-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Hạnh
Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
- Vô Thường
-
- Tam Tướng
(Tilakkahana), Vô Thường (Aniccà), Khổ
não (Dukkha) và Vô Ngã (Anattà) là ba
yếu tố căn bản của toàn bộ giáo lý Đức Phật. Thêm vào ba yếu tố
này, một mệnh đề thường được giáo lý đại thừa đề cập đến là "Vạn
Pháp Như Thị". Thực ra mệnh đề này không phải là yếu tố mới mà chỉ
là một hệ luận của ba định lý trên. Cũng vậy khi nói "Tất cả Hữu
Vi Pháp đều Khổ não" (Sabbe sankhàrà dukkhà) chúng ta phải hiểu
rằng mệnh đề này chỉ để nhấn mạnh nguyên lý thứ nhất "Tất cả Hữu
Vi Pháp đều Vô Thường" (Sabbe Sankhàrà Aniccà).
- Lý Vô Thường
không phải là giáo lý duy nhất của Đạo Phật. Vào thế kỷ thứ 6
trước Tây Lịch, một triết gia Hy-Lạp Herakleitos đã nói "Tất cả
đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux) hay
"Mọi vật đều trôi chảy" nghĩa là vạn hữu đều bị chi phối bởi luật
Vô Thường, biến đổi. Về phương diện hiện tượng giới, chân tính của
lý Vô Thường đã được chứng thực một cách hùng hồn qua kinh nghiệm
giác quan của chúng ta.
- "Không có
thực tại. Chỉ có biến đổi. Tình trạng của mọi cá thể đều bất định,
tạm thời và chắc hẳn phải hủy diệt. Trong mỗi sinh cơ bao gồm
những yếu tố vật chất và một chuỗi yếu tố tâm linh liên tục. Chính
sự phối hợp giữa những yếu tố này đã tạo ra cá nhân. Mọi người,
mọi vật và cả Chư Thiên vì thế cũng là tập thành, duyên hợp. Và
trong mỗi cá nhân, sự liên hệ giữa những phần tử tập thành luôn
luôn thay đổi, không bao giờ tồn tại trong hai sát na liên tiếp.
Khi một cá thể vừa mới tập thành thì sự phân tán cũng đã bắt dầu.
Không có một cá thể nào không tập thành, không một tập thành nào
không thay đổi, không một thay đổi nào không dị biến, và không một
dị biến nào lại không phân tán, hủy diệt, chu trình đó không sớm
thì muộn cũng phải hoàn tất" (Rhys Davids).
- Nhưng chúng ta có thể hỏi tại sao
vạn hữu đều vô thường, biến đổi?
- Nên biết rằng
luật Vô Thường phổ quát liên hệ mật thiết với định lý nhân quả,
trong đó sự hình thành phỏng định hủy diệt và sự hủy diệt phỏng
định một sự hình thành khác.
- Như kinh
Màhàparinibbàna (Đại Niết Bàn, Trường Bộ Kinh) dạy: "Cái gì hiện
hữu cũng phải có nguyên nhân, điều kiện và hủy diệt".
- Luật Vô Thường
được biểu thị qua ba phương diện:
- - Vô Thường của kiếp sống
- Vô Thường qua sát na
- Vô Thường trong Pháp hữu vi
-
1. Vô thường trong kiếp sống:
Ngày nay không ai phủ nhận tính cách bất khả hủy diệt của vật
chất. Phật Giáo nhìn nhận vạn pháp tồn tại qua ba thời điểm: quá
khứ, hiện tại và vị lai. Chính kinh Pháp Hoa (Saddharma Pundarìka)
dạy rằng: "Vạn pháp như thị". Về phương diện vũ trụ, thì không có
bắt dầu, không có chấm dứt (vô thủy, vô chung). Thật vậy, khó mà
chấp nhận được rằng "Có" sinh từ "Không", hay "Không" sinh ra từ
"Có". Làm gì có một vật tự sinh mà không do những điều kiện đã có
sẵn, và cũng không thể có một vật đi đến hủy diệt hoàn toàn?
- Tuy vậy, về
phương diện cá thể, không một ai thoát khỏi định luật Vô Thường.
Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức Phật dạy rằng:
- Na antalikkhe na samuddamajjhe
Na pabbatànam vivaram pavissa
Navijjàtì so jagatippadeso
Yatthatthitam nappasaheyya maccu
- "Dù trên
không trung, giữa đại dương hay trong hang sâu núi thẳm, không đâu
trên thế gian này có thể tránh khỏi tử vong".
- Sinh, Lão và Tử
là những bất hạnh lớn lao của kiếp người. Một đời sống được kể là
bắt dầu từ khi mới sinh và trải qua các giai đoạn trưởng thành, dị
biến (bởi bịnh, lão) và cuối cùng chấm dứt bằng cái chết.
- Vào thế kỷ thứ
4, Ngài Asanga (Vô Trước), một vị luận sư đại thừa sáng lập phái
Yogàcàra (Du Già) đã viết trong Trung Quán Luận (Madhyànugama):
- "Vạn pháp
đều tạo thành bởi sự kết hợp giữa nhân và duyên, nên không có tự
tánh, khi sự kết hợp đã bị phân hóa thì chắc chắn phải có sự hủy
diệt. Thân của chúng sanh gồm Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa), và khi
tứ đại dung giải thành nguyên tố thì sự chết sẽ tiếp theo".
-
2. Vô thường qua sát na: Danh
từ sát na (Khana) được dùng để chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi
biến đổi. Theo Abhidhamma Mahàvibhàsa (Đại Trí Luận) những sự biến
đổi của hiện tượng giới được giải thích một cách rõ ràng như sau:
"Vạn pháp luôn luôn biến đổi, không một vật gì có thể tồn tại
trong hai sát na liên tiếp". Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu
ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
- Vào thế kỷ thứ 5, Ngài Phật Âm
(Buddhaghosa) đã viết trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) như
sau:
- "Theo nghĩa
rốt ráo, mỗi sát na của sự sinh tồn rất ngắn ngủi, chớp nhoáng như
một ý niệm phát khởi. Giống như một bánh xe, khi lăn chỉ tiếp xúc
với mặt phẳng tại một điểm, khi dừng cũng chỉ tựa trên một điểm,
cũng vậy mỗi sát na sinh tồn của chúng sanh chỉ tồn tại trong một
tâm niệm, khi tâm niệm chấm dứt, thì đời sống chúng sanh ấy cũng
chấm dứt. Ở quá khứ, chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm quá
khứ chứ không sống trong một tâm niệm hiện tại và vị lai; trong
hiện tại chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm hiện tại, không
sống trong một tâm niệm quá khứ, vị lai; trong vị lai chúng sanh
ấy chỉ sống trong một tâm niệm vị lai chứ không sống trong tâm
niệm quá khứ và hiện tại."
- Như vậy, có một
nguyên động lực nào nhờ đó mọi vật biến đổi hay không? Tất cả xe
cộ chạy được là nhờ dùng một động cỏ, máy xay chạy bằng gió, quả
đất quay quanh trục và quĩ đạo vì ảnh hưởng của nó đối với mặt
trời. Ngay cả một ngón tay của ta cũng không tự nó cử động được.
Vì thế động lực của sự biến đổi, thể hiện theo một công thức gọi
là Tứ-Hữu-Vi-Tướng: "Sanh, Trụ, Dị, Diệt", hay "Thành, Trụ, Hoại,
Không", gọi là Tứ Tướng.
- Theo Nhất Thiết
Hữu Bộ (Sarvastivàda), bốn tính chất của Pháp hữu vi được diễn tả
như sau :
- Trong giai đoạn
hình thành, mọi vật được đưa từ tình trạng quá khứ đến tình trạng
hiện hữu.
- Trong giai đoạn
duy trì, mọi vật được giữ nguyên tình trạng hiện hữu trước khi đi
vào tình trạng vị lai.
- Trong giai đoạn
dị biến, mọi vật trưởng thành và suy vi.
- Trong giai đoạn
hủy diệt, mọi vật bị đưa trở về quá khứ.
- Tất cả mọi vật
thay đổi đều qua bốn tác động trên. Tuy nhiên có một vấn đề đã
được bàn luận sôi nổi trong những thế kỷ sau khi Đức Thế Tôn nhập
Niết Bàn là bốn tính chất sinh, trụ, hoại, diệt xảy ra đồng thời
hay kế tiếp nhau. Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivàda) và Thượng Tọa
Bộ (Theravada) chủ trương đồng thời, trong khi Sautrantika cho là
kế tiếp.
-
3. Vô thường trong pháp Hữu Vi:
Pháp Hữu Vi là tất cả những gì hiện hữu do nhiều nhân và duyên tạo
thành. Trong sự biến đổi của pháp hữu vi, chúng ta có thể chấp
nhận ngay rằng mọi vật đều có sự sinh diệt, nhưng khó mà thấy được
sự sinh diệt đó trong từng giờ, từng phút. Mặc dù mệnh đề "Vạn
Pháp Giai Không" có thể được xem như là kết luận cuối cùng của
định luật vô thường, nhưng đó cũng chính là một cái bẫy nguy hiểm
cho các học giả nghiên cứu Đạo Phật. Các học giả Tây Phương dịch
chữ "Không" (Sunyatà) là "Hư Vô" (Nothingness) hay tệ hơn nữa là
"Hủy Diệt" (Annihilation), và vì thế Mahàsunàtavàda bị gán là "Hư
Vô Luận" (Nihilism). Người Phật Tử phải hiểu "Vạn Pháp Giai Không"
là tất cả các Pháp Hữu Vi trong hiện tượng giới đều biến đổi không
ngừng. Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ), một luận sư đại thừa, đã viết
trong cuốn Madhyamika: "Chính vì 'Không' mà mọi vật trở thành
khả hữu, thiếu nó thì không một vật gì trên thế gian này có thể có
được".
- Nếu vạn hữu
không thường biến chuyển thì làm thế nào có sự tiến hóa và phát
triển? Và nếu cuộc sống cứ tiếp tục giữ nguyên như lúc bắt đầu
không có hoại, diệt thì kết quả và ý nghĩa của nó sẽ ra sao?
- Trong cuốn Phật
Giáo Đại Thừa Cương Yếu, thiền sư Suzuki viết:
- "Sunyatà
(Không) không có nghĩa là hư vô, như các nhà luận giải đôi khi đã
phiên dịch, mà chỉ có nghĩa là điều kiện tính hay tính cách tạm bợ
của mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng, nó đồng nghĩa với
Aniyata (bất định) hay Pratiyà (duyên). Vì thế 'Không' trong Phật
Giáo theo nghĩa tiêu cực là vắng bóng của tính cách đặc thù, là
phi hữu tính của mọi cá thể, và theo nghĩa tích cực là tình trạng
dị biến của hiện tượng giới, là dòng chuyển hóa liên tục, một
chuỗi quả nhân bất tận. Không nên hiểu theo nghĩa 'hủy diệt' hay
'hư vô' vì đối với Phật Giáo, Hư-Vô-Luận chỉ là một thực-tại-luận
ngây thỏ."
- Nhưng một vấn
đề được nêu lên là: -- Đức Phật có chủ trương Không Luận như một
vài đệ tử sau này của Ngài hay không? Câu trả lời là Đức Phật
không hề lập một môn phái hay một triết luận riêng rẽ nào cả. Ngài
cũng không khuyến khích môn đệ của Ngài chủ trương học thuyết này
hay môn phái nọ, Ngài chỉ dạy con đường tự giác cho những ai tín
nhiệm Ngài. Lời dạy của Ngài không phải để người sau rút tỉa thành
những triết phái riêng của mình rồi cố chấp và bảo thủ, mà chỉ để
cho những ai ứng dụng lời dạy đó như một phương tiện cho cứu cánh
giải thoát ra khỏi thế giới vô thường giả tạm này.
--o0o--
|
|