PHẬT HỌC CƠ BẢN
Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002
---o0o---
Chương 3
(Trang 22 - 28.)
Cuộc Ðời Ðức Phật
The Life of Buddha.
~~~~~~~
Sau đây là cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi sẽ không viết đề mục này một cách dài dòng, cũng không đề cập hết tiểu sử Thích Ca Mâu Ni. Những lời mô tả chung về cuộc đời đức Phật hầu hết đã được thuật theo lối kể truyện và được nhiều tác giả xưa nay trình bày khắp nơi. Vì vậy tôi xin dùng chương sách ngắn gọn về cuộc đời của đức Phật để gợi lên một số giá trị quan trọng trong Phật giáo được chứng minh một cách hấp dẫn theo các lời mô tả chung về cuộc đời Thích Ca Mâu Ni.
Trang 22. Trong chương 2, tôi đã đưa ra nguồn gốc và đặc tính của hai nguồn tín ngưỡng cổ đại ở Ấn độ, một có gốc từ tôn giáo văn minh thung lũng sông Ấn và cái kia có liên hệ đến nền văn minh Ðông Âu Aryan.
Ta đã thấy rằng hai dòng tín ngưỡng cổ đại này, lúc dầu hoàn toàn khác nhau; nhưng theo thời gian bắt đầu tương tác và ảnh hưởng nhau cho đến thiên niên kỷ đầu tiên của thời đại chung, chúng bắt đầu gần như không thể phân biệt được với nhau nữa. Không phải là chuyện ngẫu nhiên mà khu trung tâm của phía bắc đồng bằng sông Hằng và vùng Tarai nước Nepal, lại có tên là ‘quốc gia trung tâm’ (Madhyadesha). Vùng này là một trong những vùng mà hai tín ngưỡng đã tiếp xúc tích cực với nhau đến độ xung đột nhau. Những tu sĩ chăm lo tín ngưỡng Aryan sợ rằng với phong trào đông tiến của họ, sẽ có thể có sự biến chất của tôn giáo mình song song với sự phát triển theo lối tu tập, quan niệm không giống với tôn giáo của họ.
Lịch sử của các tôn giáo dạy rằng, khi hai tín ngưỡng khác biệt tiếp xúc và xung đột nhau, một tiềm năng rất lớn sẽ được tạo ra với tinh thần của một nền văn hoá tôn giáo mới. Cuộc đời và lời dạy của đức Phật có thể được xem là có ích trong bối cảnh của hiện tượng lịch sử này. Hơn nữa, như đã được nói trong Chương 2, đã có những sự thay đổi về xã hội, kinh tế và chính trị ảnh hưởng cuộc đời con người trong vùng này ở thế kỷ thứ VI Ttl. Những điều này đương nhiên đã góp phần mạnh mẽ mức độ ý thức tôn giáo. Trong trường hợp này, với những thay đổi lớn về xã hội, kinh tế và chính trị, con người có khuynh hướng nhìn lại để tìm sự an toàn và an ninh trong một thế giới luôn bất an. Theo bản năng, họ tìm về tôn giáo và về những giá trị bất biến dưới hình thức niềm tin và tu tập để được sự bằng an giữa sự bất an. Những thời kỳ như vậy hầu như luôn luôn sản xuất những cuộc đại cách mạng và phục hồi tôn giáo. Ðiều này được chứng minh là đúng ở Ấn độ và Trung hoa trong cùng thế kỷ thứ VI và vào thời kỳ đầu tiên của thời đại Thiên chúa giáo trong vùng Ðịa trung hải.
Trang 23. Có ba giá trị thật quan trọng nổi bật từ cuộc đời của đức Phật: (1) dũng cảm, (2) từ bi, và (3) trí tuệ. Những giá trị này nổi bật qua nhiều giai đoạn trong suốt cuộc đời Ngài. Không phải ngẫu nhiên mà cả ba điều này là những điều kiện tiên quyết cần thiết để đạt được quả niết bàn hay giác ngộ. Theo pháp Phật, có ba điều khổ gây sự luân hồi, trở đi trở lại mãi--đó là, gắn bó (tham), bất mãn (sân) và vô minh (si). Ba điều khổ này được giải trừ bởi những cái đúng là dám bỏ (dũng), từ bitrí tuệ. Qua việc hành trì ba tinh thần này, hành giả có khả năng diệt được các đau khổ đó và đạt được giác ngộ. Do đó, không phải tình cờ mà quan điểm này lại có vai trò quan trọng thật nổi bật trong cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chúng ta hãy xét đến quan điểm này từng cái một, bắt đầu với sự dám xả bỏ. Giống như trong trường hợp từ bi, những dấu hiệu đầu tiên của lòng dũng cảm đã tự biểu lộ rất sớm trong cuộc đời đức Phật. Lòng dũng cảm chủ yếu là thừa nhận rằng tất cả sự hiện hữu đều có yếu tố đau khổ trong đó. Khi bạn nhận ra được điều này, nó dẫn đến một sự thay đổi tư tưởng hoàn toàn đảo ngược. Tức là nhận thức rằng tất cả những gì trong cuộc đời thế gian đều bị tràn ngập bởi đau khổ khiến cho ta phải tìm một cái gì khác biệt để thay thế. Rõ ràng đây là lý do tại sao đau khổ được kể như là điểm đầu tiên của Tứ Diệu Ðế, vì đau khổ thực sự hiện diện khắp mọi nơi và là lý do chính yếu cho sự dám xả bỏ.
Trang 24. Thái tử Sĩ đạt ta (Siddharta) tham dự một buổi lễ làm mùa hàng năm của thị tộc ông từ lúc 7 tuổi. Trong khi chứng kiến các cuộc hành lễ, vị hoàng tử trẻ chú ý thấy một con sâu trước đó được xới lên đang bị ăn ngấu nghiến bởi một chú chim. Việc này làm Siddharta suy ngẫm cái thực tế của cuộc đời: thừa nhận cái sự kiện chắc chắn sẽ xãy ra rằng tất cả các sinh vật giết lẫn nhau để sống và rằng đây là nguồn gốc lớn lao của đau khổ. Thế là, ta đã thấy ngay vào lúc tuổi còn nhỏ chàng thái tử trẻ tuổi đã bắt đầu thừa nhận rằng cuộc sống bị tràn ngập bởi đau khổ như chúng ta thấy biết.
Trang 24. Nếu xem lại tiểu sử cuộc đời niên thiếu Sĩ đạt ta, chúng ta sẽ thấy ngay giai đoạn trong đó bốn cảnh đã làm xúc động khiến ông dũng mãnh từ bỏ cuộc sống sung sướng và chấp nhận cuộc đời của một người tu khổ hạnh để đi tìm sự thật. Thấy một ngưòi già, một kẻ bệnh và một xác chết, khiến ta nghĩ, tại sao ông lại cảm thấy đau khổ bởi những cảnh này. Rõ ràng là tuy không bị ảnh hưởng bởi sự giàu nghèo nhưng ông sẽ bị lệ thuộc vào sự lần lượt nối tiếp nhau không thể tránh được của lão, bệnh và tử. Nhận ra được điều này khiến chàng thái tử dần dần có tư tưởng thoát ra khỏi những thú vui chóng tàn của thế gian và thúc đẩy ông tìm cái sự thật tối thượng về sự hiện hữu bằng đường lối xả bỏ.
Ðiểm quan trọng mà ta cần lưu ý là sự dám xả bỏ của thái tử Sĩ đạt ta không phải bị thúc đẩy bởi tuyệt vọng thường xãy ra trong tiến trình bình thường của cuộc sống. Hưởng hạnh phúc và quyền lợi lớn lao nhất, vậy mà ông nhận ra được sự thật đau khổ gắn liền và cho rằng dù chúng ta vui thú bao nhiêu, chúng ta cũng phải đối đầu với thực tế, đó là lão, bệnh, tử. Hiểu được chuyện này và được khuyến khích bởi cảnh thứ tư, cảnh của một người tu khổ hạnh, Sĩ đạt ta đã dũng mãnh từ bỏ cuộc đời vương giả để đi tìm sự thật tối thượng cho mình và cho lợi ích của tất cả chúng sinh.
Trang 25. Ðã xét đến đức dũng, ta xét tiếp về lòng từ và bi, điều này cũng hiện ra rất sớm trong cuộc đời của đức Phật. Bằng chứng rõ rệt nhất là truyện con ngỗng bị thương. Theo truyện thì chàng và người em họ Devadatta đang thơ thẩn chung quanh chơi nơi vườn vua. Lúc đó Devadatta dùng cung tên bắn hạ một con ngỗng. Cả hai chạy về phía nơi con ngỗng rơi xuống. Sĩ đạt ta chạy mau hơn nên đến nơi trước. Chàng thái tử trẻ xem xét con chim bị thương, tìm cách làm dịu sự đau khổ cho nó. Devadatta phản ứng dữ dội, nói rằng con ngỗng thuộc về anh ta, bởi vì anh đã bắn hạ trước. Hai chàng thanh niên tranh cải và đem sự việc đến một nhân vật kinh nghiệm ở toà án. Vị này quyết định giao con chim cho Sĩ đạt ta với lý do là đời sống thuộc về quyền của người duy trì nó chứ không phải người hủy diệt nó.
Trong câu chuyện giản dị này, chúng ta có một thí dụ tuyệt vời về sự biểu lộ đầu tiên của đức Phật về quan niệm từ bi, một quan niệm mà mục tiêu là nuôi dưỡng hạnh phúc cho người khác và làm dịu sự đau khổ cho họ. Sau khi giác ngộ, ông tiếp tục biểu lộ tinh thần này bằng nhiều cách rất đáng chú ý. Chẳng hạn thời kỳ mà mọi người đều biết ngài đã tự mình chăm sóc bệnh cho tu sĩ Tissa. Bệnh của người này làm cho nhiều thành viên trong Tăng đoàn tránh xa ông. Ðức Phật giải quyết bằng cách làm gương, đích thân săn sóc và rửa sạch thân thể bệnh tật khô gầy của Tissa, nhờ vậy làm giảm bớt nổi đau khổ dùm ông.
Trang 26. Cuối cùng là quan điểm về trí tuệ. Ðây là điều quan trọng nhất trong ba điều, tương xứng với chính sự giác ngộ. Chính trí tuệ cuối cùng mở cửa tự do, trí tuệ tháo gở sự vô minh, nguyên nhân căn bản của đau khổ. Người ta nói rằng trong khi ta có thể chặt các cành của một cái cây và đồng thời hạ luôn thân cây của nó xuống, nếu cái rể không được lấy đi nốt, cây đó sẽ mọc trở lại. Cũng tương tự như thế, mặc dầu người ta có thể diệt sự gắn bó, tham cầu bằng cách dũng cảm xả bỏ, diệt sân hận bằng lòng từ bi, nhưng nếu ngày nào mà vô minh, mê si không được tẩy trừ bằng phương tiện trí tuệ, thì ngày ấy sự gắn bó và ghét bỏ lại có cơ hội nổi lên nữa.
Phương tiện chủ yếu qua đó trí tuệ có thể đạt được là thiền quán. Một lần nữa, có một sự kiện trong đó kỷ năng thiền định của ông đã sớm phát triển. Theo các lời tường thuật về cuộc đời ngài, ngay sau khi chứng kiến sự đau khổ của trùng và chim tại buổi lễ làm mùa, chàng thái tử ngồi dưới cây táo hồng gần đó. Chàng bắt đầu thiền quán, hoàn thành định sơ thiền (tức giai đoạn ‘tầm và sát’: LND) bằng cách tập trung tinh thần trong tiến trình hít vào thở ra. Trong diễn biến này chúng ta đã có bằng chứng về kinh nghiệm thiền quán rất sớm trong cuộc đời của đức Phật.
Sau đó, khi xả bỏ cuộc đời gia chủ và dũng mãnh đi tìm sự thật tuyệt đối (chơn đế), một trong những kỷ luật đầu tiên ông phát triển là thiền quán. Chúng ta được biết rằng ‘người tu khổ hạnh Gotama’ (cái tên mà mọi người biết đến trong suốt sáu năm miệt mài tìm giác ngộ) theo học hai người thầy nổi tiếng về thiền định, Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Theo lời dạy dỗ, anh đã học được và quán triệt những kỷ thuật khác nhau về sự tập trung tư tưởng. Trong chương 2, tôi đã cho thấy nguồn gốc của thiền định có từ thời bình minh của văn minh Ấn độ, thời vàng son của nền văn minh thung lũng sông Ấn. Rất chắc chắn là hai vị thầy được nói tới trong tiểu sử của đức Phật là hai người đã giải thích truyền thống thiền định hay tập trung tinh thần rất cổ xưa này.
Trang 27. Một điều đáng chú ý là người tu khổ hạnh Gotama đã rời bỏ hai vị thầy này vì chàng thấy rằng chỉ thiền định thì không thể vĩnh viễn chấm dứt được sự đau khổ tuy có thể được sự bình an tạm thời. Sự kiện này thật quan trọng. Ðức Phật nhấn mạnh vào sự thực tập phát triển tinh thần, một việc rõ ràng có trong nền Văn minh Thung lũng sông Ấn; nhưng ngài đã vượt lên trên mục tiêu giới hạn của thiền quán mà tạo thêm kinh nghiệm cho một tôn giáo mới. Ðây chính là cái khác biệt giữa lời dạy của Phật với lời dạy của nhiều trường phái Ấn độ, những trường phái ít nhiều đã theo cách tu tập du già hoặc thiền quán.
Nói tóm lại, sự khác nhau giữa Phật giáo với các tín ngưỡng quán tưởng của Ấn độ giáo và các tôn giáo khác là chỉ thiền quán không thì không đủ. Ðối với Phật giáo, thiền quán giống như gọt viết chì. Chuốc viết chì là để viết. Thiền quán là để trau giồi trí não cho một mục đích nhất định. Trong trường hợp này, mục đích đó là trí tuệ. Sự liên hệ giữa thiền quán và trí tuệ giống như giữa cây đuốc với ánh sáng cần có để xem một bức tranh. Nếu ánh sáng quá mờ hay bị gió tạt hoặc nếu tay cầm đuốc không vững thì không thể nào thấy được bức tranh rõ ràng. Nếu ta muốn xâm nhập cái bóng tối vô minh và nhìn thấu được thực tướng của hiện hữu, điều đó sẽ không hoàn chỉnh được nếu tâm trí ta yếu ớt, rối trí, không ổn định do thói quen không hoạt động hoặc các xáo trộn thuộc cảm tính và tri thức thông thường. Ðức Phật khám phá việc này bằng sự thực hành vào đêm giác ngộ của ông. Ðầu óc tập trung, nhất tâm, khinh an, ông thiền quán và điều khiển nó vào sự hiểu biết thực tướng của các sự vật và cuối cùng hiểu được sư thật. Vì thế sự giác ngộ của Phật là cái kết quả của cặp tổng hợp thiền định và trí huệ.
Trang 28. Trí huệ của Phật cũng có những phạm vi khác. Chẳng hạn sự hiểu biết về Trung Ðạo. Trong Phật giáo, thuyết Trung đạo là chủ yếu nhất và có nhiều trình độ về ý nghĩa. Ta sẽ xét riêng nó sau nhưng có thể nói ngay tại đây là: Ý nghĩa căn bản nhất của Trung đạo là tránh các sự thái quá trong việc đam mê để thỏa mãn các giác quan hay nói một cách khác gây đau khổ cho thân xác. Ðiểm căn bản của Trung đạo được minh chứng trong cuộc đời của Phật bằng chính sự nghiệp và kinh nghiệm riêng của ông. Trước khi từ bỏ cuộc đời gia trưởng vương giả, Sĩ đạt ta đã hưởng một cuộc sống vui thú xa hoa và nhục cảm. Sau đó, khi đã trở thành một người tu khổ hạnh để tìm sự thật, ông đã bỏ ra sáu năm thực tập tu khổ hạnh và hành xác. Sau cùng, ông đã hé thấy con đường Trung đạo tránh được hai cực đoan: vừa thấy và hiểu được sự vô ích của sự tu khổ hạnh cũng vừa thấy sự vô nghĩa của cuộc sống đầu đời dễ dãi vương giả của mình.
Dĩ nhiên có nhiều giai đoạn quan trọng khác trong cuộc đời của Phật vừa đáng quan tâm vừa có giá trị để thảo luận, nhưng điểm muốn nói của tôi ở đây là chúng ta có thể xem cuộc đời ngài là một bài học về giới hạnhtư tưởng chứ không phải là một tiểu sử nổi tiếng tên tuổi cùng với địa danh. Như thế chúng ta mới có thể thấy đúng và hiểu biết đúng các tinh thần gương mẫu trong sự nghiệp của Thích Ca Mâu Ni. Với định hướng này, ta mới có thể thực hiện được một sự hiểu biết lớn lao và đúng đắn về ý nghĩa thực sự của cuộc đời đức Phật.
--o0o--