-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Phật Giáo Có
Phải Là Một Tôn Giáo Không?
-
- Tôn Giáo là gì?
Khi nghiên cứu lịch sử Tôn Giáo, chúng ta tìm thấy nhiều giải đáp
cho vấn đề này. Vậy đâu là giải đáp thỏa đáng nhất? Những giải đáp
ấy có thích ứng với Đạo Phật không? Chúng ta hãy tìm hiểu một vài
định nghĩa thông dụng nhất.
- Một định nghĩa
nói rằng Tôn Giáo là hệ thống các tín điều. Định nghĩa này rất
đúng đối với nhiều tôn giáo trên thế giới, nhưng không phù hợp với
Đạo Phật vì những lý do sau đây:
- 1- Tín điều chỉ
là một mớ ngôn từ không tuyệt đối. Danh từ tự nó mang đặc tính hữu
hạn, làm giới hạn chân lý. Chân lý không bao giờ được chứa đựng
một cách toàn vẹn trong ngôn từ. Danh từ có thể là phương tiện để
truyền đạt chân lý, nhưng chúng ta phải hiểu rằng đó không phải là
phương tiện hoàn hảo.
- 2- Tín điều chỉ
đưa tôn giáo đến chỗ cứng đọng, giảm hiệu lực và làm mất tính cách
sống động, uyển chuyển của nó.
- 3- Khi đã tin
vào một số Tín điều nhất định nào đó, người ta dễ sinh ra cố chấp,
bảo thủ những tín điều ấy, và xem thường hay gạt bỏ những tín điều
của những tôn giáo khác. Đây là lý do đưa đến tham vọng bắt mọi
người chấp nhận tín điều của mình, và cũng từ đó xẩy ra chiến
tranh tôn giáo mà chúng ta thường thấy trong lịch sử.
- 4- Tín điều là
kết quả của những nỗ lực đưa chân lý vào hình thức của các mệnh đề
phạm trù thuần lý. Trái lại Phật Giáo không bao gồm một hệ thống
mệnh đề thuần lý mà là một phương pháp thực nghiệm của cuộc sống.,
Chúng ta tìm thấy lời dạy sau đây của Đức Phật trong Pháp Cú Kinh:
- " Người nói
nhiều Giáo Pháp nhưng không tự mình thực hành
thì chẳng khác nào đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không thể hưởng
được quả vị Thánh nhân. Người không nói được nhiều Giáo Pháp,
nhưng tự mình sống theo Pháp, từ bỏ tham lam, sân hận, si mê, có
chánh kiến và trầm tĩnh không cố chấp vào thế giới nà hay thế giới
khác, người ấy mới là đệ tử Như Lai".
- Một định nghĩa
khác xem tôn giáo như là sự mặc khải của thượng đế. Hầu hết các
tôn giáo Tây phương đều được thiết lập trên nền tảng Thiên khải.
Theo các tôn giáo ấy thì Thiên khải tức là phương tiện giao cảm
giữa Thượng đế với con người, nhờ đó con người biết được Ngài và
vạn vật do Ngài sáng tạo.
- Phật giáo không
tán thành Thiên khải vì những lý do sau đây:
- 1) Thiên khải
có tính cách đặc thù vì chỉ được thực hiện đối với từng cá nhân.
Và một khải thị có thể được xem là giá trị đối với người này chưa
hẳn đã đúng với người khác. Vậy mặc khải mang sắc thái chủ quan,
không thể phổ quát hóa.
- Điều này đưa
đến một sự chia rẽ trầm trọng giữa các tôn giáo Tây phương. Mặc dù
các tôn giáo ấy đều dựa trên căn bản mặc khải, nhưng xem ra những
khải thị của họ lắm lúc mâu thuẫn lẫn nhau. Tệ hại hơn nữa, có khi
trong cùng một tôn giáo mà nhóm tông đồ kích bác mãnh liệt đến độ
chiến tranh bùng nổ vì thiên khải bất đồng.
- 2- Thiên khải
đi ngược lại các nguyên lý căn bản như nguyên lý túc lý, nguyên lý
nhân quả... Ông Christmas Humphreys, Hội Phật Giáo Anh Quốc, nói:
"Trong Phật giáo, không những chúng ta không tìm thấy Thiên khải,
mà quan niệm này còn bị bác bỏ nữa là khác". Vì người Phật tử phải
thấu hiểu vũ trụ, nhân sinh qua kinh nghiệm, lý trí và trực giác,
như thái độ của nhà khoa học, mà không cần ai khải thị. Họ nhận
định rằng tri thức do khải thị chỉ là một mớ trí thức vay mượn,
tạm bợ và ảo tưởng.
- Thái độ của
người Phật tử giống như thái độ của Tất Đạt trong "Câu chuyện dòng
sông" của văn hào Hermann Hesse. Tất Đạt nhìn nhận Đức Phật là bậc
Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ; lời dạy của Ngài rất hoàn hảo,
nhưng chàng phải thực hiện con đường riêng của mình, con đường mà
chàng biết cuối cùng cũng chỉ như lời Phật dạy và cứu cánh tối hậu
của nó cũng chỉ là để thành bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ như
Đức Phật; vì không thể có cái gì cao hơn được nữa. Cũng thế người
Phật tử không chấp nhận lời dạy của Đức Phật như tín điều hay mặc
khải mà họ phải chấp nhận một cách tuyệt đối, họ xem giáo lý của
Ngài như những kinh nghiệm của người đi trước và muốn đạt đến cứu
cánh họ phải đi hết quãng đường bằng chính kinh nghiệm, lý trí và
trực giác của mình.
- Một định nghĩa
nữa coi tôn giáo như những lệ cúng tế, cầu đảo. Sở dĩ có định
nghĩa như vậy vì một vài tôn giáo Đông phương cũng như Âu Mỹ tó ra
rất chú trọng đến lễ nghi cúng tế. Những tôn giáo này tin rằng
thần thánh có một quyền uy ban ơn giáng họa tuyệt đối. Họ phải tỏ
lòng cung kính và phục tùng để được ban ân huệ. Mặt khác, họ tin
rằng tội lỗi có thể được ân xá hay tẩy trừ nhờ cúng tế.
- Đạo Phật không
chú trọng đến lễ nghi cúng tế vì:
- 1- Những nghi
lễ cúng tế phiền phức làm mất tính cách giản dị của một tôn giáo.
Mặc dù có những lễ nghi cần thiết phải được tôn trọng để làm tăng
lòng thành kính của tín đồ, nhưng những hình thức cúng tế quá rườm
rà đều bị Đạo Phật loại bỏ.
- 2- Nghi lễ cúng
tế có thể gây nên một sự hiểu lầm nguy hại. Nhiều tín đồ đã nhầm
lẫn sự thờ cúng với việc tu niệm vì họ tin rằng tội lỗi sẽ được ân
xá nhờ cúng tế. Nhưng thật ra tội lỗi chỉ có thể tẩy trừ bằng ý
chí cải thiện của mỗi cá nhân, trong khi thờ cúng lại chỉ để tỏ
lòng thành kính của môn đệ đối với đấng Giáo Chủ.
- 3- Một khi đã
chú trọng đến nghi lễ người ta có thể vấp phải một khó khăn là
những nghi lễ dễ bị lạc hậu. Nghi lễ mỗi thời một khác, địa phương
này cũng bất đồng với địa phương kia, điều này đưa đến tranh chấp
nghi lễ này đúng, nghi lễ kia sai. Đó là một trở ngại lớn lao cho
việc tu niệm và truyền bá.
- 4- Một tôn giáo
chứa đựng quá nhiều hình thức thì nội dung dễ bị lãng quên. Chúng
ta nhìn nhận hình thức và nội dung phản ảnh lẫn nhau, một khi nội
dung tốt thì hình thức cũng tốt và ngược lại. Như một bậc Thánh
nhân thì hẳn phải có dáng điệu phi phàm. Nhưng đó phải là phản ảnh
trung thực chứ không phải vẽ vời hình thức để che giấu một nội
dung trống rỗng. Thật vậy:
- "Cúng tế
không đem đến một hiệu dụng nào, kinh cầu là những lời lặp đi lặp
lại vô bổ và bùa chú không đủ sức mạnh cứu vớt được con người. Chỉ
có chế ngự tham dục, trừ bỏ sân niệm và tiêu trừ si mê mới thật là
thể cúng chân thật, sự tế lễ đúng đắn.
- Đọc nhiều kinh điển, cúng
dường các bậc tu hành, thờ lạy thần linh, tự đày đọa thân thể hay
bất cứ một hình thức khổ hạnh nào cũng không thể làm cho người trở
nên thanh tịnh, sáng suốt.
- Tụng hồng
danh Phật cũng chỉ hữu ích khi nào chuyên tâm nhất niệm để giữ ý
trong sạch và cải thiện hành động cho phù hợp với lời Phật dạy".
- Chúng ta đã
thấy ba định nghĩa trên về tôn giáo không thể áp dụng được với
Phật Giáo. Vậy Đức Phật định nghĩa tôn giáo như thế nào?
- Câu trả lời rất
giản dị và rõ ràng: -- Tôn giáo là thái độ chân chính, chứ không
phải là bao gồm những tín điều, nghi lễ, cũng không phải được khải
thị bởi Trời.
- Một người tu
hành phải xây dựng nhân cách của mình bằng những thái độ thế nào
để có thể bộc lộ ra ngoài bằng những hành động đạo đức. Thái độ ấy
là thái độ tri thức chân chính, một tiêu chuẩn chính xác để hành
động. Đức Phật nhận thấy hành động bắt nguồn từ thái độ tri thức.
Vì vậy một thái độ chân chính sẽ đưa đến một hành động đạo đức và
ngược lại. Đó là lý do tại sao Ngài dạy chúng ta muốn trở nên đạo
đức phải phát triển một số thái độ chân chính và phải loại bỏ
những thái độ đối nghịch. Đôi khi chúng ta căn cứ vào những qui
luật đạo đức bên ngoài để đánh giá trị thiện ác của một hành động,
nhưng giá trị hành động tự nó mang sẵn tính chất đạo đức của thái
độ bên trong. Một khi thái độ tri thức chân chính gắn liền với
nhân cách con người thì điều thiện có thể thực hiện được một cách
tự nhiên không phải cố gắng nữa. Đó là đạt đến chỗ chí nhân, chí
thiện.
- Vậy một tôn
giáo có mục đích đưa con người đến chỗ toàn chân, toàn thiện phải
đặt trọng tâm trong việc cải thiện thái độ trí thức.
- Phật Ngôn đầu
tiên trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) đã chứng tỏ cho chúng ta tầm
quan trọng của thái độ tâm lý đối với đi sống của mỗi cá nhân:
- "Sự hiện
hữu của chúng ta là kết quả của những tư tưởng. Nó được xây dựng
trên tư tưởng và kết tinh bằng tư tưởng. Nếu một người nói hay
hành động với tư tưởng sai lầm thì khổ đau sẽ theo người ấy như
bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe. Nhưng nếu nói hay hành động
với tư tưởng chân chính thì hạnh phúc sẽ theo người ấy như bóng
theo hình".
- Tư tưởng sai
lầm và tư tưởng chân chính là hai thái độ tâm lý mâu thuẫn nhau,
mỗi thái độ đem lại một kết quả khác biệt. Một thái đội tâm lý gọi
là sai lầm hay bất thiện khi nó mang bản chất Tham-Sân-Si. Trái
lại thái độ chân chính hay thiện khi nó không bị ba trạng thái tâm
lý (mental states) ấy chi phối.
- Vậy muốn chuyển
hóa thái độ sai lầm sang chân chính phải diệt trừ ba nhân bất
thiện: tham, sân, si, và những yếu tố liên hệ với chúng.
- Sau đây là một
vài thái độ tâm lý căn bản được Đức Phật khuyến khích chúng ta nên
phát triển.
- 1-
Tín (Saddha): Đức tin có hai khía cạnh là tin tưởng
nơi Tam Bảo và tự tin ở khả năng cải thiện của mình. Như có người
muốn đi đến một nơi nào đó phải tìm một người hướng đạo kinh
nghiệm, sáng suốt và từng hiểu rõ đâu là nơi ta muốn đến, phải tin
tưởng nơi con đường mà người ấy chỉ dẫn cặn kẽ và hơp lý, phải noi
gương người đi trước và tự tin là mình có đủ sức đi hết đoạn
đường. Cũng vậy, muốn đạt đến chỗ toàn thiện chúng ta phải tin
tưởng nơi Đức Phật là bậc thầy hướng đạo giàu kinh nghiệm đầy sáng
suốt và đã trở thành bậc toàn thiện; phải tin ở Chánh Đạo mà Ngài
chỉ dạy vì đó là con đường hơp lý, thực nghiệm; và phải noi gương
chư Tăng, những người đi trước. Mặt khác chúng ta phải tự tin có
thể đạt đến chỗ toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ.
- Vậy Đức Tin là thái độ tâm lý đầu
tiên hướng ta về điều thiện.
- 2-
Tàm và Quý (Hiri-Ottappa): Tàm là thái độ tâm lý của
một người biết hổ thẹn trước điều ác. Quý là thái độ tâm lý biết
sợ hãi trước tội lỗi. Hai thái độ này liên kết với nhau thành một
bức thành trì vững chắc ngăn chúng ta cới điều ác. Một mặt nhờ có
Tàm ta biết hổ thẹn với lương tâm khi sắp làm một điều ác, lương
tâm cảnh cáo ta không cho nhúng tay vào tội lỗi. Mặt khác nhờ có
Quý ta biết sợ hãi khi phác họa ra trước mắt những hậu quả tai hại
do việc ác gây ra cho mình và cho kẻ khác. Ví dụ một người sắp sát
nhân, nhưng lương tâm anh ta không cho phép làm việc đó (Tàm),
đồng thời cảnh tượng nạn nhân đau đớn quằn quại trên vũng máu,
cảnh nheo nhóc, bi thảm của vợ con nạn nhân v.v. và cảnh tù tội
của chính anh hiện ra trước mắt khiến anh dừng tay không làm tội
ác sát nhân nữa (Quý).
- Như vậy Tàm (hổ
thẹn) và Quý (ghê sợ) là hai thái độ tâm lý cần thiết giúp ta
không tái phạm điều ác.
- 3-
Giác tỉnh (Sampajanna): Muốn biết rõ giá trị thiện ác
của mỗi hành động ta phải có một thái độ sáng suốt. Giác tỉnh tức
là biết rõ nhất cử nhất động của mình, vì vậy một khi đã giác tỉnh
thì ta không hành động hồ đồ, vô ý thức.
- Một người quá
sân hận có thể sát hại đối thủ một cách hoàn toàn mù quáng. Đến
khi nguôi giận anh ta mới biết mình hành động điên rồ. Sở dĩ như
vậy vì hành vi của anh bị thúc giục bởi một xung đột tình cảm là
sân hận chứ không được nhận thức rõ ràng bằng giác tỉnh, nghĩa là
anh ta không kịp thời kiểm soát hành động của mình bằng một thái
độ tri thức sáng suốt.
- Giác tỉnh
thương đi đôi với Niệm (Sati), tạo thành một thế liên hoàn để ngăn
chặn điều ác và giữ cho điều thiện luôn luôn hiện hữu. Giống như
một người lính canh gác, phải tỉnh táo thường xuyên (giác tỉnh) để
nhận biết hành tung của kẻ địch bất cứ lúc nào (niệm).
- Albert Camus
tán đồng quan điểm này của Đạo Phật khi ông nhìn nhận tỉnh thức là
thái độ tâm lý cần thiết để đối kháng với kẻ thù tham-sân-si.
- 4-
Vô lượng tâm (Appamanna): Con người sở dĩ gây nên tội
ác là do tính hẹp hòi, vị kỷ, chấp ngã, khinh mạn... Vì vậy muốn
hướng thiện, đừng để lòng mình bị giới hạn trong lớp vỏ bản ngã,
phải để cho tâm hồn phóng đạt, rộng rãi, bao trùm cả vạn vật chúng
sinh.
- Thái độ xả kỷ
vị tha đó thường xuất hiện dưới bốn hình thức: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
- - Từ (Metta):
Là lòng mong mỏi cho tất cả chúng sanh, không phân biệt chủng
loại, được an vui hạnh phúc.
- - Bi (Karuna)
là lòng sẵn sàng hy sinh để xoa dịu đau khổ của tất cả chúng sanh.
- - Hỷ (Mudita):
là lòng vui mừng trước sự thành công hay hạnh phúc của bất cứ
chúng sanh nào.
- - Xả (Upekkha):
là lòng bình đẳng, vô tư, không bị chi phối bởi những tình cảm yêu
ghét, thích thú hay bất mãn.
- Chúng ta không
thể làm việc thiện nếu không có những thái độ tâm lý Từ, Bi, Hỷ,
Xả. Vì bao lâu Tâm Vô Lượng chưa có thì ta còn bị những tình cảm
sân, hận, đố kỵ tham dục chi phối; mà những tình cảm này là mầm
mống của tội lỗi.
- 5-
Chánh kiến (Sammaditthi): Nhận thức đúng đắn về bản
chất của kiếp sống là thái độ cần thiết để hướng dẫn hành động.
- Đức Phật dạy
rằng có hai nhận thức sai lầm về vũ trụ và nhân sinh có thể dẫn
con người đi sâu vào tội lỗi đó là Thường Kiến và Đoạn Kiến.
- Nếu tin rằng
bản ngã và thế giới là thường tồn bất biến (thường kiến) thì con
người không cần phải cải thiện, vì nói đến cải thiện tức là nói
đến đổi thay mà bản ngã và thế giới đã bất biến thì làm thế nào
cải thiện được. Đó là thái độ nhận thức làm cản trở bước tiến hóa
đến chỗ chí thiện.
- Trái lại nếu
cho rằng bản ngã và thế giới hoàn toàn hủy diệt sau khi chết (đoạn
kiến) thì người ta sẽ bất chấp nhân quả, tội phước. Và vì thế trật
tự xã hội sẽ rối loạn, con người sẽ rơi vào vực thẳm tội lỗi.
- Để có thái độ
nhận thức đúng đắn, ta phải biết nhận xét và phán đoán về thực
chất của bản ngã và thế giới. Chánh kiến bao gồm tri kiến về Tứ
Diệu Đế, trong đó có sự biện biệt nhân quả, thiện ác và yếu tính
vô thường của giới hữu vi là Bản Ngã và Thế Giới .
- Hành động của
mỗi người đúng hay sai tùy thuộc kiến thức bên trong của người ấy
chính xác hay không. Một vị bác sĩ hiểu biết thâm sâu về y dược,
cách khám bệnh, đoán bệnh và giàu kinh nghiệm trong phương pháp
trị liệu tất nhiên chữa bệnh có kết quả hơn ông lang băm không
rành y học. Một cậu sinh viên không biết các định lý toán học,
không biết chứng minh, không thuộc công thức thì làm sao tìm đáp
số đúng cho một bài toán. Cũng vậy, muốn trở thành toàn chân, toàn
thiện trước hết phải có chánh kiến tức là một thái độ tri thức nhờ
đó ta hiểu được đâu là chân, đâu là giả.
- Qua Tam tạng
Kinh điển chúng ta tìm thấy rất nhiều thái độ tri thức được Đức
Phật giới thiệu và khuyến khích bằng chính thái độ gương mẫu của
Ngài. Trên đây chúng ta chỉ muốn đề cập đến một vài thái độ tri
thức căn bản mà từ đó ta có thể phát triển những thái độ tâm lý
chân chính khác hầu tự giải cứu mình ta khỏi thế giới giả vọng đến
chỗ toàn chân.
- - Hết-
--o0o--
|
|