-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Phật Giáo Và
Sự Thờ Cúng
-
- Khi thấy Phật
Tử đến chùa lễ bái, hay những nhà sư đang kính cẩn nghiêng mình
trước đài sen trong khung cảnh trang nghiêm, tịch mịch đầy trầm
hương nghi ngút, chắc hẳn có người hỏi rằng: Phật Tử có cầu nguyện
hay không? Họ làm gì khi đến chùa? Và thái độ của người Phật Tử ra
sao đối với sự nguyện cầu?
- Trước hết chúng
ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa.
Trong các tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng Đế (Một Đấng Tối
Cao, Toàn Năng, Toàn Thiện, Toàn Trí đã dựng thế gian và được coi
là thủy tổ muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài
một sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh
phúc, thịnh vượng, bính an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội
lỗi đã vi phạm.
- Chúng ta có thể
nói ngay rằng, vì người Phật Tử không tin tưởng nơi thần linh hay
bất cứ một đấng quyền uy ban ơn giáng phước nào, nên cầu nguyện
cũng không có một ý nghĩa như trên. Mặt khác, Phật Tử tin tưởng ở
nghiệp lực theo đó hạnh phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành
động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân tạo ra có ý thức. Đó là một
luật tự động vận hành chứ không do một ai hướng dẫn, sắp đặt hay
an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất định nên nó
không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho
những ai đã vi phạm. Cũng theo luật này (luật Nghiệp-quả) tội lỗi
không thể được tha thứ bởi một động lực bên ngoài, mà chỉ được sửa
sai bằng một pháp đối trị là phước thiện. Bởi vì tội lỗi theo Phật
Giáo không phải gây ra bởi vi phạm hay bất tuân những luật định do
một đấng tối cao nào đó bày ra cho loài người, mà chính vì tự mình
hành động sai lầm qua thân, khẩu và ý để đưa đến ô nhiễm và phiền
não.
- Như vậy không
có vấn đề cầu nguyện trong Phật Giáo theo nghĩa thông thường tức
là cầu xin Thượng Đế ban ơn, tha tội, vì mỗi người phải chịu trách
nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội
phước, lành, dữ do mình tạo ra.
- Thế thì người
Phật Tử làm gì khi đến chùa? Nếu là Phật Tử chân chính chắc chắn
họ không đến chùa để cầu nguyện.
- Chúng ta hãy
theo dõi những người Phật Tử đến viếng chùa để xem họ hành động
như thế nào và ý nghiã những hành động ấy ra sao. Trong Phật Giáo
không ai buộc Phật Tử phải đến chùa vào một ngày nhất định, họ có
thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông Phật Tử đi chùa vào những
ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, vì họ thích tập thể hơn là đơn
độc. Họ thường mặc áo trắng, lam, hay nâu thì đó là những màu sắc
tượng trưng cho thanh tịnh, giản dị và khiêm nhượng. Họ đem cả
hương, đèn, trầm và hoa quả, kính cẩn đi vào chánh điện, nơi đó
một tượng Phật uy nghi được trang trí ở chỗ cao trọng nhất, và
thành kính dâng những lễ vật lên Đức Phật . Hình tượng tự nó không
phải là vật thờ cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ tưởng
niệm đến Đức Phật. Thực ra dù có hình tượng hay không họ cũng tôn
thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng giúp họ dễ chú ý và định
tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng nguời Phật
Tử không cò thái độ như tín đồ của Vật Tổ Giáo, thờ cúng những vật
như cây, núi, đá, sông.... Những ai xem đạo Phật là tôn giáo thờ
cúng hình tượng là vô căn cứ và thiếu sáng suốt.
- Một điểm đáng
chú ý nữa là người Phật Tử lễ bái tượng Phật không có nghĩa là họ
tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế
gian, đã thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này
trở nên linh ứng có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt
những người bất tôn kính đối với Ngài. Hình tượng chỉ để nhắc nhở
lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại thế, như lúc
tham thiền nhập định, lúc chuyển pháp luân, lúc trì bình khất
thực, lúc nhập diệt v.v. khiến cho người Phật Tử có cảm tưởng được
đối diện với Đức Thế Tôn. Cũng vì thế mà việc đắp tượng phải làm
thế nào để diễn tả được những vẻ từ, bi, hỷ, xả của Đức Phật, nếu
không hình tượng có thể làm sai lạc trí tưởng tượng của người sơ
cơ.
- Mặc dầu Đức
Phật đã nhập diệt nhưng đời sống và Giáo Pháp của Ngài vẫn còn có
một ảnh hưởng lớn lao đối với nhân loại ngày nay, ảnh hưởng đó
sống động và thực tế đến nỗi người Phật Tử có cảm tưởng như Đức
Phật còn tại thế, có người muốn biến cảm tưởng đó thành sự thật
bằng cách cúng cả vật thực đến Đức Phật mặc dù họ biết rằng Ngài
không thể thọ dụng.
- Linh động hóa
như vậy rất hữu ích vì người Phật Tử càng vững tin và tinh tấn
trên đường đạo, đồng thời sự thờ cúng càng tăng thêm phần ấm cúng
và trang nghiêm. Đó là một cách để chứng tỏ rằng ảnh hưởng của Đức
Phật đối với con người mọi thời vẫn mạnh mẽ không kém lúc nguyên
thủy.
- Theo công lệ,
cúng dường đèn, hương, hoa quả là một hành động tỏ dấu kính trọng
tôn thờ hay tri ân chứ thực ra những vật cúng dường ấy tự nó không
có một giá trị đặc biệt.
- Đi xa hơn những
thông lệ ấy, nguời Phật Tử có một thái độ sáng suốt hơn là chỉ
thuần một hành động thờ cúng; như khi dâng hoa trước đài sen người
Phật Tử suy nghĩ đến chân tướng vô thường của vạn hữu qua bài kệ
mà họ thường đọc :
- Dâng hoa cúng đến Phật Đà
Nguyện mau giải thoát sinh, già, khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu
Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn.
- Bài kệ trên
chứng tỏ người Phật tử khi dâng cúng hay tụng niệm không cầu xin
được hộ trì hay ban phước, nhưng đến với Đức Phật như người học
trò kính mến thầy chỉ đạo và nguyện theo gương Ngài sớm thoát khỏi
khổ hải trầm luân.
- Chúng ta nên
lưu ý đến sự khác biệt giữa thái độ của một tín đồ thờ thần linh
và một người Phật Tử khi họ cùng kính cẩn nghiêng mình trước giáo
chủ của họ. Trong khi tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước
hay cứu rồi, nghĩa là đời đời họ muốn làm nô lệ cho vị thần linh
hay Thượng Đế của họ. Người Phật Tử trái lại, kính cẩn tôn thờ Đức
Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo, chứ họ
không muốn làm nô lệ Ngài. Ví vậy tuy tôn kính Đức Phật nhưng
người Phật Tử vẫn được quyền bình đẳng với Ngài .
- Chúng ta hãy
tạm lấy so sánh giữa chế độ dân chủ ngày nay và chế độ quân chủ
xưa kia để làm thí dụ. Một đàng, trong chế độ quân chủ mọi người
dân là con cái hoặc nô lệ của vị Đế Vương. Họ phải tuân phục mọi
phán xét, thưởng phạt của vua, vì thế "Quân sử thần tử, thần bất
tử bất trung". Nhưng trong chế độ dân chủ thật sự, mọi người dân
đều có quyền bình đẳng, dù là Tổng Thống hay Thủ Tướng cũng là một
công dân như bao người khác. Người dân kính trọng vị nguyên thủ
quốc gia vì vị này thay thế họ để lãnh đạo, để lo việc chung. Và
tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có
đủ tài, đủ đức và những điều kiện cần thiết, để trở thành vị
nguyên thủ.
- Bình đẳng và
dân chủ hơn, Đức Phật dạy rằng: -- Không nên tôn kính Ngài bằng
cách cúng dường lễ bái. Dù cúng dường bằng những trân châu quý báu
cũng không phải là cách tôn kính cao thượng. Phải thực hành theo
phương pháp mà Ngài đã kinh nghiệm và chỉ dạy lại để sớm được giải
thoát và đắc quả vị như Ngài.
- Thật hiếm có
một vị thầy nào lại không muốn được tôn trọng và chỉ muốn cho học
trò sớm ngang hàng bằng mình. Người Phật Tử chân chính hẳn phải
biết như vậy để không phụ lòng từ ái của Ngài, không cố chấp vào
những hình thức lễ bái mà phải tự tu sửa hầu một ngày kia được
giải thoát như Ngài.
- Tóm lại, tất cả
mọi hình thức thờ cúng tụng niệm của người Phật Tử không phải để
cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính Đức Phật và
tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác, giác tha.
--o0o--
|
|