-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Hạnh
Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
- Ý nghĩa thực
chứng của
Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
- Sau khi Thái tử
Sĩ-Đạt-Ta rời bỏ cung điện nguy nga giã từ vợ đẹp con thơ đi tìm
chân lý, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách nguy khó.
Nhưng mục đích chuyến đi của Ngài là tìm cho bằng được một lối
thoát để giải phóng cho mình và chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử
luân hồi, nên Ngài không quản khó khăn hiểm trở. Không tìm được
Chân Thiện Mỹ nơi các thầy Bà La Môn, Ngài cương quyết thực hành
phương pháp khổ hạnh. Chưa một ai trong lịch sử nhân loại kiên trì
khổ hạnh như Ngài. Ngay cả tuyệt thực, tiết chế hỏi thở cho đến
khi thân thể hao mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng
không lay chuyển được ý chí sắt đá của Ngài.
- Mặc dù ý chí
kiên cường nhưng xác thân đã quá kiệt quệ. Một hôm Ngài ngã quị
bên dòng sông Ni Liên Thiền (Neranjarà). Khi tỉnh dậy, Ngài mới
nhận ra rằng con đường khổ hạnh đến tột cũng chỉ là hành hạ thân
xác, mà trí tuệ lại càng thêm thoái hóa. Mặc dù không lợi dưỡng,
nhưng cần phải có một xác thân tráng kiện thì tâm hồn mới lành
mạnh, trí tuệ mới minh mẫn. Như một nhạc công sử dụng đàn, nếu dây
lên quá căng thì sẽ đứt, nhưng nếu quá chùng thì đàn sẽ không
thành tiếng, chỉ có dây lên vừa phải thì tiếng đàn mới thanh tao.
Cũng vậy, chỉ có con đường trung đạo, không lợi dưỡng, không khổ
hạnh ép xác mới đưa đến cứu cánh giải thoát.
- Nghĩ như thế,
Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì trai khất
thực. Sau khi thọ thực, sức khoẻ được phục hồi; Ngài ngồi tĩnh tọa
dưới cội cây Bồ đề trên một nắm cỏ khô và tham thiền nhập định.
Nhờ năng lực an trụ của chỉ thiền, như một bình nước đã được lắng
trong không còn một chút bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn khinh an
thư thái và sáng suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó, dần dần
Ngài hồi tưởng đến những kiếp sống quá khứ của mình. Ngài nhớ rõ
trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu, thuộc giai cấp nào,
vui khổ ra sao và sanh sanh tử tử trong những cảnh giới nào. Tất
cả chi tiết trong các kiếp sống trầm luân của Ngài đã hiện lên
trong ký ức rõ ràng như một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Vào canh
một, khi đang chú tâm quan sát những hiện tượng sinh diệt của kiếp
sống, bỗng nhiên Ngài chứng ngộ được tuệ giác đầu tiên tức là
Túc Mạng Minh (Pubbe nivàsànussàti Nàna).
- Kế đến Ngài suy
xét đến kiếp sống thăng trầm của chúng sanh trong vòng sanh tử
luân hồi để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho người thì sang giàu,
kẻ khốn khổ, người thông minh, kẻ ngu dốt và vì sao chúng sanh vẫn
mãi đắm chìm trong bể sanh tử không thể thoát ra khỏi định luật vô
thường, khổ não. Nhờ trí tuệ sáng suốt, trong canh hai Ngài đã tìm
ra giải đáp và chứng ngộ tuệ giác thứ nhì là Thiên Nhãn
Minh (Cutùpapàta Nàna) tức là trí tuệ thấu triệt nguyên
nhân sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh. Ngài biết rằng do nơi
nghiệp thiện và bất thiện phát xuất từ thân, khẩu, ý mà chúng sanh
sinh trưởng trong những cảnh giới khác nhau, trình độ khác nhau.
- Đến canh ba,
Ngài lại dùng trí tuệ soi xét và tìm kiếm phương pháp nào khả dĩ
chấm dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức rằng:
"Đây là khổ, là phiền não và ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau khổ,
phiền não và ô nhiễm. Đây là sự diệt tận mọi khổ đau, ô nhiễm. Và
đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau."
Nhận thức như thế, tâm Ngài đã được giải thoát ra khỏi dục lậu,
hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu. Từ đó dòng sinh tử luân hồi đã
hoàn toàn chấm dứt đối với Ngài. Đó chính là tuệ giác thứ ba mà
Ngài đã chứng ngộ tức là Lậu Tận Minh (savakkhaya
Nàna) vậy.
- Khi cuộc chiến
thắng vinh quang vừa viên mãn, cả tam thiên đại thiên đều rúng
động, hào quang ngũ sắc từ thân Ngài chiếu khắp tam giới. Chư
thiên trong mười muôn triệu thế giới ta bà đều đồng thanh tung hô
Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật và Thế Tôn.
- Quả thật cuộc
chiến thắng vẻ vang của Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta có một ảnh hưởng sâu xa
đối với nhân loại. Chúng ta không lấy làm lạ khi nhiều người tôn
Ngài là bậc vĩ nhân, hoặc xem Ngài như một nhà đại cách-mạng, giải
phóng con người ra khỏi hai thứ xiềng xích nô lệ: tinh thần nô lệ
thần linh, thể chất nô lệ giai cấp xã hội.
- Chúng ta thử
đưa ra vài nhận xét về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
-
1. Bài học Hy Sinh và Kiên Trì:
Sức chịu đựng gian khổ, Đức tính nhẫn nại bất thối chuyển và ý chí
tinh tấn vô tiền khoáng hậu của Ngài quả là một bài học vô giá đối
với những ai muốn noi gương Ngài đi tìm chân lý. Mặt khác, đức
tính hy sinh của Ngài quả thật vô bờ bến. Mấy ai dám từ bỏ tiền
tài danh vọng để đổi lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế mà Thái Tử
đã lìa bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy của một vị
Chuyển Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường chông gai hiểm
trở, miễn là thực hiện được lý tưởng tự giác giác tha.
-
2. Bài học Trung Đạo: Thời bấy
giờ ai cũng tin tưởng rằng thờ phụng thần linh hoặc khổ hạnh ép
xác mới được cứu rỗi. Có người tương đối sáng suốt hơn cho rằng
thân xác là nơi phát xuất những tội lỗi, những ham muốn nhục dục.
Bao lâu không còn nô lệ ở thân xác thì tâm hồn mới được thanh
thoát, do đó họ hành hạ xác thân cho đến khi sức cùng lực tận để
mong thoát khỏi ái dục. Nhưng Đức Phật đã chứng nghiệm rằng khổ
hạnh quá đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể
lành mạnh. Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không thái quá,
không buông lung, mới đưa ta đến cứu cánh giải thoát. Con đường
Trung đạo đó là phương pháp duy nhất để chế ngự thân, khẩu, ý hầu
hướng dẫn hành động, lời nói và tư tưởng theo lẽ chánh.
-
3. Bài học Thực Chứng: Hầu hết
các tôn giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần linh và con
người phải quy phục trước uy quyền thưởng phạt của Thượng đế. Sự
thực chứng của Ngài chứng minh rằng tất cả chúng sanh đều có khả
năng thành Phật. Bất cứ ai kiên trì, nhẫn nại, tinh tấn bất thối
chuyển như Ngài cũng có thể tự mình giải thoát, giác ngộ và trở
thành bậc siêu phàm. Mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn cho mình
một hướng đi và chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình. Trong
sạch hay ô nhiễm, hạnh phúc hay khổ đau, trầm luân hay giải thoát
đều do mình tạo ra. Đây quả là một cuộc cách mạng giải phóng tư
tưởng nô lệ mà trong đó con người phải phục tùng Thượng đế chứ
không thể trở thành Thượng đế của chính mình. Có nô lệ chăng là
con ngừời nô lệ nơi chấp ngã vì đã tự tạo và tự trói buộc mình
trong một thứ xiềng xích Vô Minh, Ái Dục. Từ sự nô lệ đó con người
trở thành phàm phu, thấp hèn. Chừng nào giải phóng ra khỏi những
thằng thúc ấy con người mới được giải thoát và trở thành thánh
nhân, chứ không cần đến một đấng quyền uy cứu rỗi.
- Đức Phật cũng
là một nhà đại cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi Ngài
dạy rằng: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn.
Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ". Ngài chứng
tỏ rằng một người trong giai cấp hạ liệt có thể tự giác và trở
thành toàn thiện. Trái lại, một người trong giai cấp vua chúa hay
Bà La Môn nếu hành động đê tiện, không sáng suốt thì vẫn là kẻ hạ
liệt.
- Chúng ta còn
học được ở sự thực chứng của Ngài bài học "Chiến thắng
được mình là một chiến công oanh liệt". Bên trong mỗi
người đều có một đạo quân rất hùng hậu đang ngự trị đời sống của
họ. Muốn đánh đuổi thứ ngoại xâm đó không phải là dễ, vì giặc
phiền não đã nằm ngay trong những phần sâu kín nhất của tâm hồn
chúng ta và đã trở thành một thứ nội tuyến nguy hiểm mà Albert
Camus gọi là "Kẻ lạ mặt". Hành động của chúng ta hằng ngày bị
chúng chi phối mà không hề hay biết. Khi tỉnh tọa dưới cội cây Bồ
Đề, chính Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta đã đối diện với những đạo binh ma này
và đã hàng phục chúng trước khi trở thành bậc Chánh đẳng Chánh
Giác. Bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha phải rèn
luyện ý chí quật cường và tinh thần dũng cảm để phấn đấu vì
"Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình".
- Cuối cùng,
chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G
Wells sau đây: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản
dị, có lòng nhiệt thành; một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi
đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ
không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyện
hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh
cách phổ thông. Nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân
thời đều tương hợp với giáo lý ấy".
- Và Sri
Radhakrishman cũng nói rằng: "Nơi Đức Phật Cồ Đàm ta nhận thấy một
tinh hoa toàn thiện của người Đông Phương, ảnh hưởng Ngài trong tư
tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay
không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch
sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ
thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử
tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí. Đứng về
phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần
minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng
nhất của lịch sử".
--o0o--
|
|