bất nghi kiết" (việc oán thù nên cởi mở, không nên trói cột).
Suy xét như vậy mà dẹp trừ dần đi. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- 13- Não là buồn
rầu, bout rout. Vì gặp những việc trái ý trước nóng giận và hờn,
bởi không bỏ được, nên mới có buồn. Buồn man mác, bout rout nơi
long không vui được,hiện ra ngoài gương mặt buồn buồn! Cằn cằn,
cửi rừi, hoặc chẳng muốn nói cuời. Ai có hỏi đến thì nói xuôi xị,
nếu ai động đến thì gây liền.
- Cái buồn man
mác này tuy không ra gì, chớ khó long lắm! Nhứt là khi tụng kinh,
niệm Phật nó thường nổi lên. Nếu chúng ta không hỷ xả được, thì nó
làm cho ta buồn mãi không vui, có nhiều khi phải thối chí với đạo.
- Chúng ta cũng
nên phân biệt cho rõ: Nóng (sân), Giận (phấn), Hờn (hận). Buồn
(não), bốn món tâm sở này khác nhau, từ hành tướng cho đến
công-năng đều khác. Nếu không khác, thì sao có 4 danh từ khác
nhau. Tôi xin tạm thí-dụ để quý vị dễ nhận: Sân (nóng) cũng như
lửa rơm, nó chỉ cháy bừng lên, một cách cấp tốc. Giận cũng như lửa
củi, phừng phừng cháy tới, khó dập tắt liền được. Hờn,cũng như lửa
than, không lên ngọn mà vẫn cháy hoài, nóng lắm. Buồn, cũng như
ngọn lửa tàn, tuy hết cháy chớ nó còn vùi trong tro nóng, và cũng
nóng hầm cả buổi mới nguội.
- Hàng Phật-tử
chúng ta cố gắng dập tắt lửa long, không còn chút gì ham nóng; làm
sao cho tâm mình mát mẻ như nước ao A-Nậu (thanh lương thủy). Như
thể gọi là "Tu Tâm".
- 14.- Phú là che
giấu tội lỗi của mình. Mình làm điều gì sai quấy, không chịu
phát-lồ sám hối; vì sợ người ta biết rồi xấu hổ,mất danh tiếng và
quyền lợi của mình, nên che giấu. Đâu biết rằng "ai cho khỏi lỗi";
người có lỗi mà biết phát-lờ sám hối là một điều hay, làm cho ai
nấy điều chứng biết tội lỗi của mình; từ đó về sau mình không dám
làm nữa. Cũng như cái áo dơ có giặt, thì áo mới sạch, nhọt được mổ
rửa, thì nhọt mới mau lành. Trái lại, che giấu thì tội lỗi càng
thêm; trong lòng ăn năn buồn bã không an. Cũng như mụt ghẻ không
chịu mỗ rửa, thì nó đau nhứt nhiều ngày, áo dơ chẳng giặt thì mùi
hôi không hết. Bởi thế, người tu Phật có lỗi không được che giấu
mà phải phát-lồ sám hối, tội ấy mới được trong sạch. Theo thường
lệ, Phật-tử mỗi tháng phải phát-lồ sám hối hai lần, là ngày 14 và
29( tháng thiếu 28), thì tôi nghiệp mới được tiêu trừ. Như thế mới
gọi là "Tu Tâm".
- 15.- Tật là tật
đố, ganh ghét. Thấy người có tài hay, danh tiếng tốt, đức cao
quyền trọng, mình sanh lòng đố khen ghét. Thấy người vinh hiển,
mình lấy làm xốn mắt, chướng tai, trong lòng xốn xang khó chịu, lộ
ra cử chỉ nhún trề, háy nguýt, kiếm chuyện nói xấu, làm cho giảm
danh giá của người. Đây là tánh tiểu nhơn, người tu Phật phải cố
dẹp trừ tâm tật đố. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- 16.- Xan là bỏn
xẻn rít-rắm.; người đời kêu là hà tiện. Có tiền của rất nhiều,
nhưng không chịu đem bố thí giúp đỡ cho ai; từ vật nhỏ cho đến vật
lớn, dù gặp người đói rách hoạn nạn cũng mặc tình. Biết được nghề
hay, hay hiều được giáo pháp, không chịu chỉ dạy cho người; dù có
dạy cũng sơ sài mà thôi; thà cheat đem theo. Chớ không muốn dạy
người. Làm bộ tịch như người quê mùa nghèo khó, ăn không dám ăn,
mặc không dám mặc. Chứa để của cải, đến đổi hôi thúi, hư mục rồi
đem đổ bỏ; tiền bạc để mối ăn, rồi trách đất kêu trời, chớ chẳng
bố thí một xu, hay cho người một lon gạo.
- Người tánh
tình-rít rắm ấy, hiện đời không ai ưa, sau cheat rồi làm loài ngạ
quỉ. Hàng Phật-tử chúng ta, phải tự xét lấy tâm mình, nếu có tánh
bỏn xẻn về tài sản hay giáo pháp phải mau sửa đổi đi. Như thế gọi
là "Tu Tâm".
- 17.-Cuồng là
dối gait người. Vì cầu danh-lợi, nên dối hiện như người thật thà,
hiền hậu, hoặc làm như người tu hành có phước đức lắm. Miệng Phật
tâm rắn, lập những hạnh lạ thường, làm nhiều điều khác chúng, bày
những việc không thật, gait gẫm, phỉnh phờ người, để trông cầu
danh tiếng tài lợi. Người học Phật phải tự kiểm điểm mình, nếu có
tánh dối trá ấy, phải sửa đổi liền đi. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- 18.-Kiê là kiê
căng. Y#236;nh giàu có, quyền thế, danh vọng, hoặc tài hay rồi
kiêu-căng, phách lối coi người không ra gì, khinh người không thèm
tiếp, gặp người chào hỏi chẳng trả lời; hiêu hiêu tự đắc, mục hạ
vô nhơn. Người có tánh kiêu-căng thì chẳng ai ưa tự tốn âm- đức
của mình. Phật tử chúng ta, tự xét lấy mình nếu có tánh kiêu căng
này phải mau sửa đổi. Như thế gọi là "Tu Tâm"
- 19.-Siễm là bợ
đỡ, dua nịnh. Đối với người có quyền thế hoặc giàu có v.v…bợ đỡ,
nịnh hót, chìu uốn cho được lòng người. Làm bộ cung kính và khen
ngợi người, trau chuốt lời nói không thật, để lợi dụng tiền của
quyền thế hoặc công lao của người. Phật tử chúng ta, tự xét lấy
mình, nếu có tánh bợ đỡ dua nịnh, phải sữa đổi đi. Như thế gọi là
"Tu Tâm" .
- 20.-Hại là làm
tổn hại. Đối với các loài hữu tình đã không có lòng từ bi thương
xót, lại làm tổn hại chúng nó. Mặc dù những loài vật ấy không động
phạm đến mình, nhưng hễ gặp đến thì vẫn muốn giết hại, như cào cào
chấu chấu v.v… nếu không ngắt cánh, thì cũng bẻ giò. Một tỷ-dụ
nữa: như trái cây của người, những trái dùng được thì hái ăn đã
đành, còn những trái non nớt, ăn không được cũng bẻ phá. Tánh phá
hại này làm tổn hại đức "Bi" của mình. Người học Phật cần phải sửa
đổi. Như thế gọi là "Tu Tâm"
- 21.-Vô Tàm là
không biết hổ.
- 22.- Vô Quí là
không biết thẹn. Nghĩa là: làm việc sái quấy, đối với lương tâm
mình không biết hổ, đối với người khác mình không biết thẹn. Thấy
người Hiền không biết kính trọng, gặp việc phải chẳng màng. Bởi
làm việc quấy không sở người chê cười, nên tội ác mỗi ngày càng
thêm lớn. Người không biết hổ thẹn, thì không đủ tư cách làm
người, bị chúng khinh cười, không còn giá trị.
- 23.-Điệu cử là
lao chao. Tâm tánh lao chao không được trầm tĩnh. Nhiều khi thố lộ
nơi thân: nhịp vế rung đùi, đứng ngổi lật đật. Phát hiện nơi
miệng: nói năng lấp bấp, cười cợt không ngừng. Người tánh neat lao
chao, thì không ra người lớn. Nếu người có tư cách Đại nhơn, nhứt
là nhà Tu sĩ, phải cố gắng hàng phục tâm điệu-cử này. Nếu thắng
được nó, thì mới trở nên người đàng hoàng, đứng đắn. Tu như thế
gọi là "Tu Tâm".
- 24.- Hôn Trầm
là mờ mịt. Như trong lúc chúng ta nghe kinh, ngồi nghe một hồi rồi
mơ màng, ngủ không phải ngủ, vì tai vẫn nghe nói pháp văng vẳn;
nhưng không nghe rõ vị Giảng-sư nói gì. Một tỷ-dụ khác: như trong
lúc chúng ta ngồi yean, tưởng Phật hay niệm Phật, tưởng niệm một
hồi tâm mơ màng rồi ngủ gục, không còn biết tưởng niệm gì nũa cả.;
mặc dù tay đương lần chuỗi, miệng vẫn niệm Phật.
- 25.-Tán Loạn là
rối loạn. Tâm nghĩ xằng xiêng tản mát, phân biệt lăng xăng, rong
ruỗi theo cảnh trần. Bởi tán loạn nên tâm không định, vì tâm không
định, nên không phát sanh trí huệ, do không trí huệ, nên không
đoạn được vô minh phiền não. Phiền não không đoạn thì không bao
giờ thành đạo, chứng quả được. Tỉ dụ như cái đèn bị gió xao, không
đứng yean, nên không sáng tỏ. Bởi không sáng tỏ, nên không phá trừ
tối tăm. Tâm tán loạn làm chướng ngại chánh định và huệ. Người học
Phật phải cố gắng dẹp trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm"
- Thưa qúy vị!
Bạch Thế Tôn! Ba món tâm so83: điệu cử (lao chao), hôn trầm (ngủ
gục) và tán loạn này, in tuồng không hại chi lắ; nhưng đối với
người tu hành, nó rất chướng ngại! Ví trong khi tụng kinh, niệm
Phật, tham thiền, quán tưởng, thì phần nhiều bị tâm sở điệu cử và
tán loạn nổi lên: Nghĩ nhớ xằng xiêng, hết chuyện này đến chuyện
khác. Có khi những chuyện đã qua 5,10 măm về trước, song đến lúc
tụng kinh, niệm Phật, thì nó đua nhau khởi lên không sót một việc.
Khi biết đó là tán loạn, là vọng tưởng, hành giả liền dẹp trừ
không tưởng đến, nhưng vừa bỏ được chuyện này, thì nó khởi lên
chuyện khác. Hoặc những việc làm ăn hằng ngày, đến khi tụng kinh,
niệm Phật nó lại nổi lên hết. Khi dẹp trừ tâm sở tán loạn (vọng
tưởng) vừa êm êm, thì tâm sở hôn trầm (ngủ gục) lại nổi lên. Hành
giả phải cố gắng để tâm, cử niệm, dẹp trừ được hôn trầm (ngủ gục)
thì tán loạn nổi lên…. Tán loạn, điệu cử và hôn-trầm 3 món tâm sở
này, thay nhau khuấy nhiễu người mới tập tu thiền, niệm Phật không
ít. Thắng được Bạch Thế Tôn! món tâm sở này không dễ, mà có thắng
nó mới được thành công. Hành giả phải trải qua một thời gian hơi
lâu và dụng công nhiều mới thắng được.
- 26- Phóng Dật
là buông lung, không biết tự kềm thúc lấy mình. Tánh nghinh ngang
không trọng kỷ luật, không giữ giới pháp của mình đã thọ. Nói
năng, giỡn cười tự do muốn làm gì thì làm, người khuyên nhắc không
nghe, nên ác nghiệp mỗi ngày càng tăng, phước lành tổn giảm. Người
đời vì tánh buông lung cở bạc rượu trà, ăn chơi phá tán, nên nhiều
khi của cải tiêu tan, thân thể bịnh hoạn. Người tu Phật, phải dẹp
trừ tánh buông lung này, thì tu hành mới được thành công. Tu như
thế gọi là "Tu Tâm"
- Quý vị cũng nên
phân biệt một chút, để cho rõ hành tướng của Bạch Thế Tôn! món tâm
sở này:
- 1.- Điệu cữ là
tâm lao chao; 2- Tán loạn là tâm vọng tưởng, rối loạn; 3- Phóng
data là tâm buông lung. Tôi xin tỷ dụ để cho rõ 3 món tâm sở này:
- 1.- như con
ngựa cột ở trong chuồng, tuy đứng một chỗ, nhưng đầu và mình vẫn
lắc qua, lắc lại, như thế là dụ cho tâm lao chao. 2- Con ngựa
không còn bị cột đứng một chỗ nữa, nó chạy tới chạy luui lăng xăng
trong chuồng, như thế dụ cho tâm tán loạn. 3.- Đến lúc ngựa tông
chuồng, rong ruổi theo cái, hoặc phá hại khoai b81p của người
v.v…như thế dụ cho tâm buông lung. Hành tướng của Bạch Thế Tôn!
món tâm này, khác nhau như thế.
- 27.- Bất Tín là
không tin. Không tin nhơn quả tội phước, không tin giáo pháp chơn
chánh của Thánh Hiền, không tin điều hay lẽ phải. Vì không tin cho
nên không làm, vì không tin cho nên sanh ra biếng nhác, ưa thích
những điều ô nhiễm, làm cho tâm tánh đen tối. Hàng Phật-tử phải
trừ tâm bất tín. Như thế gọi là "Tu Tâm"
- 28. Giải Đải là
biếng nhác, trễ nãi. Bất luận việc nhỏ hay việc lớn, đều biếng
nhác không muốn làm. Giả sử có làm thì cũng sơ sài, cẩu thả hoặc
nửa chừng rồi bỏ, làm chừng nào rồi cũng được. Trong giới sĩ,
nông, công, thương các nghề nghiệp, nếu người có tánh giải đãi thì
công việc khó thành, dầu có thành cũng không được tốt đẹp. Người
tu hành do dãi đãi nên lâu được thành đạo, chứng qua. Vô số kiếp
về trước, Phật Thích Ca va Đức Di Lặc, hai ngài đồng thời tu hành.
Đức Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa
nhờ tinh tấn mà thành Phật trước Đức Di Lặc một tiểu kiếp. Ngài Di
Lặc do giải đãi,nên hiện nay vẫn còn lảm Bồ tát. Chúng ta phải trừ
tánh giải đãi của mình, thì sự tu hành mới chóng thành công đắc
quả. Tu như thế gọi là "Tu Tâm".
- 29.-Thất Niệm
là không nhớ. Nghĩa là không chăm chú, để ý đến công việc làm của
mình. Vì quên mà hư hỏng nhiều việc lớn lao! Người tu thiền hoặc
niệm Phật, vì không nhớ chánh niệm nên vọng niệm dễ sanh. Bởi thế,
người tu Phật phải định tâm, chú ý và dẹp trừ thất niệm (quên
chánh niệm). Như thế gọi là "Tu Tâm"
- 30.- Bất Chánh
Trí là hiểu biết không chánh đáng. Nghĩa là hiểu tà vạy, hiểu mê
lầm. Vì hiểu lầm nên mới làm sai; có khi cũng vì hiểu lầm mà phải
xích mích với nhau. Thế nên người học Phật, phải hiểu biết rõ ràng
và chánh đáng. Khi tiếp xúc một việc gì, phải phán đoán và suy xét
cho kỹ, để tránh những sự hiểu lầm hoặc không chánh, có thế mới
tránh khỏi được những hành vi không hay. Biết sửa đổi như thế gọi
là "Tu Tâm" .
-
-
ThiệnTâm Sở
- Thứa quý vị!
Tôi đã kể rõ 30 tên giặc phiền não, nào tên họ, tài năng và hành
tướng của chúng một cách tường tất rồi, bay giờ tôi xin nói qua
đạo binh hiền từ ở trong tâm chúng ta. Đạo binh này chẳng khác nào
như các vị Trung-thần Nước nhà được thạnh-trị, dân chúng được
hưởng hạnh phúc thái bình an laic, vua giữ vững được ngai vàng,
đều nhờ các vị Trung thần. Chúng ta được làm Quân-tử, hay thành
Thánh Hiền, cũng nhờ đạo binh hiền từ ở nơi tâm chúng ta, thắng
được giặc phiền não vậy.
- Đạo binh này có
11 anh.
- 1. Tín là tin.
Trong kinh nói : " Lòng tin là mẹ sanh ra các công đức". Vì có tin
nhơn quả, tội phước, nên mới bỏ dữ làm lành, có tin tu hành sẽ
được giải thoát, nên mới quyết tu; tin giữ giới có nhiều công đức,
khỏ đoạ trong tam đồ ác đạo, cho nên mới phát nguyện giữ giới.
Trong Duy-thức chép: " Đức tin cũng như hột châu thanh thủy, hay
làm cho nước được trong . Đức tin này, nó làm cho tâm mình được
thanh tịnh". Do có tin nhân quả, tội phước nên mới hăng hái bỏ
những việc ác và ưa làm việc lành. Vậy đức tin là điều cần yếu của
người tu hành (mê tín thuộc về ác kiến tâm sở)
- 2. Tinh Tấn là
siêng năng, chấm ham. Đối với việc dữ siêng năng dứt trừ, với việc
lành siêng năng làm theo. Người học trò nhờ siêng năng nên mau
giỏi. Người làm ruộng nhờ siêng năng nên thâu góp luau thóc được
nhiều. Người đi buôn nhờ siêng năng nên của tiền mau phát thạnh.
Người làm thợ nhờ siêng năng nên công nghệ mỗi ngày thêm phát đạt.
Người tu hành nhờ siêng năng, mà mau được thành đạo, chứng quả.
Thuở xưa Đức Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa nhờ siêng năng, nên mới thành đạo trước đức Di Lặc. Nói tóm
lại, siêng năng là một đức tính tốt, cần thiết cho tất cả mọi
người, để dùng trong tất cả trường hợp (siêng năng cờ bạc ,rươụ
trà, coi hát v.v.. là phóng dật tâm sở (buông lung) thuộc về phiền
não, chớ không phải thiện tâm sở, xin quý vị chớ lộn).
- 3. Tàm là tự
mình xấu hổ.
- 4. Quí là thẹn
với người. Phàm làm việc gì có tội lỗi, đối với lương tâm mình
biết xấu hổ, đối với người rất thẹn thuồng; như chúng ta tham lam,
gian lận một vật gì của ai, đối với mình lấy làm xấu hổ: " Ta là
phật tử đã thọ giới pháp của Phật dạy, không được tham lam trộm
cướp, mà lại còn tham lam, gian trá làm sự tội lỗi như thế ư!".
Đối với người khác, mình hết sức thẹn thuồng; như trong lúc chúng
ta uống rượu, tự xét rằng: " Ta là Phật-tử đã hứa trước Đức Phật
và Chư Tăng không uống rượu, mà hôm nay ta lại uống rượu say sưa
như vầy, thì ta đâu còn phải là Phật tử nữa, nên hết sức hổ. Đối
với những bạn đồng quy y, thọ giới có ai say sưa như ta không? Rồi
thẹn thuồng với người.
- Nói tóm lại,
biết hổ thẹn là đức tính tánh tốt. Người biết hổ thẹn mới mong
tránh được những tội lỗi và mới có thể tăng tiến trên đường lành.
Đã là Phật tử, chúng ta nên có và phải có hai đức tánh này (Hổ và
Thẹn) để áp dụng trong những lúc, chúng ta làm những điều tội lỗi.
Biết hổ thẹn như thế gọi là "Tu Tâm"
- 5. Vô Tham là
không tham lam. Đối với tiền tài không tham, vì biết các pháp là
vô thường; sắc đẹp không muốn vì quán thân là bất tịnh; danh vọng
chẳng màng, vì biết thọ là khổ, mà chỉ an phận tùy duyên. Do không
tham lam nên không giành giựt, bởi không giành giựt nên không đánh
đập, chém giết nhau. Nếu tất cả mọi người trên thế giới đều không
tham lam; không xâm chiếm thị trường, không xâm chiếm đất đai lẫn
nhau, thì chắc chắn thế giới sẽ hòa bình an laic.
- 6. Vô Sân là
không nóng nảy, giận hờn. Sân hận là một điều hại lớn. Kinh
Hoa-Nghiêm nói: "Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai".
Nghĩa là một niệm sân hận nổi lên thì trăm ngàn tội chướng đều
sanh ra. Ngạn ngữ có câu: " Ăn nóng quá mất ngon, giận tức lắm mất
khôn". Không sân hận" là một anh kiện tướng dẹp trừ được giặc
phiền não sân hận. Muốn cho đức tánh không sân hận có nay đủ lực
lượng đê dẹp trừ lòng sân, thì cần phải tu pháp quán Từ-bi hay
Nhẫn nhục là nhịn chịu các điều nhục nhã, không sân hận. Duy có
đức từ bi và nhẫn nhục, mới rưới tắt được lửa sân hận. Chúng sanh
nhiều kiếp sanh-tử luân hồi, bởi không thắng nổi lòng sân. Chư
Phật được tự tại, giải thoát, lả do dứt trừ được lòng sân tận gốc.
Bởi thế nên Phật tử chúng ta phải tập tánh không sân hận. Như thế
gọi là "Tu Tâm".
- 7. Vô Si là
không mờ ám, si mê. Đối với tất cả việc, lúc nào cũng có trí huệ
sáng suốt, suy xét, phán đoán việc tà, chánh, hay, dở, phải, trái
v.v…Do đó, việc làm mới chánh đáng, tránh khỏi những điều tai hại,
vừa lợi ích cho mình và người ở hiện tại cũng như ở tương lai.
- 8. Khỉnh An là
thân tâm nhẹ nhàng, thơ thới, làm việc vui vẻ, không mờ mịt (hôn
trầm) nặng nề, được khoan khoái yên vui. Người mà thân tâm được
nhẹ nhàng, thơ thới, thì trí huệ mới sáng suốt, học hành mau nhớ,
tu niệm mau thành công, suy nghĩ chuyện gì cũng mau lẹ. an vui.
- 9. Bất Phóng
Dật là không buông lung, biết tự kiềm thúc lấy mình, để tiến trên
con đường chơn tánh. Lo làm các việc lành, không buông lung cờ
bạc, rượu trà, phá trai, phạm giới, làm những điều ích kỷ tổn
nhơn. Người học Phật biết tự kiềm thúc lấy mình, mới gọi là người
biết "Tu Tâm.
- 10. Hành Xả là
làm mà không cố chấp. Có hai: 1._ Nếu gặp những cảnh trái ngược,
làm cho ta đau khổ, phải xả bỏ ngay đi, thì ta mới được hết khổ.
Tỷ như bị người chọc giận, nếu ta cố chấp mãi, thì trong lòng ta
sẽ bực tức, nặng nề khó chịu. Nếu ta liền hỷ xả, thì sẻ thấy lòng
ta nhẹ nhàng vui vẻ. 2.- Mỗi khi ta làm được điều lành, không nên
cố chấp và ghi nhớ mãi. Nếu cố nghĩ đến việc lành ta đã làm, nhiều
khi sanh ra tánh tự cao, rồi sẽ đi dần đến chỗ tự kiêu hay tự đắc,
hoặc cho như thế là đủ rồi không làm nũa. Tỷ dụ như ta cho người
ăn xin một trăm đồng bạc, nếu ta nhớ mãi thì chút nữa có người
khác đến xin, ta quyết không cho, vì ta nhớ vừa mới cho một trăm
đồng rồi. Trái lại, nếu cho rồi mà không ghi nhớ, thì một lác sau
có người khác đến xin, ta có thể cho nữa, nhờ ta biết xả, không
nhớ mình đả có cho vậy.
- 11. Bất Hại là
không làm tổn hại người và vật. Đối với mọi người và mọi vật, nếu
chúng ta không làm được lợi cho họ thì thôi, chớ không nên làm tổn
hại. Vì người khác làm tổn hại mình, mình đã không chịu, thì chúng
ta chớ nên làm tổn hại người. Không làm tổn hại người và vật, là
chúng ta tạo cho mình một nhân tốt, sẽ đưa đến đức tánh từ bi của
Phật.
- Tóm lại, chúng
ta biết nuôi dưỡng 11 đức tánh Thiện này, như thế là " Tu Tâm".
-
Điều Cốt Yếu Nhứt Là
Hằng Ngày Chúng Ta Nên Tự Kiểm Thảo Tâm Niệm Của Mình.
- Thưa quý
vị!Chúng ta đã hiểu rõ trong tâm mỗi người đềi có 11 anh tướng
lành và 30 tên giặc phiền não. Quý vị đã biết hình dạng, tên tuổi
và tài năng, binh tướng của ta và của giặc rồi. Vậy chúng ta
thường ngày, nên tự kiểm thảo từng giờ, từng phút: khi một tâmniệm
nổi lên, chúng ta xem xét nó lả thiện hay ác, Cũng như người cầm
binh ra chiến trường, vừa thấy bóng người thấp thoáng, phải quan
sát cho kỹ, đây là binh tướng của ta hay của giặc. Có thế mới khỏi
cái hại " nhận giặc làm con" và mới mong dẹp trừ được giặc.
- Như trong lúc
chúng ta thấy tiền của, sắc đẹp danh vọng v.v… sanh lòng "tham
muốn", đó là tham tâm sở hiện ra, nó là giặc phiênnão. Chúng ta
phải mau mau trừ đi, như thế gọi là "Tu Tâm"
- Trong lúc chúng
ta gặp cảnh trái nghịch, "nổi nóng" (sân), "tức giận" (phản) lên,
"oán hờn" (hận) và "buồn bã bực tức" (não) thối đạo, nản lòng, đó
là phiền não yam sở hiện ra. Nó là giặc đến hại ta, nó sẽ đốt tiêu
rừng công đức và phá hoại thành Niết bàn của ta. Ta nhiều kiếp
sinh tử luân hồi cũng vì nó. Vậy người Phật tử phải mau trừ đi;
như thế gọi là "Tu Tâm".
- Trong lúc chúng
ta làm điều tội lỗi, phá trai, phạm giới mà không hổ thẹn với
lương tâm, không thẹn với chúng bạn, thế là hai món phiền não
"không hổ" và "không thẹn" hiện ra. Nó là giặc phá hại, chúng ta
phải lập tức trừ đi.
- Đến giờ tụng
kinh, niệm Phật hay đến ngày lễ phải đi chùa lễ Phật nghe kinh, mà
chúng ta thấy trong người dã dượi chẳng muốn đi; đó là tâm sở
"giải đãi" là giặc; hay chỉ muốn đi coi hát, hoặc đánh bài v.v… đó
là tâm sở "buông lung", thuộc về giặc phiền não, chúng ta phải trừ
đi, như thế gọi là "Tu Tâm".
- Trong lúc chúng
ta làm đi62u tội lỗi mà che giấu, không chịu phát lồ sám hối; đó
là tâm sở "phú" thuộc về giặc phiền não. Khi chúng ta thấy người
có tài năng, danh vọng, hay được lợi lộc, mà sanh lòng ghen ghét
không ưa; đó là tâm sở "tật đố", cũng thuộc về giặc phiền não.
- Khi chúng ta
biết được việc hay, không chịu chỉ dạy cho người, hoặc thấy người
thiếu thốn về vật chất, mình có của mà không giúp đỡ; đó là tâm sở
"bỏn xẻn" thuộc về phiền não. Nếu giặc phiền não cường thạnh, thì
nó sẽ phá hại chúng ta vô cùng vô tận.
- Trong lúc tụng
kinh, niệm Phật mà thấy tâm mình lao chao không yên tĩnh, hoặc
miệng nói lắp bắp, nói chuyện gì cũng không đáng chuyện gì, ngồi
đâu thì nhịp đùi, rung vế, hoặc đứng ngồi không tề chỉnh; đó là
"điệu cử tâm sở". Còn nghĩ tưởng xằng xiêng là "tán loạn tâm sở".
- Trong lúc tụng
kinh, niệm Phật mà tâm tánh mơ màng, nặng nhọc (ngủ gục) đó là
"hôn trầm tâm sở" thuộc về giặc phiền não; trái lại nhẹ nhàng
khoan khoái, tụng niệm sáng suốt là "khinh an tâm sở" thuộc về đạo
binh lành.
- Xin xăm, bói
quẻ, cầu thần, đảo qui, làm những điều mê tín, dị đoan, đốt vàng
bạc, giấy tiền, lầu đài kho phướng, chấp chặc theo thành kiến của
mình, không tin lời nói phải, hoặc làm theo tục lệ cổ truyền không
chánh đáng, giữ gìn theo những giới cấm tà đạo; như thế đều thuộc
về "tà kiến" (ác kiến) tâm sở. Đó là giặc phiền não, chúng ta phải
mau dẹp trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm".
- Đối với người,
ta dùng những mưu mô để lừa dối, nói năng xảo trá , đó là "cuồng
tâm-sở", thuộc về phiền não; hoặc nói những lời nịnh hót, bợ đỡ,
người hỏi không đáp, là "siễm" và "kiêu tâm sở"; có ý khinh rẽ,
hiếp đáp lấn lướt người, là "ngã main tâm sở". Trên đây thuộc về
giặc phiền não cả, chúng ta phải diệt trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm"
.
- Mỗi khi chúng
ta thấy việc đạo, sốt sắng ra làm, là "tinh tấn tâm sở"; đến giờ
tụng kinh niệm Phật siêng năng, là "tinh tấn tâm sở", thuộc đạo
binh lành. Lỡ làm điều gì tội lỗi đối với mình hết sức hổ, với
người hết sức thẹn, đó là "tàm" và "quí" tâm sở, cũng thuộc về
lành. Thấy vàng bạc, của cải, danh vọng, sắc đẹp không tham, đó là
" vô tham tâm sở", thuộc binh tướng lành. Đối với cảnh nghịch,
lòng không nóng nảy, giận hờn, đó là " vô si tâm sở", cũng thuộc
về lành. Gặp một việc gì, ta sáng suốt phán đoán hay dở, lợi hại,
là "vô si tâm sở". Không cờ bạc rượ trà phá trai phạm giới, buông
lung phóng đảng đó là " bất phóng dật tâm sở". Gặp những việc
người ta làm cho mình đau khổ mà mình hỷ xả; làm được việc gì hay,
tốt, có công đức mà không chấp trước (nghĩ đến) là "hành xả tâm
sở". Không giúp ích được người và vật thì thôi, chớ không làm tổn
hại, đó là "bất hại tâm sở". Trên đây đều thuộc về đạo binh hiền
từ của chúng ta, chúng ta nuôi dưỡng làm cho nó mạnh mẽ thêm lên,
mới mong thắng được giặc phiền não trên kia. Như thế gọi là "Tu
Tâm"
- Nói tóm lại,
hàng ngày và từng giờ từng phút, chúng ta phải thường tự kiểm thảo
tâm mình như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên, chúng ta phải
thường tự kiểm thảo tâm mình như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên,
chúng ta phải xét ngay coi là thiện hay ác. Nếu ác, thì chúng ta
phải mau mau dẹp trừ; còn thiện, thì chúng ta phải làmsao cho nó
thêm tăng trưởng. Nếu giặc phiền não nổi lên, mà chúng ta để cho
nó tự do hoành hành, không sớm dẹp trừ, thì nó sẽ phá tan nước
Công đức, cướp đoạt thành Niết bàn của chúng ta; làm cho ta thành
kẻ đê hèn và nô lệ cho vật dục, hoặc phải đọa trong ba đường dữ là
Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh.
- Trái lại, đạo
binh từ thiện trong tâm chúng ta, nếu chúng ta biết nuôi dưỡng nó.
Làm cho nó được mạnh mẽ, hùng dũng, thì nó sẽ đánh tan được giặc
phiền não, giữ gìn nước Công đức, bảo thủ thành Niết bàn, làm cho
ta trở nên hiền, thánh hay Phật.
- Đạo binh hiền
từ, kháng chiến với giặc phiền não trong nội tâm chúng ta như thế,
không những từng ngày, từng giờ mà phải luôn luôn từng phút từng
giây; không phải một năm hai năm, mà phải nhiều đời nhiều kiếp,
mới thắng được giặc phiền não. Kháng chiến như thế mới thật là "
trường kỳ kháng chiến". Như Đức Phật Thích Ca phải trải qua bao vô
số kiếp tu hành, mới hoàn toàn thắng được giặc phiền não, thành
quả vị Phật. Thành một vị Phật như thế, thật đâu có phải dễ, vì
thế nên gọi là "Phật bảo". Bởi thế nên, chúng ta dù suốt đời lạy
Ngài đi nữa, cũng chưa xứng.
- Có người nghĩ
rằng: "Tu hành là việc khó, mà phải trải qua ba vô số kiếp mới
thành Phật thì lâu quá, ai làm được!"
- Thưa quý vị!
Sách nói: "Thế thượng vô nan sự, đô lai tâm bất chuyển". Nghĩa là:
Trên đời không có việc chi khó, chỉ tại tâm mình không chuyên cần.
Nếu không ai làm được, sao Đức Phật Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa và nhiều Đức Phật khác lại thành
được. Phật đã dạy rằng: " Kia là trượng phu, thì ta đây cũng vậy,
chớ nên tự khinh mình mà lui suit". Người nghĩ sợ như thế, chẳng
khác nào như người học trò lớp năm, mà trông lên địa vị Thạc sĩ
hay Bác sĩ, rồi họ thối chí và nói rằng: "Học đến hai mươi mấy năm
mới đậu Thạc sĩ ai học được!". Thật ra ông Thạc sĩ lúc đầu tiên
cũng học lớp năm như ai vậy. Tuy biết rằng đường dài, nhưng từy
theo sức mình, tu được bao nhiêu, sẽ được lợi ích bay nhiêu. Như
người học lớp năm; khi lên nhứt, thì vẫn thấy lợi ích học ở lớp
nhứt, cho đến khi lên trung học, đại học, v.v… thì đều có lợi ích
ngang các cấp ấy; học được lớp nào cũng đều có lợi ích cả. Dù Bác
–sĩ hay Thạc sĩ, trong lúc đầu tiên cũng học ở lớp thứ tư lớp năm
như ai. Như quý vị đạo hữu thọ ngu giới thì chỉ thấy ích lợi ở
ngang năm giới; đến khi thọ giới Bồ Tát, thì được lợi ích ở giới
Bồ Tát. Dù thành quả Phật cao siêu, song lúc đầu tiên, quí Ngài
cũng như chúng ta vậy.
- Thứ quý vị!
Thắng được giặc phiền não, không phải là một việc dễ, phải trải
qua một thời gian lâu xa đến 3 vô số kiếp mới hoàn toàn thắng
được; có thắng được mới thành Phật. Vậy chúng ta trong lúc thấy
những người tu hành còn tham sân v.v… chớ nên trách họ. Vì còn
phiền não cho nên họ mới tu. Nếu hết phiền não thì họ đã thành
Phật rồi, cần gì phải tu nữa. Cũng như còn kháng chiến tức là còn
giặc; đã còn giặc thì có khi thắng trận, mà cũng có lúc bại trận.
Người ở trong vòng tu hành cũng thế, có khi thắng được giặc phiền
não, mà cũng có lúc giặc phiền não thắng. Vậy chúng ta không nên
trách: "người tu sao còn tham, sân v.v…"
- Thưa quý vị!
Chúng ta từ hồi nào dean giồ , bị giặc phiền não xâm chiếm, cướp
mất chủ nhơn ông (chơn tâm). Nó trói cột, xiềng xích, làm cho ta
mất tự do; bị nó sai sử, đầy đọa bắt ta làm nô lệ cho thất tình
lục dục, mất độc lập. Vậy chúng ta phải nổ lực dùng đạo binh hiền
từ, kháng chiến cho thắng được giặc phiền não ở nội tâm, phá tan
xiềng xích nô lệ, lấy lại thành Giải thoát, đem trở về chủ nhơn
ông (chơn tâm0. như thế mới thật là độc lập, mà có độc lập, ta mới
được tự do.
- Nếu như nước
nhà được độc lập, dân chúng được tự do, mà tâm ta hãy còn bị phiền
não trói buộc, thất tình lục dục sai sử, gây tạo những điều tội
ác, thì ta không sao khỏi bị gông cùm tù tội. Dù cho nước nhà có
thật độc lập, dân chúng được tự do hoàn toàn, mà ta vẫn bị xiềng
xích gông cùm nô lệ cho vật chất như thường, không được tự do và
độc lập chút nào cả.
- Vậy dám mong,
tôi cùng quý vị, cố gắng kháng chiến cjo hoàn toàn thắng được giặc
phiền não ở nơi tâm mình, để khỏi làm nô lệ cho thất tình, lục
dục, để được giải thoát như Phật. Như thế mới hoàn toàn tự do độc
lập. Và được như thế, là do chúng ta biết "Tu tâm".
-
- NAM MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT
- Giảng Sư
-
THÍCH THIỆN HOA.
--o0o--
|
|