-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 14
- (Trang 125 - 132.)
- Nguồn gốc Bắc
truyền (Ðại thừa)
- The Origins of
the Mahayana Tradition.
- ~~~~~~~
- Phải nói ngay
từ đầu rằng, với sự quá rộng rãi của phái Bắc truyền (Ðại thừa),
chúng ta không hy vọng gì hơn là chỉ giới thiệu được các khuynh
hướng chính yếu của nó trong khoảng một vài chương ngắn ngủi.
Không cần phải xét đến các khuynh hướng cá nhân hay theo sát bất
cứ tông phái nào của Phật giáo, chúng ta phải nhận rằng phái Bắc
truyền (Ðại thừa) đã đóng góp rất nhiều vào tư tưởng và văn hóa
của Phật giáo. Nó đã tạo ra một rừng văn học siêu việt, vĩ đại,
nhiều tác phẩm nghệ thuật và các kỷ thuật khác nhau cho việc phát
triển cá tính con người. Nhiều quốc gia khắp Á châu đã được phái
Bắc truyền (Ðại thừa) ảnh hưởng sâu sắc. Các học giả ngày nay tuy
không quan tâm đến nó nhiều, nếu so sánh với phái Nam truyền (Tiểu
thừa), nhưng hiện cũng có một số người rất chú ý vào nền văn học,
triết lý và vào con đường đi của chư Bồ tát. Vì thế với tám chương
sau, chúng ta hãy xét dến các nguồn gốc và sự phát triển của phái
Bắc truyền (Ðại thừa).
- Bắt đầu bằng
việc xét đến nguồn gốc của phái Bắc truyền (Ðại thừa) là bởi vì
tôi tin rằng nếu chúng ta không hiểu và không đánh giá đúng mức
các lý do tại sao truyền thống này phát sinh--tức cái hạt giống
trong mảnh đất nguyên thủy của tín ngưỡng Phật giáo--thì thật là
điều khó khăn cho chúng ta để thấy phái Bắc truyền (Ðại thừa) từ
một quan điểm khách quan. Ðầu tiên tôi xin chú mục ngay vào chính
thời kỳ đầu tiên thiết lập tín ngưỡng Phật giáo, tức là vào chính
cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
- Ðức Thích Ca đã
dạy trong 45 năm cho vô số các sinh vật tại nhiều nơi trong vùng
trung tâm đông bắc Ấn độ. Các sinh vật không những là mọi người
trong các tầng lớp xã hội, mà còn cả thú vật và các siêu nhân như
thần thánh của các cõi trời bên trên và các cõi âm ty phía dưới.
Các tông phái Phật giáo đã thừa nhận rằng đức Phật thực hiện được
nhiều phép lạ khác nhau một cách phi thường, không dễ hiểu được
đối với các sinh vật đã giác ngộ. Phật không phải là người cũng
không phải là thánh như chính Ngài đã tự nhận. Nếu không phải là
thánh, ông chắc chắn là bậc siêu phàm, được tán thán và siêu thế
gian, vì ông đã hiện hữu từ vô số kiếp. Thật vậy, các Phật tử tin
rằng Phật vĩ đại hơn bất cứ vị thánh nào qua hạnh nguyện cùng các
hoạt động từ tâm và bao la của ngài. Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm
gương bằng sự nghiệp riêng của ông mà con người đều có thể làm
bằng hoặc hơn. Mục tiêu của sự nghiệp này là Giác ngộ và Phật quả
và cái cách làm là cách của các Bồ tát. Phật nói đến mục tiêu của
Giác ngộ và Phật quả cũng như về mục tiêu Niết bàn. Chính ông đã
chỉ dạy trọn vẹn cách đạt được mục tiêu Phật quả bằng cách luyện
tập và hoàn thành Hạnh Bồ tát trong nhiều câu chuyện của những lần
hiện hữu của ông trước đây.
- Trang 126. Tùy
theo khả năng và nguyện vọng riêng của từng người, Phật chấp nhận
cho việc tự thích nghi giáo lý của ông. Trong khi không rời bỏ các
công hạnh chính yếu về giới đức và trí huệ, Phật đã cho phép rất
nhiều cơ hội để mỗi cá nhân được biểu lộ và hoàn thành. Ông khuyến
khích sự tham vấn tự do trong hàng thế tục và tính dân chủ trong
cộng đồng tu viện. Ðiều này được thấy rõ ràng trong giáo lý của
ông. Chẳng hạn, có một giáo thuyết nỗi tiếng được nói rõ bằng lời
khi Phật khuyên người Kalamas. Ông nói rằng người ta không nên tùy
thuộc vào các phương tiện thứ hai để kiểm tra tính chất xác thực
của các sự vật, mà phải thử nghiệm sự xác thực đó trong ánh sáng
kinh nghiệm cá nhân riêng của người đó và chỉ khi đó mới chấp nhận
chúng là sự thật.
- Cũng với một ý
nghĩa tương tự, ông nói rằng người ta nên chứng nghiệm sự thật
dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn quán sát, lý luận và tính tự
thích nghi, cùng một cách của người khôn ngoan thử nghiệm sự thuần
chất của vàng bằng cách cắt, chà và nun nóng nó. Một lần nữa, về
cuối cuộc đời sự nghiệp của ông, Phật đã bảo các môn đệ hãy tự
thắp đuốc lên, tự soi sáng đường đi với lý lẽ riêng của mình.
Những lời cuối cùng của ông là, ‘‘Các vật kết hợp nhau bị thay đổi
là chuyện thường, vậy hãy tìm ra câu trả lời cho sự giải thoát của
bạn bằng sự cần mẫn.’’
- Trang 127. Ðức
Phật cũng khuyến khích sự tự lực đối với những cộng đồng tu sĩ có
liên quan tới kỷ luật tu viện. Ông đã bảo Ananda rằng, sau khi ông
tịch diệt, các thành viên Giáo hội Tăng già được tự ý hủy bỏ một
số luật nếu giới luật tu viện thấy cần thay đổi. Một điều có ý
nghĩa nữa là Phật cũng từ chối chỉ định người kế thừa để tiếp tục
lãnh đạo cộng đồng Phật giáo sau khi ông chết. Tất cả những sự
kiện này đã chứng tỏ có một không khí đặc biệt hiện hữu trong cộng
đồng Phật giáo tối cổ thời đó: một không khí vấn đáp tự do, dân
chủ và độc lập.
- Sau ngày Phật
tịch, những điều dạy của ông được bảo tồn theo cung cách truyền
miệng, được truyền thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác, duy trì
trong trí nhớ tập thể của họ. Biết đọc biết viết là một đặc ân của
thành phần tinh hoa của Ấn độ lúc đó. Thêm một dấu hiệu hiếm thấy
về dân chủ trong truyền thống Phật giáo là các hình thức dạy dỗ có
tính cách văn chương bị bỏ quên từ lâu. Nhiều người không biết
chữ, vì thế truyền miệng là phương tiện bảo tồn và phổ biến Pháp
Phật. Trong 500 năm giáo lý được bảo tồn bằng lời nói, một số hội
nghị kết tập được tổ chức, hệ thống hóa và quyết định các văn bản
giáo huấn kinh điển được mọi người chấp thuận và kỷ luật tu viện
(Luật: Vinaya). Chắc chắn đã có 3 và có thể hơn 6 lần kết tập
trong thời kỳ này tại nhiều nơi khác nhau trên Ấn độ. Kết quả là
có sự xuất hiện của rất nhiều trường phái mà các kinh điển và các
giới luật được thay đổi khác nhau nhiều hơn hay ít hơn.
- Hội nghị Kết
tập lần thứ nhứt chắc chắn đã được tổ chức lập tức sau khi đức
Phật tịch diệt tại Rajagriha thủ đô nước Magadha. Ở đó, hội nghị
đã được yêu cầu là có nên tiến hành bải bỏ các giới luật ít quan
trọng hơn không, như Phật đã căn dặn ngài A nan (Ananda) là Giáo
Hội Tăng già có thể làm như vậy nếu thấy cần. Rủi thay, Ananda đã
quên hỏi Phật là giới luật nào là giới luật kém quan trọng hơn.
Ðiều không chắc chắn này dẫn đến việc vị Trưởng lão chủ tọa, ngài
Ðại Ca Diếp (Maha Kashyapa) đề nghị rằng lần kết tập này giữ lại
toàn bộ các giới luật mà không có sự sửa đổi nào. Sự kiện rất có ý
nghĩa này cho thấy rằng vấn đề giới luật đã được bàn cải trong Hội
nghị Kết tập lần thứ nhứt. Việc này cũng được xem là vấn đề chánh
trong Hội nghị Kết tập lần thứ hai.
- Trang 128. Theo
các điều ghi lại của Hội đồng Kết tập lần I, ta được biết câu
chuyện của một vị sư có tên là Purana. Ông đến Rajagriha lúc Hội
nghị sắp kết thúc các cuộc bàn cãi. Các nhà tổ chức mời ông tham
dự vào những giai đoạn cuối của Hội nghị nhưng ông từ chối, nói
rằng ông thích nhớ nghĩ đến lời dạy của đức Phật hơn vì ông đã
được nghe đến nó từ chính đức Phật. Sự kiện có ý nghĩa này cho
thấy là thời ấy cũng đã có những người thích duy trì một truyền
thống độc lập để ghi nhớ Phật Pháp mà chính họ đã được nghe từ đức
Phật. Cả hai giai đoạn này cho thấy mức độ tự do tư tưởng đã có từ
thời của cộng đồng Phật giáo cổ đại.
- Bây giờ chúng
ta hãy nhìn vào tài liệu của Hội đồng Kết tập lần II được tổ chức
khoảng 100 năm sau đó. Tại Hội nghị này, vấn đề bao trùm cuộc
tranh luận là Luật (Vinaya). Một số tu sĩ đã dùng một vài lối thực
hành mà các vị tu sĩ trưởng lão cho rằng đi quá giới luật của tu
viện. Ðã có 10 lối thực hành, như mang muối trong sừng rỗng được
xem như phạm luật cấm tích trữ đồ ăn; xin phép được hành động sau
khi hành động rồi; chấp nhận vàng bạc được xem là phạm vào luật
cấm tích tụ tài sản. Các vị tu sĩ phạm lỗi bị tuyên bố là vi phạm
giới luật và bị khiển trách. Một lần nữa lập trường bảo thủ của Ca
Diếp (Kashyapa) được các vị Trưởng Lão tại Hội nghị chấp nhận, và
quả thật các giới luật trong tu viện vẫn được giữ gần như không
thay đổi trong mấy thế kỷ, dù đã có nhiều sự biến đổi thực sự
trong việc tu tập.
- Trang 129. Rõ
ràng là có sự đễ dàng hơn về giới luật. Những năm sau kỳ Kết tập
lần II đã cho thấy sự phát triển của nhiều trường phái riêng biệt
như phái Ðại chúng bộ (Maha Sanghikas), phái mà một số người xem
như là gốc của Ðại thừa, của phái Ðộc tử bộ (Vatsiputriyas) và các
phái khác. Kết quả là, vào thời kỳ Hội nghị Kết tập lần III, được
tổ chức vào thời vua Ashoka, thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, đã có ít
nhất 18 trường phái, mỗi trường phái đều có giáo thuyết và giới
luật riêng của họ.
- Hai trường phái
nổi bật trong cuộc bàn thảo tại kỳ Kết tập lần III là trường phái
thuộc thuyết phân tích tức Phân bộ (Vibhaivavadins) và trường phái
thuộc thuyết đa nguyên thực tế tức Nhất thiết hữu bộ
(Sarvastivadins). Hội nghị đã quyết định theo trường phái thứ nhứt
và chính các quan điểm của trường phái này đã được đem đi Sri
Lanka (đi về phía Nam tức Nam truyền) bởi các sứ giả của vua
Ashoka, mà người hướng dẫn là con trai ông, tức Mahendra. Ở nơi
đó, mọi người biết đến nó là Phật giáo Nguyên thỉ (Theravada). Còn
những người thừa kế của nhóm Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada), tức
nhóm đa nguyên thực tế, hầu hết di dân đến Kashmir ở miền tây bắc
Ấn độ. Trường phái này trở nên phổ biến nhờ vào con đường của các
bậc theo hạnh Bồ tát.
- Tại một Hội
nghị khác nữa, được tổ chức trong thời đại vua Kanishka trong thế
kỷ thứ I, 2 trường phái quan trọng hơn đã nổi lên là phái Kinh
lượng bộ (Vaibhashikas) và Thuyết độ bộ (Sautrantikas). Hai phái
này có lập trường khác nhau về tính chất xác thật của Vi diệu pháp
(Abhidharma) tức Kinh điển Phật giáo về Thuyết Phân tích. Nhóm
kinh lượng bộ cho rằng Vi diệu Pháp được dạy bởi đức Phật, còn
nhóm Thuyết độ bộ cho rằng không.
- Vào lúc này,
theo phái Bắc truyền (Ðại thừa) cho chúng ta biết, một số Hội nghị
đã được triệu tập để biên soạn các kinh điển của truyền thống Bắc
truyền (Ðại thừa), lúc ấy đã được đồn rằng là rất nhiều. Ở miền
bắc và tây nam Ấn độ cũng như tại Nalanda nước Magadha, Bắc truyền
(Ðại thừa) đã được truyền dạy. Người ta tin rằng nhiều văn bản
quan trọng của Bắc truyền đã được kể lại bởi đức Phật Di Lặc
(Maitreya) và các chư Bồ tát thế gian hoặc được bảo tồn bởi các ác
thần dưới âm ty cho đến khi được các vị đại sư Bắc truyền khám phá
ra, như Bồ tát Long thọ (Nagarjuna) chẳng hạn.
- Trang 130. Sự
xuất hiện của tất cả những trường phái, mà mỗi trường phái đều có
riêng văn bản của họ về giáo pháp của đức Phật, rõ ràng chứng tỏ
sự đa dạng rộng rãi của Phật giáo có từ lúc Tây lịch bắt đầu. Mặc
dầu có khác nhau về vấn đề tính chất xác thực của các bản văn và
giáo lý, nhưng các trường phái Phật giáo vẫn tiếp tục thừa nhận
chung là Phật tử. Một ngoại lệ đặc biệt cho việc này là phái Ðộc
tử bộ (Vatsiputriyas). Nhóm này vì dính chặt với quan niệm ‘cá
tính chủ yếu’ đã bị các trường phái khác cho là dị giáo.
- Sự thành hình
các kinh điển ở Ấn độ và Tích lan hiện còn tồn tại bằng chữ viết
cho tất các trường phái, được các học giả đồng chấp nhận là thuộc
về thời kỳ khá trể. Giáo pháp Bắc truyền, cũng như giáo pháp của
các trường phái khác, bao gồm Nam truyền, đã bắt đâu xuất hiện
dưới hình thức chữ viết hơn 500 năm sau thời của đức Phật. Chúng
ta biết chắc chắn rằng kinh điển Nam truyền, được ghi lại bằng
tiếng Pali, một ngôn ngữ bản địa thời cổ Ấn độ, đã được biên soạn
vào giữa thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Các kinh Bắc truyền tối cổ,
như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh Bát Nhã Ba la mật đã được cho
là xuất hiện không quá thế kỷ thứ I Tây lịch. Nói tóm lại, các
kinh điển bằng chữ viết của phái Nam truyền và Bắc truyền có
khoảng cùng một thời gian.
- Sau lần nhập
diệt của đức Phật, quan điểm của các vị trưởng lão đã chi phối đời
sống Phật giáo. Nhưng vào khoảng thế kỷ thứ nhứt Tây lịch, sự bất
mãn về lý tưởng A la hán (mục tiêu của vị này là hoàn thành tự do
cá nhân) đã lớn mạnh rõ rệt trong các cộng đồng lương cũng như
giáo. Những người theo Phật giáo phải chọn giữa hai lý tưởng khác
nhau--A la hán quả hay Phật quả.
- Trang 131.
Trong khi vị A la hán tương lai chú trọng vào việc được tự do cho
vị ấy thì Bồ tát hay Phật tương lai buộc phải hoàn thành Giác ngộ
nhân danh tất cả chúng sanh.
- Cái cốt lõi của
ý niệm cho cuộc đời tôn giáo Bắc truyền (Ðại thừa) là lòng từ bi
với tất cả sinh vật. Quả thật với ý nghĩa này chúng ta mới hiểu sự
ưa thích càng lúc càng tăng của phái Bắc truyền. Ta sẽ ít ngạc
nhiên nếu có nhiều vị Phật tử thuần thành chọn theo gương của
Phật, người có lòng từ bi và trí huệ vô hạn, chứ không theo các vị
đại đệ tử nổi tiếng của Ngài, như các vị trưởng lão và A la hán,
những người mà gần hết cuộc đời sống khổ hạnh và biệt lập. Nói tóm
lại, phái Bắc truyền, với một triết lý sâu xa, lòng từ bi phổ biến
và việc sử dụng khéo léo sự phong phú của các phương tiện, đã
nhanh chóng trở nên hấp dẫn đối với nhưỡng người ủng hộ nhiệt tình
không chỉ ở Ấn độ, mà còn ở những miền đất mới của Phật giáo thuộc
miền Trung Á .
- Trang 131. Tôi
xin kết luận Chương này bằng cách bỏ ra chút ít thời gian để so
sánh một vài ý kiến từ kinh điển Nam truyền với vài đặc điểm Bắc
truyền xuất hiện trong các bản văn Ðại thừa như Kinh Pháp Hoa,
Kinh Bát nhã Ba la mật và Kinh Lăng già. Người ta thường quên rằng
là không chỉ có nhiều bài Kinh Luận gần như giống nhau thuộc cả
hai loại kinh sách, mà còn có các dấu vết Bắc truyền trong kinh
sách Nam truyền như tính chất siêu thế gian của đức Phật, như các
học thuyết về tánh không--cùng bản chất sáng tạo và minh bạch của
cái tâm.
- Chẳng hạn,
trong kinh sách Nam truyền, ta thấy đức Phật hay nói đến ông không
bằng cái tên riêng mà bằng tên Như Lai (Tathagata), hay Như Như
(không do đâu lại, cũng không đi đâu) hay Thật Tướng (thường trụ,
chẳng biến đổi). Tuy thế, đức Phật được cho là có quyền lực tỏa ra
giúp mở mang trí tuệ các sinh vật. Những đoạn văn này chứa đựng
trong kinh sách Nam truyền, gợi lên tính siêu việt, siêu thế gian
và không tài nào nhận ra của đức Phật, một ý tưởng rất quan trọng
đối với phái Bắc truyền (Ðại thừa). Cũng theo kinh sách Nam
truyền, đức Phật ca tụng tánh không với những từ ngữ cao nhất, gọi
nó là sâu sắc và ở ngoài thế giới. Ông nói rằng sắc, thọ và những
cái tiếp theo là huyễn, bào. Các hiện tượng tự chúng là vô tướng.
Chúng là những lừa bẫy không thật. Ðây là một đề mục đã được nói
và nói một cách tường tận trong văn chương Bắc truyền Tâm kinh Bát
nhã Ba la mật.
- Trang132. Một
lần nữa, theo kinh sách Nam truyền, đức Phật nói rằng vô minh và
tưởng tượng có trách nhiệm cho sự xuất hiện của thế giới. Ðể chứng
minh điểm này, Phật ám chỉ đến chuyện ngụ ngôn của Vị Á thánh
Vepachitta người bị buộc ràng h
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 14
- (Trang 125 - 132.)
- Nguồn gốc Bắc
truyền (Ðại thừa)
- The Origins of
the Mahayana Tradition.
- ~~~~~~~
- Phải nói ngay
từ đầu rằng, với sự quá rộng rãi của phái Bắc truyền (Ðại thừa),
chúng ta không hy vọng gì hơn là chỉ giới thiệu được các khuynh
hướng chính yếu của nó trong khoảng một vài chương ngắn ngủi.
Không cần phải xét đến các khuynh hướng cá nhân hay theo sát bất
cứ tông phái nào của Phật giáo, chúng ta phải nhận rằng phái Bắc
truyền (Ðại thừa) đã đóng góp rất nhiều vào tư tưởng và văn hóa
của Phật giáo. Nó đã tạo ra một rừng văn học siêu việt, vĩ đại,
nhiều tác phẩm nghệ thuật và các kỷ thuật khác nhau cho việc phát
triển cá tính con người. Nhiều quốc gia khắp Á châu đã được phái
Bắc truyền (Ðại thừa) ảnh hưởng sâu sắc. Các học giả ngày nay tuy
không quan tâm đến nó nhiều, nếu so sánh với phái Nam truyền (Tiểu
thừa), nhưng hiện cũng có một số người rất chú ý vào nền văn học,
triết lý và vào con đường đi của chư Bồ tát. Vì thế với tám chương
sau, chúng ta hãy xét dến các nguồn gốc và sự phát triển của phái
Bắc truyền (Ðại thừa).
- Bắt đầu bằng
việc xét đến nguồn gốc của phái Bắc truyền (Ðại thừa) là bởi vì
tôi tin rằng nếu chúng ta không hiểu và không đánh giá đúng mức
các lý do tại sao truyền thống này phát sinh--tức cái hạt giống
trong mảnh đất nguyên thủy của tín ngưỡng Phật giáo--thì thật là
điều khó khăn cho chúng ta để thấy phái Bắc truyền (Ðại thừa) từ
một quan điểm khách quan. Ðầu tiên tôi xin chú mục ngay vào chính
thời kỳ đầu tiên thiết lập tín ngưỡng Phật giáo, tức là vào chính
cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
- Ðức Thích Ca đã
dạy trong 45 năm cho vô số các sinh vật tại nhiều nơi trong vùng
trung tâm đông bắc Ấn độ. Các sinh vật không những là mọi người
trong các tầng lớp xã hội, mà còn cả thú vật và các siêu nhân như
thần thánh của các cõi trời bên trên và các cõi âm ty phía dưới.
Các tông phái Phật giáo đã thừa nhận rằng đức Phật thực hiện được
nhiều phép lạ khác nhau một cách phi thường, không dễ hiểu được
đối với các sinh vật đã giác ngộ. Phật không phải là người cũng
không phải là thánh như chính Ngài đã tự nhận. Nếu không phải là
thánh, ông chắc chắn là bậc siêu phàm, được tán thán và siêu thế
gian, vì ông đã hiện hữu từ vô số kiếp. Thật vậy, các Phật tử tin
rằng Phật vĩ đại hơn bất cứ vị thánh nào qua hạnh nguyện cùng các
hoạt động từ tâm và bao la của ngài. Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm
gương bằng sự nghiệp riêng của ông mà con người đều có thể làm
bằng hoặc hơn. Mục tiêu của sự nghiệp này là Giác ngộ và Phật quả
và cái cách làm là cách của các Bồ tát. Phật nói đến mục tiêu của
Giác ngộ và Phật quả cũng như về mục tiêu Niết bàn. Chính ông đã
chỉ dạy trọn vẹn cách đạt được mục tiêu Phật quả bằng cách luyện
tập và hoàn thành Hạnh Bồ tát trong nhiều câu chuyện của những lần
hiện hữu của ông trước đây.
- Trang 126. Tùy
theo khả năng và nguyện vọng riêng của từng người, Phật chấp nhận
cho việc tự thích nghi giáo lý của ông. Trong khi không rời bỏ các
công hạnh chính yếu về giới đức và trí huệ, Phật đã cho phép rất
nhiều cơ hội để mỗi cá nhân được biểu lộ và hoàn thành. Ông khuyến
khích sự tham vấn tự do trong hàng thế tục và tính dân chủ trong
cộng đồng tu viện. Ðiều này được thấy rõ ràng trong giáo lý của
ông. Chẳng hạn, có một giáo thuyết nỗi tiếng được nói rõ bằng lời
khi Phật khuyên người Kalamas. Ông nói rằng người ta không nên tùy
thuộc vào các phương tiện thứ hai để kiểm tra tính chất xác thực
của các sự vật, mà phải thử nghiệm sự xác thực đó trong ánh sáng
kinh nghiệm cá nhân riêng của người đó và chỉ khi đó mới chấp nhận
chúng là sự thật.
- Cũng với một ý
nghĩa tương tự, ông nói rằng người ta nên chứng nghiệm sự thật
dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn quán sát, lý luận và tính tự
thích nghi, cùng một cách của người khôn ngoan thử nghiệm sự thuần
chất của vàng bằng cách cắt, chà và nun nóng nó. Một lần nữa, về
cuối cuộc đời sự nghiệp của ông, Phật đã bảo các môn đệ hãy tự
thắp đuốc lên, tự soi sáng đường đi với lý lẽ riêng của mình.
Những lời cuối cùng của ông là, ‘‘Các vật kết hợp nhau bị thay đổi
là chuyện thường, vậy hãy tìm ra câu trả lời cho sự giải thoát của
bạn bằng sự cần mẫn.’’
- Trang 127. Ðức
Phật cũng khuyến khích sự tự lực đối với những cộng đồng tu sĩ có
liên quan tới kỷ luật tu viện. Ông đã bảo Ananda rằng, sau khi ông
tịch diệt, các thành viên Giáo hội Tăng già được tự ý hủy bỏ một
số luật nếu giới luật tu viện thấy cần thay đổi. Một điều có ý
nghĩa nữa là Phật cũng từ chối chỉ định người kế thừa để tiếp tục
lãnh đạo cộng đồng Phật giáo sau khi ông chết. Tất cả những sự
kiện này đã chứng tỏ có một không khí đặc biệt hiện hữu trong cộng
đồng Phật giáo tối cổ thời đó: một không khí vấn đáp tự do, dân
chủ và độc lập.
- Sau ngày Phật
tịch, những điều dạy của ông được bảo tồn theo cung cách truyền
miệng, được truyền thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác, duy trì
trong trí nhớ tập thể của họ. Biết đọc biết viết là một đặc ân của
thành phần tinh hoa của Ấn độ lúc đó. Thêm một dấu hiệu hiếm thấy
về dân chủ trong truyền thống Phật giáo là các hình thức dạy dỗ có
tính cách văn chương bị bỏ quên từ lâu. Nhiều người không biết
chữ, vì thế truyền miệng là phương tiện bảo tồn và phổ biến Pháp
Phật. Trong 500 năm giáo lý được bảo tồn bằng lời nói, một số hội
nghị kết tập được tổ chức, hệ thống hóa và quyết định các văn bản
giáo huấn kinh điển được mọi người chấp thuận và kỷ luật tu viện
(Luật: Vinaya). Chắc chắn đã có 3 và có thể hơn 6 lần kết tập
trong thời kỳ này tại nhiều nơi khác nhau trên Ấn độ. Kết quả là
có sự xuất hiện của rất nhiều trường phái mà các kinh điển và các
giới luật được thay đổi khác nhau nhiều hơn hay ít hơn.
- Hội nghị Kết
tập lần thứ nhứt chắc chắn đã được tổ chức lập tức sau khi đức
Phật tịch diệt tại Rajagriha thủ đô nước Magadha. Ở đó, hội nghị
đã được yêu cầu là có nên tiến hành bải bỏ các giới luật ít quan
trọng hơn không, như Phật đã căn dặn ngài A nan (Ananda) là Giáo
Hội Tăng già có thể làm như vậy nếu thấy cần. Rủi thay, Ananda đã
quên hỏi Phật là giới luật nào là giới luật kém quan trọng hơn.
Ðiều không chắc chắn này dẫn đến việc vị Trưởng lão chủ tọa, ngài
Ðại Ca Diếp (Maha Kashyapa) đề nghị rằng lần kết tập này giữ lại
toàn bộ các giới luật mà không có sự sửa đổi nào. Sự kiện rất có ý
nghĩa này cho thấy rằng vấn đề giới luật đã được bàn cải trong Hội
nghị Kết tập lần thứ nhứt. Việc này cũng được xem là vấn đề chánh
trong Hội nghị Kết tập lần thứ hai.
- Trang 128. Theo
các điều ghi lại của Hội đồng Kết tập lần I, ta được biết câu
chuyện của một vị sư có tên là Purana. Ông đến Rajagriha lúc Hội
nghị sắp kết thúc các cuộc bàn cãi. Các nhà tổ chức mời ông tham
dự vào những giai đoạn cuối của Hội nghị nhưng ông từ chối, nói
rằng ông thích nhớ nghĩ đến lời dạy của đức Phật hơn vì ông đã
được nghe đến nó từ chính đức Phật. Sự kiện có ý nghĩa này cho
thấy là thời ấy cũng đã có những người thích duy trì một truyền
thống độc lập để ghi nhớ Phật Pháp mà chính họ đã được nghe từ đức
Phật. Cả hai giai đoạn này cho thấy mức độ tự do tư tưởng đã có từ
thời của cộng đồng Phật giáo cổ đại.
- Bây giờ chúng
ta hãy nhìn vào tài liệu của Hội đồng Kết tập lần II được tổ chức
khoảng 100 năm sau đó. Tại Hội nghị này, vấn đề bao trùm cuộc
tranh luận là Luật (Vinaya). Một số tu sĩ đã dùng một vài lối thực
hành mà các vị tu sĩ trưởng lão cho rằng đi quá giới luật của tu
viện. Ðã có 10 lối thực hành, như mang muối trong sừng rỗng được
xem như phạm luật cấm tích trữ đồ ăn; xin phép được hành động sau
khi hành động rồi; chấp nhận vàng bạc được xem là phạm vào luật
cấm tích tụ tài sản. Các vị tu sĩ phạm lỗi bị tuyên bố là vi phạm
giới luật và bị khiển trách. Một lần nữa lập trường bảo thủ của Ca
Diếp (Kashyapa) được các vị Trưởng Lão tại Hội nghị chấp nhận, và
quả thật các giới luật trong tu viện vẫn được giữ gần như không
thay đổi trong mấy thế kỷ, dù đã có nhiều sự biến đổi thực sự
trong việc tu tập.
- Trang 129. Rõ
ràng là có sự đễ dàng hơn về giới luật. Những năm sau kỳ Kết tập
lần II đã cho thấy sự phát triển của nhiều trường phái riêng biệt
như phái Ðại chúng bộ (Maha Sanghikas), phái mà một số người xem
như là gốc của Ðại thừa, của phái Ðộc tử bộ (Vatsiputriyas) và các
phái khác. Kết quả là, vào thời kỳ Hội nghị Kết tập lần III, được
tổ chức vào thời vua Ashoka, thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, đã có ít
nhất 18 trường phái, mỗi trường phái đều có giáo thuyết và giới
luật riêng của họ.
- Hai trường phái
nổi bật trong cuộc bàn thảo tại kỳ Kết tập lần III là trường phái
thuộc thuyết phân tích tức Phân bộ (Vibhaivavadins) và trường phái
thuộc thuyết đa nguyên thực tế tức Nhất thiết hữu bộ
(Sarvastivadins). Hội nghị đã quyết định theo trường phái thứ nhứt
và chính các quan điểm của trường phái này đã được đem đi Sri
Lanka (đi về phía Nam tức Nam truyền) bởi các sứ giả của vua
Ashoka, mà người hướng dẫn là con trai ông, tức Mahendra. Ở nơi
đó, mọi người biết đến nó là Phật giáo Nguyên thỉ (Theravada). Còn
những người thừa kế của nhóm Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada), tức
nhóm đa nguyên thực tế, hầu hết di dân đến Kashmir ở miền tây bắc
Ấn độ. Trường phái này trở nên phổ biến nhờ vào con đường của các
bậc theo hạnh Bồ tát.
- Tại một Hội
nghị khác nữa, được tổ chức trong thời đại vua Kanishka trong thế
kỷ thứ I, 2 trường phái quan trọng hơn đã nổi lên là phái Kinh
lượng bộ (Vaibhashikas) và Thuyết độ bộ (Sautrantikas). Hai phái
này có lập trường khác nhau về tính chất xác thật của Vi diệu pháp
(Abhidharma) tức Kinh điển Phật giáo về Thuyết Phân tích. Nhóm
kinh lượng bộ cho rằng Vi diệu Pháp được dạy bởi đức Phật, còn
nhóm Thuyết độ bộ cho rằng không.
- Vào lúc này,
theo phái Bắc truyền (Ðại thừa) cho chúng ta biết, một số Hội nghị
đã được triệu tập để biên soạn các kinh điển của truyền thống Bắc
truyền (Ðại thừa), lúc ấy đã được đồn rằng là rất nhiều. Ở miền
bắc và tây nam Ấn độ cũng như tại Nalanda nước Magadha, Bắc truyền
(Ðại thừa) đã được truyền dạy. Người ta tin rằng nhiều văn bản
quan trọng của Bắc truyền đã được kể lại bởi đức Phật Di Lặc
(Maitreya) và các chư Bồ tát thế gian hoặc được bảo tồn bởi các ác
thần dưới âm ty cho đến khi được các vị đại sư Bắc truyền khám phá
ra, như Bồ tát Long thọ (Nagarjuna) chẳng hạn.
- Trang 130. Sự
xuất hiện của tất cả những trường phái, mà mỗi trường phái đều có
riêng văn bản của họ về giáo pháp của đức Phật, rõ ràng chứng tỏ
sự đa dạng rộng rãi của Phật giáo có từ lúc Tây lịch bắt đầu. Mặc
dầu có khác nhau về vấn đề tính chất xác thực của các bản văn và
giáo lý, nhưng các trường phái Phật giáo vẫn tiếp tục thừa nhận
chung là Phật tử. Một ngoại lệ đặc biệt cho việc này là phái Ðộc
tử bộ (Vatsiputriyas). Nhóm này vì dính chặt với quan niệm ‘cá
tính chủ yếu’ đã bị các trường phái khác cho là dị giáo.
- Sự thành hình
các kinh điển ở Ấn độ và Tích lan hiện còn tồn tại bằng chữ viết
cho tất các trường phái, được các học giả đồng chấp nhận là thuộc
về thời kỳ khá trể. Giáo pháp Bắc truyền, cũng như giáo pháp của
các trường phái khác, bao gồm Nam truyền, đã bắt đâu xuất hiện
dưới hình thức chữ viết hơn 500 năm sau thời của đức Phật. Chúng
ta biết chắc chắn rằng kinh điển Nam truyền, được ghi lại bằng
tiếng Pali, một ngôn ngữ bản địa thời cổ Ấn độ, đã được biên soạn
vào giữa thế kỷ thứ I trước Tây lịch. Các kinh Bắc truyền tối cổ,
như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh Bát Nhã Ba la mật đã được cho
là xuất hiện không quá thế kỷ thứ I Tây lịch. Nói tóm lại, các
kinh điển bằng chữ viết của phái Nam truyền và Bắc truyền có
khoảng cùng một thời gian.
- Sau lần nhập
diệt của đức Phật, quan điểm của các vị trưởng lão đã chi phối đời
sống Phật giáo. Nhưng vào khoảng thế kỷ thứ nhứt Tây lịch, sự bất
mãn về lý tưởng A la hán (mục tiêu của vị này là hoàn thành tự do
cá nhân) đã lớn mạnh rõ rệt trong các cộng đồng lương cũng như
giáo. Những người theo Phật giáo phải chọn giữa hai lý tưởng khác
nhau--A la hán quả hay Phật quả.
- Trang 131.
Trong khi vị A la hán tương lai chú trọng vào việc được tự do cho
vị ấy thì Bồ tát hay Phật tương lai buộc phải hoàn thành Giác ngộ
nhân danh tất cả chúng sanh.
- Cái cốt lõi của
ý niệm cho cuộc đời tôn giáo Bắc truyền (Ðại thừa) là lòng từ bi
với tất cả sinh vật. Quả thật với ý nghĩa này chúng ta mới hiểu sự
ưa thích càng lúc càng tăng của phái Bắc truyền. Ta sẽ ít ngạc
nhiên nếu có nhiều vị Phật tử thuần thành chọn theo gương của
Phật, người có lòng từ bi và trí huệ vô hạn, chứ không theo các vị
đại đệ tử nổi tiếng của Ngài, như các vị trưởng lão và A la hán,
những người mà gần hết cuộc đời sống khổ hạnh và biệt lập. Nói tóm
lại, phái Bắc truyền, với một triết lý sâu xa, lòng từ bi phổ biến
và việc sử dụng khéo léo sự phong phú của các phương tiện, đã
nhanh chóng trở nên hấp dẫn đối với nhưỡng người ủng hộ nhiệt tình
không chỉ ở Ấn độ, mà còn ở những miền đất mới của Phật giáo thuộc
miền Trung Á .
- Trang 131. Tôi
xin kết luận Chương này bằng cách bỏ ra chút ít thời gian để so
sánh một vài ý kiến từ kinh điển Nam truyền với vài đặc điểm Bắc
truyền xuất hiện trong các bản văn Ðại thừa như Kinh Pháp Hoa,
Kinh Bát nhã Ba la mật và Kinh Lăng già. Người ta thường quên rằng
là không chỉ có nhiều bài Kinh Luận gần như giống nhau thuộc cả
hai loại kinh sách, mà còn có các dấu vết Bắc truyền trong kinh
sách Nam truyền như tính chất siêu thế gian của đức Phật, như các
học thuyết về tánh không--cùng bản chất sáng tạo và minh bạch của
cái tâm.
- Chẳng hạn,
trong kinh sách Nam truyền, ta thấy đức Phật hay nói đến ông không
bằng cái tên riêng mà bằng tên Như Lai (Tathagata), hay Như Như
(không do đâu lại, cũng không đi đâu) hay Thật Tướng (thường trụ,
chẳng biến đổi). Tuy thế, đức Phật được cho là có quyền lực tỏa ra
giúp mở mang trí tuệ các sinh vật. Những đoạn văn này chứa đựng
trong kinh sách Nam truyền, gợi lên tính siêu việt, siêu thế gian
và không tài nào nhận ra của đức Phật, một ý tưởng rất quan trọng
đối với phái Bắc truyền (Ðại thừa). Cũng theo kinh sách Nam
truyền, đức Phật ca tụng tánh không với những từ ngữ cao nhất, gọi
nó là sâu sắc và ở ngoài thế giới. Ông nói rằng sắc, thọ và những
cái tiếp theo là huyễn, bào. Các hiện tượng tự chúng là vô tướng.
Chúng là những lừa bẫy không thật. Ðây là một đề mục đã được nói
và nói một cách tường tận trong văn chương Bắc truyền Tâm kinh Bát
nhã Ba la mật.
- Trang132. Một
lần nữa, theo kinh sách Nam truyền, đức Phật nói rằng vô minh và
tưởng tượng có trách nhiệm cho sự xuất hiện của thế giới. Ðể chứng
minh điểm này, Phật ám chỉ đến chuyện ngụ ngôn của Vị Á thánh
Vepachitta người bị buộc ràng hay được tháo gỡ tùy tình trạng tư
tưởng (thức) của vị ấy. Tuy vậy, tính chất độc đáo mới mẻ của thức
(consciousness) chiếu sáng như nữ trang, tự bản chất là thuần nhất
và không nhiễm ô. Những ý tưởng này được phát triển trong các kinh
Bắc truyền như Kinh Lăng già chẳng hạn. Chúng chính là nền móng
căn bản của quan điểm Bắc truyền về cái bản tâm .
- Vì thế các nguồn gốc của phái Bắc
truyền có thể được tìm thấy trong những giai đoạn cổ đại nhất của
Phật giáo và trong sự nghiệp riêng của đức Phật. Năm trăm năm sau
lần nhập diệt của Phật, ta đã chứng kiến được sự phát sinh các
tông phái cũng như các lời giải thích khác nhau. Dù có khác đi,
tất cả cũng đều dựa vào giáo pháp nguyên thủy, sâu xa và được
chuyển biến vô hạn của đức Phật. Vào thế kỷ thứ nhứt Tây lịch, sự
thành lập của phái Bắc truyền (Ðại thừa) gần như hoàn tất. Hầu hêt
các kinh điển chính của họ đều hình thành. Chúng ta sẽ thảo luận
ba Kinh chánh trong rừng kinh điển vào những chương sắp tới.
--o0o--
|
|