-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 3
- (Trang 22 - 28.)
-
Cuộc Ðời Ðức Phật
-
The Life of Buddha.
- ~~~~~~~
- Sau đây là cuộc
đời Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi sẽ không viết đề mục này một cách
dài dòng, cũng không đề cập hết tiểu sử Thích Ca Mâu Ni. Những lời
mô tả chung về cuộc đời đức Phật hầu hết đã được thuật theo lối kể
truyện và được nhiều tác giả xưa nay trình bày khắp nơi. Vì vậy
tôi xin dùng chương sách ngắn gọn về cuộc đời của đức Phật để gợi
lên một số giá trị quan trọng trong Phật giáo được chứng minh một
cách hấp dẫn theo các lời mô tả chung về cuộc đời Thích Ca Mâu Ni.
- Trang 22. Trong
chương 2, tôi đã đưa ra nguồn gốc và đặc tính của hai nguồn tín
ngưỡng cổ đại ở Ấn độ, một có gốc từ tôn giáo văn minh thung lũng
sông Ấn và cái kia có liên hệ đến nền văn minh Ðông Âu Aryan.
- Ta đã thấy rằng
hai dòng tín ngưỡng cổ đại này, lúc dầu hoàn toàn khác nhau; nhưng
theo thời gian bắt đầu tương tác và ảnh hưởng nhau cho đến thiên
niên kỷ đầu tiên của thời đại chung, chúng bắt đầu gần như không
thể phân biệt được với nhau nữa. Không phải là chuyện ngẫu nhiên
mà khu trung tâm của phía bắc đồng bằng sông Hằng và vùng Tarai
nước Nepal, lại có tên là ‘quốc gia trung tâm’ (Madhyadesha). Vùng
này là một trong những vùng mà hai tín ngưỡng đã tiếp xúc tích cực
với nhau đến độ xung đột nhau. Những tu sĩ chăm lo tín ngưỡng
Aryan sợ rằng với phong trào đông tiến của họ, sẽ có thể có sự
biến chất của tôn giáo mình song song với sự phát triển theo lối
tu tập, quan niệm không giống với tôn giáo của họ.
- Lịch sử của các
tôn giáo dạy rằng, khi hai tín ngưỡng khác biệt tiếp xúc và xung
đột nhau, một tiềm năng rất lớn sẽ được tạo ra với tinh thần của
một nền văn hoá tôn giáo mới. Cuộc đời và lời dạy của đức Phật có
thể được xem là có ích trong bối cảnh của hiện tượng lịch sử này.
Hơn nữa, như đã được nói trong Chương 2, đã có những sự thay đổi
về xã hội, kinh tế và chính trị ảnh hưởng cuộc đời con người trong
vùng này ở thế kỷ thứ VI Ttl. Những điều này đương nhiên đã góp
phần mạnh mẽ mức độ ý thức tôn giáo. Trong trường hợp này, với
những thay đổi lớn về xã hội, kinh tế và chính trị, con người có
khuynh hướng nhìn lại để tìm sự an toàn và an ninh trong một thế
giới luôn bất an. Theo bản năng, họ tìm về tôn giáo và về những
giá trị bất biến dưới hình thức niềm tin và tu tập để được sự bằng
an giữa sự bất an. Những thời kỳ như vậy hầu như luôn luôn sản
xuất những cuộc đại cách mạng và phục hồi tôn giáo. Ðiều này được
chứng minh là đúng ở Ấn độ và Trung hoa trong cùng thế kỷ thứ VI
và vào thời kỳ đầu tiên của thời đại Thiên chúa giáo trong vùng
Ðịa trung hải.
- Trang 23. Có ba
giá trị thật quan trọng nổi bật từ cuộc đời của đức Phật: (1)
dũng cảm, (2) từ bi, và (3) trí tuệ. Những giá
trị này nổi bật qua nhiều giai đoạn trong suốt cuộc đời Ngài.
Không phải ngẫu nhiên mà cả ba điều này là những điều kiện tiên
quyết cần thiết để đạt được quả niết bàn hay giác ngộ. Theo pháp
Phật, có ba điều khổ gây sự luân hồi, trở đi trở lại mãi--đó là,
gắn bó (tham), bất mãn (sân) và vô minh (si). Ba điều khổ này được
giải trừ bởi những cái đúng là dám bỏ (dũng), từ bi
và trí tuệ. Qua việc hành trì ba tinh thần này, hành giả có
khả năng diệt được các đau khổ đó và đạt được giác ngộ. Do đó,
không phải tình cờ mà quan điểm này lại có vai trò quan trọng thật
nổi bật trong cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
- Chúng ta hãy
xét đến quan điểm này từng cái một, bắt đầu với sự dám xả bỏ.
Giống như trong trường hợp từ bi, những dấu hiệu đầu tiên của lòng
dũng cảm đã tự biểu lộ rất sớm trong cuộc đời đức Phật. Lòng dũng
cảm chủ yếu là thừa nhận rằng tất cả sự hiện hữu đều có yếu tố đau
khổ trong đó. Khi bạn nhận ra được điều này, nó dẫn đến một sự
thay đổi tư tưởng hoàn toàn đảo ngược. Tức là nhận thức rằng tất
cả những gì trong cuộc đời thế gian đều bị tràn ngập bởi đau khổ
khiến cho ta phải tìm một cái gì khác biệt để thay thế. Rõ ràng
đây là lý do tại sao đau khổ được kể như là điểm đầu tiên của Tứ
Diệu Ðế, vì đau khổ thực sự hiện diện khắp mọi nơi và là lý do
chính yếu cho sự dám xả bỏ.
- Trang 24. Thái
tử Sĩ đạt ta (Siddharta) tham dự một buổi lễ làm mùa hàng năm của
thị tộc ông từ lúc 7 tuổi. Trong khi chứng kiến các cuộc hành lễ,
vị hoàng tử trẻ chú ý thấy một con sâu trước đó được xới lên đang
bị ăn ngấu nghiến bởi một chú chim. Việc này làm Siddharta suy
ngẫm cái thực tế của cuộc đời: thừa nhận cái sự kiện chắc chắn sẽ
xãy ra rằng tất cả các sinh vật giết lẫn nhau để sống và rằng đây
là nguồn gốc lớn lao của đau khổ. Thế là, ta đã thấy ngay vào lúc
tuổi còn nhỏ chàng thái tử trẻ tuổi đã bắt đầu thừa nhận rằng cuộc
sống bị tràn ngập bởi đau khổ như chúng ta thấy biết.
- Trang 24. Nếu
xem lại tiểu sử cuộc đời niên thiếu Sĩ đạt ta, chúng ta sẽ thấy
ngay giai đoạn trong đó bốn cảnh đã làm xúc động khiến ông dũng
mãnh từ bỏ cuộc sống sung sướng và chấp nhận cuộc đời của một
người tu khổ hạnh để đi tìm sự thật. Thấy một ngưòi già, một kẻ
bệnh và một xác chết, khiến ta nghĩ, tại sao ông lại cảm thấy đau
khổ bởi những cảnh này. Rõ ràng là tuy không bị ảnh hưởng bởi sự
giàu nghèo nhưng ông sẽ bị lệ thuộc vào sự lần lượt nối tiếp nhau
không thể tránh được của lão, bệnh và tử. Nhận ra được điều này
khiến chàng thái tử dần dần có tư tưởng thoát ra khỏi những thú
vui chóng tàn của thế gian và thúc đẩy ông tìm cái sự thật tối
thượng về sự hiện hữu bằng đường lối xả bỏ.
- Ðiểm quan trọng
mà ta cần lưu ý là sự dám xả bỏ của thái tử Sĩ đạt ta không phải
bị thúc đẩy bởi tuyệt vọng thường xãy ra trong tiến trình bình
thường của cuộc sống. Hưởng hạnh phúc và quyền lợi lớn lao nhất,
vậy mà ông nhận ra được sự thật đau khổ gắn liền và cho rằng dù
chúng ta vui thú bao nhiêu, chúng ta cũng phải đối đầu với thực
tế, đó là lão, bệnh, tử. Hiểu được chuyện này và được khuyến khích
bởi cảnh thứ tư, cảnh của một người tu khổ hạnh, Sĩ đạt ta đã dũng
mãnh từ bỏ cuộc đời vương giả để đi tìm sự thật tối thượng cho
mình và cho lợi ích của tất cả chúng sinh.
- Trang 25. Ðã
xét đến đức dũng, ta xét tiếp về lòng từ và bi, điều này
cũng hiện ra rất sớm trong cuộc đời của đức Phật. Bằng chứng rõ
rệt nhất là truyện con ngỗng bị thương. Theo truyện thì chàng và
người em họ Devadatta đang thơ thẩn chung quanh chơi nơi vườn vua.
Lúc đó Devadatta dùng cung tên bắn hạ một con ngỗng. Cả hai chạy
về phía nơi con ngỗng rơi xuống. Sĩ đạt ta chạy mau hơn nên đến
nơi trước. Chàng thái tử trẻ xem xét con chim bị thương, tìm cách
làm dịu sự đau khổ cho nó. Devadatta phản ứng dữ dội, nói rằng con
ngỗng thuộc về anh ta, bởi vì anh đã bắn hạ trước. Hai chàng thanh
niên tranh cải và đem sự việc đến một nhân vật kinh nghiệm ở toà
án. Vị này quyết định giao con chim cho Sĩ đạt ta với lý do là đời
sống thuộc về quyền của người duy trì nó chứ không phải người hủy
diệt nó.
- Trong câu
chuyện giản dị này, chúng ta có một thí dụ tuyệt vời về sự biểu lộ
đầu tiên của đức Phật về quan niệm từ bi, một quan niệm mà mục
tiêu là nuôi dưỡng hạnh phúc cho người khác và làm dịu sự đau khổ
cho họ. Sau khi giác ngộ, ông tiếp tục biểu lộ tinh thần này bằng
nhiều cách rất đáng chú ý. Chẳng hạn thời kỳ mà mọi người đều biết
ngài đã tự mình chăm sóc bệnh cho tu sĩ Tissa. Bệnh của người này
làm cho nhiều thành viên trong Tăng đoàn tránh xa ông. Ðức Phật
giải quyết bằng cách làm gương, đích thân săn sóc và rửa sạch thân
thể bệnh tật khô gầy của Tissa, nhờ vậy làm giảm bớt nổi đau khổ
dùm ông.
- Trang 26. Cuối
cùng là quan điểm về trí tuệ. Ðây là điều quan trọng nhất trong ba
điều, tương xứng với chính sự giác ngộ. Chính trí tuệ cuối cùng mở
cửa tự do, trí tuệ tháo gở sự vô minh, nguyên nhân căn bản của đau
khổ. Người ta nói rằng trong khi ta có thể chặt các cành của một
cái cây và đồng thời hạ luôn thân cây của nó xuống, nếu cái rể
không được lấy đi nốt, cây đó sẽ mọc trở lại. Cũng tương tự như
thế, mặc dầu người ta có thể diệt sự gắn bó, tham cầu bằng
cách dũng cảm xả bỏ, diệt sân hận bằng lòng từ bi,
nhưng nếu ngày nào mà vô minh, mê si không được tẩy trừ
bằng phương tiện trí tuệ, thì ngày ấy sự gắn bó và ghét bỏ
lại có cơ hội nổi lên nữa.
- Phương tiện chủ
yếu qua đó trí tuệ có thể đạt được là thiền quán. Một lần
nữa, có một sự kiện trong đó kỷ năng thiền định của ông đã sớm
phát triển. Theo các lời tường thuật về cuộc đời ngài, ngay sau
khi chứng kiến sự đau khổ của trùng và chim tại buổi lễ làm mùa,
chàng thái tử ngồi dưới cây táo hồng gần đó. Chàng bắt đầu thiền
quán, hoàn thành định sơ thiền (tức giai đoạn ‘tầm và sát’: LND)
bằng cách tập trung tinh thần trong tiến trình hít vào thở ra.
Trong diễn biến này chúng ta đã có bằng chứng về kinh nghiệm thiền
quán rất sớm trong cuộc đời của đức Phật.
- Sau đó, khi xả
bỏ cuộc đời gia chủ và dũng mãnh đi tìm sự thật tuyệt đối (chơn
đế), một trong những kỷ luật đầu tiên ông phát triển là thiền
quán. Chúng ta được biết rằng ‘người tu khổ hạnh Gotama’ (cái tên
mà mọi người biết đến trong suốt sáu năm miệt mài tìm giác ngộ)
theo học hai người thầy nổi tiếng về thiền định, Alara Kalama và
Uddaka Ramaputta. Theo lời dạy dỗ, anh đã học được và quán triệt
những kỷ thuật khác nhau về sự tập trung tư tưởng. Trong chương 2,
tôi đã cho thấy nguồn gốc của thiền định có từ thời bình minh của
văn minh Ấn độ, thời vàng son của nền văn minh thung lũng sông Ấn.
Rất chắc chắn là hai vị thầy được nói tới trong tiểu sử của đức
Phật là hai người đã giải thích truyền thống thiền định hay tập
trung tinh thần rất cổ xưa này.
- Trang 27. Một
điều đáng chú ý là người tu khổ hạnh Gotama đã rời bỏ hai vị thầy
này vì chàng thấy rằng chỉ thiền định thì không thể vĩnh viễn chấm
dứt được sự đau khổ tuy có thể được sự bình an tạm thời. Sự kiện
này thật quan trọng. Ðức Phật nhấn mạnh vào sự thực tập phát triển
tinh thần, một việc rõ ràng có trong nền Văn minh Thung lũng sông
Ấn; nhưng ngài đã vượt lên trên mục tiêu giới hạn của thiền quán
mà tạo thêm kinh nghiệm cho một tôn giáo mới. Ðây chính là cái
khác biệt giữa lời dạy của Phật với lời dạy của nhiều trường phái
Ấn độ, những trường phái ít nhiều đã theo cách tu tập du già hoặc
thiền quán.
- Nói tóm lại, sự
khác nhau giữa Phật giáo với các tín ngưỡng quán tưởng của Ấn độ
giáo và các tôn giáo khác là chỉ thiền quán không thì không đủ.
Ðối với Phật giáo, thiền quán giống như gọt viết chì. Chuốc viết
chì là để viết. Thiền quán là để trau giồi trí não cho một mục
đích nhất định. Trong trường hợp này, mục đích đó là trí tuệ. Sự
liên hệ giữa thiền quán và trí tuệ giống như giữa cây đuốc với ánh
sáng cần có để xem một bức tranh. Nếu ánh sáng quá mờ hay bị gió
tạt hoặc nếu tay cầm đuốc không vững thì không thể nào thấy được
bức tranh rõ ràng. Nếu ta muốn xâm nhập cái bóng tối vô minh và
nhìn thấu được thực tướng của hiện hữu, điều đó sẽ không hoàn
chỉnh được nếu tâm trí ta yếu ớt, rối trí, không ổn định do thói
quen không hoạt động hoặc các xáo trộn thuộc cảm tính và tri thức
thông thường. Ðức Phật khám phá việc này bằng sự thực hành vào đêm
giác ngộ của ông. Ðầu óc tập trung, nhất tâm, khinh an, ông thiền
quán và điều khiển nó vào sự hiểu biết thực tướng của các sự vật
và cuối cùng hiểu được sư thật. Vì thế sự giác ngộ của Phật là cái
kết quả của cặp tổng hợp thiền định và trí huệ.
- Trang 28. Trí
huệ của Phật cũng có những phạm vi khác. Chẳng hạn sự hiểu biết về
Trung Ðạo. Trong Phật giáo, thuyết Trung đạo là chủ yếu nhất và có
nhiều trình độ về ý nghĩa. Ta sẽ xét riêng nó sau nhưng có thể nói
ngay tại đây là: Ý nghĩa căn bản nhất của Trung đạo là tránh các
sự thái quá trong việc đam mê để thỏa mãn các giác quan hay nói
một cách khác gây đau khổ cho thân xác. Ðiểm căn bản của Trung đạo
được minh chứng trong cuộc đời của Phật bằng chính sự nghiệp và
kinh nghiệm riêng của ông. Trước khi từ bỏ cuộc đời gia trưởng
vương giả, Sĩ đạt ta đã hưởng một cuộc sống vui thú xa hoa và nhục
cảm. Sau đó, khi đã trở thành một người tu khổ hạnh để tìm sự
thật, ông đã bỏ ra sáu năm thực tập tu khổ hạnh và hành xác. Sau
cùng, ông đã hé thấy con đường Trung đạo tránh được hai cực đoan:
vừa thấy và hiểu được sự vô ích của sự tu khổ hạnh cũng vừa thấy
sự vô nghĩa của cuộc sống đầu đời dễ dãi vương giả của mình.
- Dĩ nhiên có
nhiều giai đoạn quan trọng khác trong cuộc đời của Phật vừa đáng
quan tâm vừa có giá trị để thảo luận, nhưng điểm muốn nói của tôi
ở đây là chúng ta có thể xem cuộc đời ngài là một bài học về
giới hạnh và tư tưởng chứ không phải là một tiểu sử nổi
tiếng tên tuổi cùng với địa danh. Như thế chúng ta mới có thể thấy
đúng và hiểu biết đúng các tinh thần gương mẫu trong sự nghiệp của
Thích Ca Mâu Ni. Với định hướng này, ta mới có thể thực hiện được
một sự hiểu biết lớn lao và đúng đắn về ý nghĩa thực sự của cuộc
đời đức Phật.
--o0o--
|
|