-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Hạnh
Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Triết Lý Về
Nghiệp
-
- Trong bài này
chúng tôi chỉ trình bày một cách vắn tắt về triết lý nghiệp báo đã
được dạy trong kinh điển, chứ không có cao vọng phân tách hay
chứng minh cho triết lý cao siêu đó.
- Chúng tôi đặc
biệt đề cập đến nghiệp lý trong nhà Phật với mục đích phân biệt
với những quan niệm khác về "Nghiệp" của các nhà tư tưởng phi Phật
Giáo ngay trong thời Đức Phật hay mãi về sau. Thật vậy, càng ghi
nhận một sự khác biệt lớn lao về Nghiệp Lý giữa Phật Giáo, Ấn độ
Giáo, Bà La Môn Giáo, Kỳ-Na Giáo (Jainism) và Ajivakism.
- Người ta có
khuynh hướng đề cập đến chữ nghiệp như là một triết lý chung cho
hầu hết các Tôn Giáo Đông Phương mặc dù trên thực tế các tôn giáo
đều chủ trương dị biệt, hoặc toàn diện hoặc một khía cạnh nào đó.
- Một ngộ nhận
khác, do một số học giả Tây phương cho rằng Nghiệp đồng nghĩa với
thuyết Định Mệnh, trong khi một số người khác chủ trương Nghiệp
mang sắc thái xã hội học và sinh vật học. Sở dĩ có những ngộ nhận
như thế vì người ta chỉ đọc qua một số sách báo nói về nghiệp lý
mà không nghiên cứu giáo lý chính thống được truyền bá qua kinh
điển nguyên thủy.
- Trước hết ta
phải định nghĩa thế nào là Nghiệp, vì đó là mấu chốt giúp chúng ta
phân biệt nghiệp lý dùng trong nhà Phật và trong các giáo lý khác.
- Theo định nghĩa
được tìm thấy trong văn học tiền Phật Giáo thì chữ Nghiệp được
dùng để chỉ các nghi lễ tôn giáo, hay bổn phận của mỗi cá nhân
trong xã hội.
- Chúng ta đọc
thấy câu sau đây trong Isàupanisad: "Kurvanne veha karmàni
jijìvisecchatam samah" (Hãy để cho con người ước vọng sống lâu
trăm tuổi và thi hành bổn phận trong xã hội). Điều này chứng tỏ
rằng chữ Karma/Kamma - Nghiệp dùng với nghĩa bổn phận hay nghiệp
vụ.
- Trong kinh điển
Phật Giáo, chữ Karma cũng được dùng với nghĩa nghiệp vụ hay nghề
nghiệp khác nhau của mỗi người. Từ ngữ Anavajjàni kammàni được Đức
Phật dùng để nhắc nhở tín đồ nên làm những nghề nghiệp hợp với đạo
đức tức là ám chỉ Chánh Mạng chứ không phải Chánh Nghiệp. Như thế
chứng tỏ rằng trong một vài khía cạnh chữ Nghiệp trong Phật Giáo
và trong văn học tiền Phật Giáo đồng nghĩa.
- Tuy nhiên đó
chỉ là nghĩa phụ thuộc. Về phương diện triết học, chữ nghiệp có
một nghĩa chuyên môn đặc biệt chỉ được đề cập trong văn học Phật
Giáo mà thôi. Đức Phật dạy rằng: Cetanàham bhikkhave kammam vadàmi
(Này các vị Tỳ khưu, Như Lai chủ trương rằng
"cố ý" tức là Nghiệp).
Định nghĩa này rất phổ thông mà bất cứ ai nghiên cứu kinh điển
Pàli đều biết đến. Như vậy, chữ Nghiệp ở đây được dùng để chỉ
những hành động cố ý. Những hành động này có thể
là Thiện hay Thiện Nghiệp, có thể là Bất Thiện hay Bất Thiện
Nghiệp, có thể được biểu hiệu qua thân gọi là Thân nghiệp, qua
khẩu gọi là Khẩu nghiệp hay qua ý thức thuần túy gọi là Ý nghiệp.
- Mỗi người đều
phải chịu trách nhiệm về kết quả của những hành động thiện hay ác
này, dù kết quả đó tốt hay xấu, vui hay khổ. Nghiệp quả này có thể
thể hiện trong kiếp sống hiện tại, kiếp kế cận hay bất cứ kiếp
sống nào trong tương lai tùy theo tiềm lực của chúng. Cũng có khi
nghiệp quả không hiệu nghiệm, vì chúng quá yếu ớt, không có đủ
điều kiện, hay nói theo danh từ chuyên môn là không đủ nhân duyên,
để hiện khởi.
- Thật ra, nếu
chúng ta nghiên cứu sâu xa hơn, thì sẽ thấy rằng Cố ý
(cetanà) chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để tạo nghiệp
trừ phi đó là ý Nghiệp thuần túy. Vì có rất nhiều nghiệp cần đến
sự hổ trợ của thân và khẩu.
- Thí dụ như một
người chưa thể bị ghép tội sát nhân khi anh ta mới có ý định đó.
Vì vậy trong kinh Atthasàlini phân định rất rõ ràng 5 điều kiện
hội đủ để kết tội sát sanh :
- 1. Người hay vật có sự sống
2. Biết rằng người hay vật còn sống
3. Có ý muốn giết
4. Cố gắng giết
5. Người hay vật ấy chết bởi hành động cố sát của mình.
- Như vậy chỉ đơn
thuần một điều kiện thứ 3, tức là mới có ý định, chưa đủ để buộc
tội sát sanh. Tuy nhiên điều kiện thứ 3 là điều kiện tất yếu,
không có nó không thể gọi là nghiệp. Ví dụ một hành động vô ý của
ta gây nên một án mạng, thì đó không phải là tội cố sát, mà chỉ có
tội ngộ sát thôi. Những nghiệp biểu hiện qua khẩu cũng vậy, phải
đòi hỏi những điều kiện tương tự mới thành tựu được.
- Nói một cách
vắn tắt, chữ nghiệp được dùng trong Phật Giáo để chỉ những hành
động cố ý, qua thân, khẩu hay ý và được phẩm định giá trị thiện ác
tùy theo kết quả của chúng.
- Nhiều người khi
nghiên cứu Phật Học thường cho rằng Nghiệp lý xuất từ bài kinh
Cùlakammavibhanga (Tiểu nghiệp phân biệt), Majjhima Nikàya (Trung
Bộ Kinh). Trong bài kinh này Đức Phật có đề cập đến Nghiệp lý để
làm tăng trưởng đức tin của hàng tứ chúng, nhưng thật ra đó chưa
phải là bài kinh chính đề cập đến triết lý này.
- Trong kinh
Cùlakammavibhanga, một thanh niên Bà La Môn đến yết kiến Đức Phật
và yêu cầu Ngài giải thích tại sao trong nhân loại có người yểu
tử, người lại sống lâu, có người bịnh hoạn, người lại mạnh khoẻ,
có người xấu xa, kẻ xinh đẹp, người nghèo hèn, kẻ sang giàu, có
người địa vị cao vọng, kẻ lại khốn khổ bần cùng ... nguyên nhân
nào khiến cho có sự bất bình đẳng như thế giữa con người với con
người trong xã hội. Đức Phật nhân đó trả lời rằng: Chúng sanh
thọ lãnh báo ứng của Nghiệp mà họ đã tạo tác và chính vì nghiệp
báo này mà có sự bất bình đẳng giữa tất cả chúng sanh.
- Maurice
Maeterlinek, một văn sĩ nói: "Chúng ta hãy trở lại với thuyết
Nghiệp Báo Tái Sanh vì không thể có cái gì cao đẹp hơn, công bình
hơn và đạo đức hơn. Cũng không có một thuyết lý nào khả tín hơn.
Tự nó cũng đủ chứng minh về tất cả những bất đồng về thể xác, tri
thức và cả những bất công xã hội, những sự thiên lệch ghê gớm của
số phận." Giáo sư Allan G. Widgery Standon, giảng sư triết học,
thần học, tại đại học đường Cambridge và sau này là giảng sư triết
học đại học Duke ở Mỹ cũng đã nói: "Chắc chắn là con người sinh ra
trong những điều kiện bất đồng. Sự bất đồng đó tùy thuộc tư cách
hành động của mỗi người trong kiếp quá khứ qua định luật nghiệp
báo."
- Nhiều người
dùng những phương pháp luận lý như qui nạp, diễn dịch tam đoạn
luận, song quan luận... để hiểu triết lý nghiệp báo thậm thâm vi
diệu của Đức Phật. Nhưng vấn đề nghiệp báo không phải hoàn toàn
thuận lý.
- Mặc dù Đại Đức
Ananda khuyên chúng ta chỉ nên tin những gì đạt được bằng lý trí,
nhưng triết lý nghiệp báo không thể chỉ dùng lý mà hiểu được. Do
đó Đức Phật dạy rằng: "Kammavipàko acinteyyo" (không nên suy nghĩ
về hiệu năng của nghiệp lực). Thật vậy chúng ta chỉ có thể thông
suốt được sự vận chuyển của nghiệp qua lý trí, kinh nghiệm và nhất
là trực giác.
- Dẫu sao chúng
ta cũng có thể chứng kiến được sự thật hiển nhiên là có sự thiên
lệch rõ rệt trong xã hội loài người nói riêng và chúng sanh nói
chung. Và khi Đạo Phật đã chứng tỏ được nguyên nhân của sự bất
đồng đó thì dĩ nhiên Đạo Phật cũng chủ trương san bằng những bất
công trong xã hội.
- Thật vậy, những
bất công trong xã hội có thể san bằng, hay giảm thiểu. Về phương
diện kinh tế, nếu được cải tạo khéo léo thì trật tự xã hội sẽ ổn
định, con người có thể sống lâu hơn, mạnh khoẻ hơn, những sự chênh
lệch về vật chất được giảm thiểu để đưa xã hội đến chỗ tương đối
bình đẳng hơn.
- Về phương diện
tinh thần, sự bất đồng gây nên do mức độ tham lam, sân hận và si
mê nhiều hay ít. Vì vậy muốn san bằng những bất đồng về tinh thần
thì phải tiêu diệt tham, sân, si bằng những đức tính Bố Thí, Từ Bi
và Trí Tuệ. Thông suốt được tác động vận chuyển của nghiệp tức là
đã đắc Đệ Nhị Minh (dutiyà vijjà) trong Tam Minh (tisso vijjà):
Túc Mạng Minh, Sinh Tử Minh hay Thiên Nhãn Minh, và Lậu Tận Minh
mà Đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo. Khi ấy tâm của Ngài
nghiêm tịnh, thanh khiết, vô nhiễm, thoát ly khỏi các lậu hoặc,
nhu nhuyến, thích ứng, chánh trực và tự tại. Ngài chuyên chú vào
hiện tượng sinh tử của chúng sinh và với Thiên Nhãn, Ngài thấy
chúng sanh có kẻ cao thượng, người thấp hèn, kẻ xinh đẹp người xấu
xa, kẻ hạnh phúc người khốn khổ; sinh sinh, tử tử tùy theo nghiệp
của họ.
- Trong kinh
Mahàsìhanàda, Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật nói đến sự
chứng nghiệm của Ngài như là một cuộc thực nghiệm khoa học. Ngài
thuyết:
- "Có 5 con
đường gọi là ngũ đạo. Này Sàrìputta, Ngũ đạo đó là gì? Địa ngục,
súc sanh, ngạ quỉ, người và trời. Như Lai biết rõ những cõi địa
ngục, con đường dẫn tới địa ngục hay những loại nghiệp nào đưa vào
cảnh giới khổ đau này sau khi chết. Này Sàrìputta, Như Lai biết rõ
tâm của mỗi chúng sanh trong đó, chúng sanh nào vì hành động như
thế nào, tạo những nghiệp nhân như thế nào, rồi phải bị sanh vào
địa ngục như thế nào sau khi thân hoại mạng chung. Rồi với tâm
thanh tịnh, sáng suốt và siêu việt. Như Lai thấy chúng sanh ấy đọa
vào địa ngục chịu nhiều đau khổ. Giống như có một người mệt lã,
kiệt lực đang khấp khểnh tiến đến một hầm lá cháy ngùn ngụt. Một
người khác chứng kiến tận mắt cảnh đó tự nhủ rằng: chắc chắn người
này sẽ sa chân vào hầm lá. Rồi quả nhiên sau đó thấy người kia rơi
vào hầm lá và chịu nhiều đau khổ. Chúng sanh sinh vào cảnh giới
súc sanh, ngạ quỉ cũng chịu nhiều bất hạnh tương tự. Chỉ có chúng
sanh sinh vào cõi người tương đối sống hạnh phúc hơn, và chúng
sanh sinh vào cõi trời được hưởng nhiều an lạc."
- Trong kinh
Màhàkammavibhanga (Đại nghiệp phân biệt), Majjhima Nikàya (Trung
Bộ Kinh), Đức Phật dạy rằng, có một vài vị đạo sĩ nhờ tinh tấn,
chánh niệm đã đắc được định lực. Với nhãn quan siêu phàm, sáng
suốt vị ấy thấy một người bất thiện sau khi thân hoại mạng chung
vẫn tái sinh vào cảnh giới an lạc hơn. đạo sĩ ấy nghĩ rằng: không
có nghiệp bất thiện cũng không có quả của nghiệp bất thiện, mọi
người dù họ hành động bất thiện hay không khi mạng chung vẫn được
tái sanh vào nhàn cảnh. Đức Phật không đồng ý với quan niệm đó.
Đành rằng có thể có chúng sanh mặc dù hành động bất thiện, sau khi
thân hoại mạng chung vẫn được sinh vào cảnh giới an lạc. Nhưng sở
dĩ như vậy là vì trong những kiếp xa xưa họ đã tạo nhiều thiện
nghiệp. Thêm vào đó trong giờ lâm chung người ấy giữ được tâm niệm
chân chính.
- Sự sai lầm của
các đạo sĩ là do họ chỉ thấy được một vài kiếp sống của một chúng
sanh nào đó chứ không thông suốt được toàn diện hiện tượng phức
tạp của dòng nghiệp báo.
- Sự vận chuyển
của dòng nghiệp báo chỉ là một trường hợp đặc biệt của nguyên lý
nhân quả trong đó gồm những định luật sinh lý, vật lý, tâm lý và
nghiệp lý.
- Định luật
nghiệp báo còn được gọi là Luật Nhân Quả của hành động thiện hay
bất thiện. Theo Phật Giáo, Nghiệp báo không có nghĩa là định mạng,
vì vậy định luật nghiệp báo không cố định mà thường được xem như
là những khuynh hướng. Theo kinh Cùlakammavibhanga thì thường một
nghiệp nhân thiện có khuynh hướng đem lại một nghiệp quả lành, một
nghiệp nhân bất thiện có khuynh hướng đưa đến một nghiệp quả dữ.
- Nếu phân tích
chi tiết hơn chúng ta thấy nghiệp được phân loại theo 4 cách:
- 1. Về
phương diện công tác, có 4 loại
:
- Sanh
nghiệp: là nghiệp lực chi phối tái sanh. Thức tái sanh và
sắc uẩn đầu tiên tùy thuộc vào sanh nghiệp này.
- Tử
nghiệp: là nghiệp lực duy trì sự sinh tồn của một chúng
sanh từ khi mới sanh cho đến khi lâm chung. Con người được hưởng
hạnh phúc trong kiếp sống của họ hay không tùy thuộc ở trì nghiệp
này.
- Chuyển
nghiệp: là nghiệp lực làm trở ngại sanh nghiệp khiến cho
đời sống đang bình thường bỗng gặp khó khăn.
- Đoạn
nghiệp: là nghiệp lực cắt đứt sanh nghiệp. Như một người
bị chết bất đắc kỳ tử.
- Bất đắc kỳ tử
không phải do định mệnh hay số phận, cũng không phải oan uổng mà
chính vì đoạn nghiệp của một người quá mạnh khiến cho kiếp sống bị
đứt đoạn nửa chừng.
- 2. Về
phương diện năng lực của quả báo,
nghiệp có 4 loại :
- Cực
trọng nghiệp: là nghiệp lực rất mạnh, nếu là nghiệp ác có
thể sa đọa vào địa ngục vô gián nên còn gọi là vô gián nghiệp.
Những nghiệp cực-trọng đó là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán,
chia rẽ Tăng chúng và gây thương tích cho Đức Phật.
- Cận tử
nghiệp: là nghiệp tạo lúc lâm chung. Nghiệp này có thể do
hành động, lời nói hay chỉ nhớ lại những nghiệp đã làm lúc sanh
tiền. Một người có thể từng làm nhiều việc thiện nhưng khi chết
nhớ lại một điều ác nào đó rồi sanh vào cảnh khổ. Trái lại một
người suốt đời hầu như làm ác nhưng lúc lâm chung giữ được tâm
niệm lành thì vẫn được sanh vào nhàn cảnh. Tuy nhiên những hành
động thiện hay ác kia vẫn còn tích trữ cho đến khi hội đủ nhân
duyên sẽ phát khởi.
- Tập
quán nghiệp: là nghiệp thường được tạo tác trong suốt
kiếp sống của ta và nó đã trở thành tập quán. Như một người đồ tể
đã biến hành động giết chóc thành thói quen không bỏ được. Do đó,
nếu là tập quán bất thiện thì rất nguy hiểm cho sự tu tập. Trái
lại nếu đó là tập quán thiện thì đem lại nhiều kết quả khả quan.
- Tích
lũy nghiệp: là những nghiệp lực còn duy trì chưa phát
hiện vì chưa đủ nhân duyên hay điều kiện thuận tiện. Thường nghiệp
này không mạnh lắm, nên làm xong có thể quên ngay.
- 3. Về
phương diện thời gian, phản ứng,
nghiệp được chia làm bốn loại:
- Hiện
báo nghiệp: là những nghiệp gây hậu quả ngay trong kiếp
hiện tại. Như một người ăn trộm bị bắt cầm tù, hay những tội nhân
bị bắt quả tang và bị tử hình ...
- Sanh
báo nghiệp: là những nghiệp đem lại hậu quả trong kiếp kế
tiếp. Như một người bố thí, trì giới và tâm hồn thanh tịnh khi lâm
chung được tái sanh nơi nhà cảnh. Trái lại những người sát sanh,
trộm cướp... sau khi lâm chung bị sa đọa vào 4 ác đạo .
- Hậu báo
nghiệp: nếu nghiệp chưa được trả quả trong kiếp hiện tại
hay trong kiếp kế cận, thì sẽ phát khởi trong bất cứ một kiếp nào
về sau khi hội đủ điều kiện. Thường nghiệp lực này không mạnh lắm.
Đây chỉ là trường hợp một người làm lành khi lâm chung có tâm niệm
bất thiện, phải tái sanh trong khổ cảnh và sau kiếp sống đó mới
nhận được quả lành đã làm trong quá khứ. Trái lại một người làm
ác, với tâm niệm lành lúc lâm chung có thể tái sanh trong nhàn
cảnh và sau kiếp sống đó mới chịu đau khổ do kết quả của hành động
bất thiện trước kia. Đó là lý do tại sao một vài đạo sĩ khi thấy
một chúng sanh làm ác sau khi thân hoại mạng chung vẫn được sanh
vào nhàn cảnh và kết luận rằng không có kết quả của hành động
thiện ác. Thật ra, vì họ chỉ thấy được một vài kiếp sống chứ chưa
chứng kiến được toàn diện hiện tượng nghiệp báo.
- Vô hiệu
nghiệp: là những nghiệp đáng lý có kết quả trong hiện
kiếp hay kiếp sau, nhưng không đủ yếu tố để phát khởi nên trở
thành vô hiệu quả. Nhất là trường hợp Đức Phật và các vị A-la-hán,
những nghiệp lực yếu ớt còn sót lại không chi phối được các Ngài.
- 4. Về
phương diện cảnh giới, nghiệp
cũng được chia làm 4 loại:
- Bất
thiện nghiệp: là những nghiệp trả quả trong bốn đường ác
đạo hay làm người trong tình trạng bất hạnh. đó là những nghiệp:
sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói hai lưỡi, ác ngữ, nói
lời vô ích, tham, sân và tà kiến.
- Dục
giới thiện nghiệp: là những nghiệp trả quả ở 6 cõi trời
dục giới, ở đó chúng sanh được hưởng đời sống hạnh phúc, hoặc trả
quả làm người được sống an lạc. Những nghiệp này là phóng sanh, bố
thí, phạm hạnh, chân thật, nói lời hòa hợp, ái ngữ, nói lời hữu
ích, không tham, không sân và chánh kiến.
- Sắc
giới thiện nghiệp: là kết quả của thiền định hữu sắc,
những người đắc được bốn bực thiền hữu sắc sẽ tái sinh trong 16
cõi sắc giới thiên. ở đó chúng sanh sống rất an tịnh không tham
sân và si.
- Vô sắc
giới thiện nghiệp: là những kết quả của các bậc thiền vô
sắc. Có 4 cõi vô sắc giới thiên, trong đó đời sống rất vi tế,
thanh tịnh và tự tại, các chúng sanh ở đó sống rất lâu nhưng đến
khi quả báo không còn hiệu lực, họ cũng phải trở lại dục giới chịu
những quả vui khổ họ đã tạo trước kia.
- Như vậy Nghiệp
là một định luật Nhân Quả công bằng trong đó có tự do và trách
nhiệm, khác hẳn với định mệnh thuyết cho rằng con người phải chịu
số phận mà trời đã định sẵn, họ không có quyền tự do quyết định
tạo lấy cho mình một đời sống tùy theo ý muốn của mình. Và dĩ
nhiên như thế con người không chịu trách nhiệm về mọi hành động
của mình, vì trách nhiệm đó đã có trời gánh vác.
- Nếu nói rằng
Đạo Phật không nêu cao nhân vị thì quả thật quá sai lầm vì trong
nghiệp lý con người được hoàn toàn tự do và nhận lãnh trách nhiệm
về sự tự do của mình. Trái lại, chính thuyết thiên mệnh mới chà
đạp nhân vị của con người, vì theo đó con người luôn luôn bị trời
thưởng phạt, chứ không có quyền tự quyết; và nếu có tự quyết thì
cũng tự quyết chiều theo ý trời, và con người không bao giờ có ý
định được bình đẳng với trời. Đạo Phật không những tôn trọng nhân
vị mà còn cố gắng nâng nhân vị đó lên Phật vị một cách hoàn toàn
bình đẳng.
- Chúng ta đã
định nghĩa, phân loại và nói đến tính cách khả chứng bằng lý trí,
quan sát, kinh nghiệm trực giác của Nghiệp theo quan niệm nhà
Phật. Nay chúng ta hãy so sánh chữ Nghiệp được dùng trong Phật
Giáo và trong các tôn giáo khác.
- Trước hết,
chúng ta hãy so sánh với chủ trương của đạo Jainism, theo đó con
người không thể phát triển đức dục và trí dục nếu chưa trả hết tất
cả những hậu quả của bất thiện tiền nghiệp. Vì vậy tôn giáo này
dạy tín đồ phải thực hành khổ hạnh để sớm được thoát khỏi ảnh
hưởng của tội lỗi mà họ đã làm trong những kiếp quá khứ. Mặt khác,
đạo Jainism chủ trương khác hẳn với Phật Giáo rằng giá trị của
hành động đạo đức tùy thuộc ở thân hơn là ở ý chí.
- Trong kinh
Upali, Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), có ghi lại trường hợp một
vị đạo sĩ, thuộc Jainism mà thời đó gọi là Nigantha, đến yết kiến
Đức Phật. Sau đây là một mẫu đối thoại trong Trường Bộ Kinh :
- Khi đạo sĩ
Nigantha chào hỏi Đức Thế Tôn và an tọa, Đức Phật hỏi đạo sĩ rằng:
"Này đạo sĩ, trong đạo Nigantha vị giáo chủ Nàtaputta dạy có bao
nhiêu loại nghiệp?"
- "Bạch Đức
Gotama, trong đạo của chúng tôi, vị giáo chủ Nàtaputta không hề
nói đến cái nghiệp nhưng chỉ dạy về cái tội mà thôi."
- "Vậy có bao
nhiêu thứ tội?"
- "Bạch Ngài, tội
có 3 loại: tội do thân, do khẩu và do ý."
- "Trong ba tội
ấy tội nào nặng hơn hết?"
- "Bạch Ngài,
chính tội của thân nặng hơn cả."
- Sau khi xác
nhận ba lần như thế, đạo sĩ Nigantha lại hỏi Đức Phật:
- "Bạch Đức
Gotama, còn theo Giáo Pháp của Ngài có mấy thứ tội?"
- "Này đạo sĩ,
trong Giáo Pháp của Như Lai không hề nói đến cái tội, nhưng chỉ
dạy về cái nghiệp mà thôi."
- "Bạch Ngài, vậy
có bao nhiêu thứ nghiệp?"
- "Nghiệp cũng có
3 loại là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp."
- "Bạch Ngài,
trong ba loại nghiệp ấy loại nào quan trọng nhất?"
- "Này đạo sĩ,
chính ý nghiệp là quan trọng nhất."
- Qua đoạn kinh
trên, chúng ta thấy chủ trương về nghiệp giữa Phật Giáo và Jainism
không hoàn toàn giống nhau. Một đằng xem hành động cố ý mới tạo
nghiệp lực một đằng cho rằng dù vô tình hay cố ý vẫn có giá trị
thiện ác như nhau. Hai quan niệm như thế không thể bị đồng nhất
hóa được.
- Một chủ trương
khác của giáo phái khổ hạnh Ajivika cho rằng tất cả những hành
động cũng như những kinh nghiệm hiện tại hoàn toàn bị chi phối bởi
tiền nghiệp. Trong khi đó Đạo Phật không chấp nhận thuyết tiền
định và xem nghiệp quá khứ chỉ là một trong những yếu tố chi phối
đời sống hay kinh nghiệm vui khổ của con người mà thôi. Theo Đạo
Phật con người không phải sống tùy thuộc hoàn toàn vào nghiệp quá
khứ mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau:
- -- Yếu
tố ngoại giới: như điều kiện thời tiết, ảnh hưởng của vị
trí, phương hướng, cũng như những tình trạng xã hội ...
- -- Yếu
tố vật lý: tức là những điều kiện vật chất, những ảnh
hưởng của hiện tượng vật lý.
- -- Yếu
tố sinh lý: tức là điều kiện cấu tạo, vận chuyển và tiến
hóa của cỏ thể, kể cả luật di truyền.
- -- Yếu
tố tâm lý: tức là những định luật về hiện tượng nội giới.
Điều này được Đức Phật phân tích rõ ràng trong Abhidhamma (Thắng
Pháp).
- -- Yếu
tố nghiệp lý: tức là nguyên lý nhân quả của hành động cố
ý như chúng ta đã định nghĩa và phân loại ở trên.
- Như vậy đời
sống của con người phối hợp bởi nhiều yếu tố và ảnh hưởng bởi
nhiều môi trường chứ không hoàn toàn do nghiệp quá khứ của mình
(sayam katam), không do quyết định độc đoán của một ngoại nhân nào
(param katam), cũng không ngẫu nhiên mà có (adhicca sammuppanna).
Con người cũng như vạn hữu đều hình thành bởi nhiều nhân duyên
(paticca samupana). Nếu có người hiểu rõ tất cả những điều kiện đó
họ có thể chế ngự thiên nhiên và chính mình để đạt đến chỗ tự tại
vô ngại.
- Đạo Phật nhằm mục đích tiêu diệt
mọi điều kiện ràng buộc con người để đưa đến vô điều kiện
(unconditioned, vô vi) tức là Niết Bàn, là giải thoát.
- Cuối cùng chúng
ta so sánh với thuyết định mệnh (fatalism) và thuyết di truyền
(heredity).
- Như chúng ta đã
đề cập trước đây, sự liên quan của nghiệp báo khác hẳn với thuyết
định mệnh vì nghiệp không phải là yếu tố duy nhất, độc đoán chi
phối đời sống con người và chúng ta có thể tiêu diệt hay biến đổi
nghiệp cùng với những điều kiện khác để vươn lên.
- Theo kinh điển
Bà La Môn, mọi hành động của con người đều bị chi phối bởi thiên
nhiên (prakiti) và thiên nhiên lại được vị trời Phạm Thiên (Thượng
đế) an bài định đoạt. Bởi thế con người đành phải bó tay trước số
phận mà tạo hóa đã định sẵn, hoặc phải cúng tế để cầu xin được gia
ân, ban phúc.
- Chắc hẳn là có
người không chịu nổi số phận quá đen tối của mình mà tự hỏi không
biết ai đã trao cho tạo hóa cái thứ quyền năng độc đoán, bất công
như thế. Vì sao tạo hóa lại định số phận mỗi người một khác. Nếu
đấng tạo hóa toàn năng thì không toàn thiện, vì Ngài đã tạo một sự
chênh lệch lớn lao giữa con người với con người. Nhưng nếu Ngài
toàn thiện thì không toàn năng vì Ngài không đủ sức san bằng sự
chênh lệch đó để đưa con người đến chỗ tương đối hạnh phúc hơn.
- Dĩ nhiên con
người có quyền đưa ra những vấn nạn hữu lý đó. Vì không lý gì,
trong cái thời mà con người đã ý thức được chủ quyền và nhân bản
lại bị cưỡng bách phải chịu qui phục trước một tha lực chuyên chế
hoàn toàn không do họ ủy quyền.
- Theo Đạo Phật,
thì con người là thượng đế của chính mình chứ không ai khác
(attàhi attanonàtho, ko hi nàtho parosiyà). Vì tất cả các điều
kiện, kể cả nghiệp đều có thể tự mình sửa đổi được. Bởi thế, hạnh
phúc hay đau khổ đều do mỗi cá nhân tạo lấy cho mình. Được tự do
hay nô lệ tùy thuộc ở chỗ con người làm chủ các điều kiện hay bị
các điều kiện làm chủ.
- Về phương diện
thuyết di truyền, mặc dù Đạo Phật nhìn nhận rằng luật di truyền có
ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng di truyền không phải là
một yếu tố quyết định duy nhất như một vài nhà tư tưởng hay khoa
học gia chủ trương. Di truyền và nghiệp là hai yếu tố khác nhau
trong những điều kiện tạo thành đời sống con người: Di truyền
thuộc về điều kiện sinh lý (bìyaniyàma) trong khi nghiệp đặt căn
bản trên ý chí (Cetanà). Một người có thể có một đặc tính thể chất
nào đó từ cha mẹ di truyền lại nhưng chính nghiệp lực do anh ta
tạo ra có ái lực đối với đặc tính đó, sự tương ứng này gọi là nhân
duyên tương khởi.
- Trong trường
hợp tính tình thì nguồn gốc dường như không phải là di truyền mà
là nghiệp lực hay những điều kiện xã hội. Hai đứa con song sinh ít
khi có tính tình giống nhau, và nếu chúng được đặt trong những
điều kiện xã hội khác nhau thì tính tình lại càng biến đổi. Xem
thế yếu tố di truyền không phải là yếu tố quyết định.
- Khi phân tích
các tác phẩm McTaggart, Giáo sư Triết học đại học đường Cambridge,
người đã nhiệt liệt bênh vực thuyết nghiệp báo trong cuốn "Vài
Giáo Điều Tôn Giáo" (Some Dogmas of Religion), và cuốn "Bản Chất
Của Hiện Hữu", Giáo sư C. D Broad đã viết: "McTaggart đã chỉ cho
chúng ta thấy rằng giả thuyết về ái lực tương tuyển giữa những
loại tâm hồn này và thể xác kia có thể giải thích được sự tương
đồng về đặc tính tinh thần, giữa cha mẹ và con cái mà người ta
thường cho là trực tiếp ảnh hưởng của sự di truyền. Vì di truyền
nên con cái giống với cha mẹ hơn là người khác. Thêm vào đó, những
cơ thể giống nhau sẽ tương ứng với những tâm lý giống nhau, và vì
thế những tiếp hợp tử phát triển thành những cơ thể tương tự có
khuynh hướng hấp dẫn những tâm lý tương tự để tạo thành thai bào.
Tôi nghĩ phải nhìn nhận rằng lý thuyết này rất thích đáng và tinh
tế" (Examination of McTaggart's Phylosophy, Vol. 2, Part 2, Page
614-615).
- Tóm lại, nghiệp
báo đóng một vai trí rất quan trọng trong Giáo Lý nhà Phật. Tuy
nhiên chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật thuyết minh nghiệp lý không
phải với mục đích khuyến khích làm điều kiện để hưởng thụ hạnh
phúc trong cõi cực lạc, thiên đường, nhưng để giúp con người thoát
ra khỏi dòng nghiệp báo triền miên (Kammakkhayya). Do đó ngay từ
những điều kiện đầu tiên để đạt được quả vị thứ nhất - quả Dự Lưu
- trong hàng Thánh nhân là phải :
- -- Diệt
thân kiến (sakyà ditthi), tức là không chấp ngã.
- -- Diệt
hoài nghi (vicikiccà), tức là nắm được chân lý, không còn
tin phù phiếm ở định mệnh.
- -- Diệt
giới cấm thủ (sìlabbataparàmàsa), tức là không còn chấp
vào các nghi lễ, định lệ nữa.
- Một người như
thế sẽ không còn thối hóa (avinipàta) và chắc chắn sẽ đạt được cứu
cánh giác ngộ (Niyatosambo dhiparàyàno). Đó là con đường dẫn tới
sự đoạn diệt ảnh hưởng của nghiệp lực và phát triển tinh thần vô
ngã, từ bi và trí tuệ.
--o0o--
|
|