-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa Thượng
Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí
Hải dịch (1998)
- Nguyên tác:
"What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")
- --- o0o ---
-
- Chương Hai
- TỨ DIỆU ÐẾ
(Bốn chân lý cao cả)
-
- Chân lý thứ
nhất: DUKKHA (Khổ)
-
Trọng tâm của giáo lý đức
Phật nằm trong Tứ diệu đế (Cattàri Ariyasaccani) mà Ngài tuyên
dương ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên[1]
của Ngài cho những người bạn cũ, 5 nhà khổ hạnh ở vườn Lộc uyển
(Isipatana-Sarnath ngày nay) gần Benarès (Ba-la-nại). Trong bài
thuyết pháp ấy như chúng ta thấy trong nguyên bản, Tứ diệu đế (bốn
chân lý cao cả) được nói một cách vắn tắt. Nhưng có vô số những
chỗ khác trong các kinh điển nguyên thủy trong ấy Tứ diệu đế được
giảng đi giảng lại với nhiều chi tiết hơn, và bằng nhiều cách khác
nhau. Nếu nghiên cứu Tứ Diệu Ðế này qua những tài liệu và giải
thích ấy, ta sẽ có được một tường thuật khá đứng đắn và chính xác
về những giáo lý tinh yếu của đức Phật theo những bản kinh Nguyên
thủy.
- Bốn chân lý cao cả ấy là:
- Khổ (Dukkha)[2]
.
Tập (Samudaya), sự phát sinh hay nguồn gốc của khổ.
Diệt (Nirodha), sự chấm dứt khổ.
Ðạo (Magga), con đường đưa đến sự chấm dứt khổ.
- Chân lý thứ nhất: KHỔ ÐẾ
- Diệu đế thứ
nhất (Dukkha-ariyasacca) thường được hầu hết các học giả dịch là
"Chân lý cao cả về sự khổ" và nó được giải thích là: sự sống, theo
Phật giáo, chỉ là đau khổ. Cả sự phiên dịch lẫn giải thích ấy đều
rất sai lạc và không làm ta thỏa mãn. Chính lối phiên dịch dễ dãi
hẹp hòi và cách giải thích nông cạn về khổ đế đã khiến nhiều người
lầm xem Phật giáo là yếm thế bi quan.
- Trước hết, Phật
giáo không bi quan cũng không lạc quan mà hiện thực, vì có lối
nhìn hiện thực về nhân sinh và vũ trụ. Phật giáo nhìn sự vật một
cách như thật (yathàbhùtam).
- Phật giáo không
tìm cách ru người vào ảo tưởng về một thiên đường lừa bịp, cũng
không làm người ta chết khiếp vì đủ thứ tội lỗi và sợ hãi tưởng
tượng. Nó cho ta biết một cách khách quan ta là gì, thế giới
quanh ta là gì, và chỉ con đường đưa đến tự do hoàn toàn, thanh
bình, an ổn và hạnh phúc.
- Một y sĩ có thể
phóng đại về một chứng bệnh khiến người ta tuyệt vọng. Một y sĩ
khác vì không biết gì, có thể tuyên bố không sao cả, không cần
chữa - lừa dối con bệnh bằng một sự an ủi giả dối. Người ta có thể
gọi người đầu bi quan và người sau lạc quan; cả hai đều nguy hiểm.
Nhưng một y sĩ thứ ba định bệnh một cách chính xác, hiểu rõ nguyên
nhân và bản chất bệnh, thấy rõ có thể chữa, nên can đảm bắt tay
vào việc chữa trị, nhờ thế cứu được bệnh nhân. Ðức Phật giống như
vị lương y sau cùng này. Ngài là vị lương y có trí tuệ và khoa học
để trị những căn bệnh của thế gian (bhisakka hay Bhaisajyagury).
- Ðã đành Phạn
ngữ dukkha trong cách dùng thông thường có nghĩa là "đau
khổ", "đau đớn", "buồn" hay "sự cơ cực", tương phản với chữ
"sukkha" có nghĩa "hạnh phúc", "tiện nghi", hay "thoải mái". Nhưng
danh từ dukkha trong Diệu đế thứ nhất, trình bày quan điểm
của đức Phật về nhân sinh và vũ trụ, có một ý nghĩa triết lý sâu
sắc hơn và hàm chứa những nội dung rộng lớn hơn nhiều. Dĩ nhiên ai
cũng công nhận danh từ Dukkha trong diệu đế thứ nhất rõ ràng có
chứa đựng ý nghĩa thông thường của "khổ", nhưng ngoài ra nó còn
bao hàm những ý nghĩa sâu sắc hơn như "bất toàn", "vô thường",
"trống rỗng", "giả tạm". Bởi thế, thật khó tìm một chữ có thể bao
quát toàn nội dung danh từ Dukkha kể như Khổ đế, và vì thế tốt hơn
nên để vậy đừng phiên dịch, hơn là gây một ý tưởng sai lầm không
xác đáng về nó bằng cách dịch dễ dãi tiện lợi thành ra "khổ" hay
"đau khổ".
- Ðức Phật không
phủ nhận có hạnh phúc trong sự sống khi Ngài bảo sống là khổ đau.
Trái lại Ngài chấp nhận có những hình thái khác nhau về hạnh phúc,
cả vật chất cũng như tinh thần, cho người thế tục cũng như cho
người xuất thế. Trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara-nikàya) một
trong năm tạng kinh nguyên thủy bằng tiếng Pali, chứa đựng những
bài thuyết pháp của đức Phật, có những bảng kê những hạnh phúc
(sukkàni), như hạnh phúc của cuộc đời ẩn sĩ và hạnh phúc của cuộc
sống gia đình, hạnh phúc của khoái lạc giác quan và hạnh phúc của
sự từ bỏ thế tục, hạnh phúc của sự ràng buộc và hạnh phúc của sự
giải thoát, hạnh phúc vật lý và hạnh phúc tâm linh v.v..[3]
Nhưng tất cả những điều này đều bao gồm trong Dukkha. Cả đến những
cảnh giới tâm linh rất thuần khiết của thiền (dhyàna, tĩnh lự),
đạt được nhờ thực hành Thiền quán, hoàn toàn thoát khỏi cả đến
bóng dáng của khổ đau theo nghĩa thông thường, những cảnh giới có
thể gọi là hạnh phúc thuần túy cũng như cảnh giới Thiền đã vượt
khỏi những cảm giác vừa lạc (sukkha) vừa khổ (dukkha) chỉ còn là
Thức thuần tịnh - cả đến những cảnh giới tâm linh rất cao siêu đó,
cũng được bao hàm trong dukkha. Trong một kinh Trung bộ
Majjhima-nikàya (một trong năm bộ kinh nguyên thủy), sau khi ca
tụng hạnh phúc tâm linh của những cảnh thiền ấy, đức Phật dạy:
"Chúng đều là vô thường, khổ (dukkha), phải chịu đổi thay" (aniccà
dukkhà viparimàmadhammà)[4].
Hãy để ý chữ dukkha đã được dùng đầy ý nghĩa. Nó là dukkha không
phải vì có "đau khổ" trong nghĩa thông thường của danh từ, mà vì
"cái gì vô thường là dukkha" (yad aniccamtam dukkham)
- Ðức Phật vốn
thực tế và khách quan. Nói về đời sống và sự hưởng thụ những khoái
lạc giác quan, Ngài dạy rằng người ta nên hiểu rõ ba điều:
- - sự lôi cuốn hay vị ngọt (assàda).
- hậu quả xấu, nguy hiểm, sự bất mãn (adìnava).
- sự giải thoát hay xuất ly (nissarana).[5]
- Khi bạn thấy
một người vui vẻ, duyên dáng và đẹp đẽ, bạn thích họ, bạn bị lôi
cuốn, bạn muốn thấy đi thấy lại người ấy nhiều lần, bạn rút được
khoái lạc và mãn nguyện từ đó. Ðấy là một thực tại của kinh
nghiệm. Nhưng sự vui hưởng ấy không trường cửu, cũng như người kia
và những vẻ lôi cuốn của họ cũng không trường cửu. Khi hoàn cảnh
thay đổi, khi bạn không thể thấy người ấy, khi bạn bị tước đoạt
nguồn vui ấy, bạn đâm ra buồn bã, bạn có thể thiếu phải chăng, mất
quân bình, đôi khi còn có thể hành động rồ dại. Ðấy là khía cạnh
xấu, không đẹp ý và nguy hiểm của bức tranh (adìnava). Ðiều này
cũng là một thực tại kinh nghiệm. Bây giờ, nếu bạn không có gì lưu
luyến với người đó, nếu bạn hoàn toàn không dính mắc, thì đấy là
tự do, đấy là giải thoát (nissarana). Ba điều này đúng cho tất cả
mọi sự hưởng thụ trên đời.
- Từ đây ta thấy
rõ không có vấn đề bi quan hay lạc quan, mà vấn đề là ta phải nhận
rõ những khoái lạc của sự sống cũng như sự giải thoát khỏi chúng,
để hiểu sự sống một cách toàn diện và khách quan. Chỉ khi ấy mới
có thể gọi là giải thoát chân thật. Về vấn đề này đức Phật dạy:
- "Hỏi các Tỳ
kheo, nếu sa môn hay Bà la môn nào không hiểu một cách khách quan
rằng vị ngọt của khoái lạc giác quan là vị ngọt, nguy hiểm là nguy
hiểm, xuất ly là xuất ly, thì chắc chắn họ không thể nào hiểu rõ
ham muốn đối với khoái lạc giác quan, không thể nào chỉ dẫn cho
người khác đi đến mục đích đó, ai theo chỉ dẫn của họ không thể
hiểu được thế nào là ham muốn đối với khoái lạc giác quan. Nhưng
hỏi các Tỳ kheo, Sa môn hay Bà la môn nào hiểu được một cách khách
quan vị ngọt khoái lạc giác quan là vị ngọt, nguy hiểm là nguy
hiểm, xuất ly là xuất ly, thì chắc chắn những người này sẽ hiểu
được hoàn toàn thế nào là ham muốn đối với khoái lạc giác quan, có
thể chỉ dẫn cho người khác đi đến mục đích ấy, và ai theo lời chỉ
dẫn của họ sẽ hoàn toàn hiểu được thế nào là ham muốn đối với
khoái lạc giác quan"
[6].
- Quan niệm về
dukkha có thể nhìn từ ba phương diện:
- - dukkha trong nghĩa khổ thông
thường, gọi là khổ khổ (dukkha- dukkha);
- dukkha phát sinh do vô thường, chuyển biến, hoại khổ
(viparinàma- dukkha).
- dukkha vì những hoàn cảnh giới hạn của sinh tử, hành khổ
(samkhàra- dukkha).
[7]
- Mọi thứ đau khổ
trong đời như sinh, lão, bệnh, tử, phải gặp những người và hoàn
cảnh trái ý (oán tăng hội), phải xa lìa những người và hoàn cảnh
mến yêu (ái biệt ly), không được những gì mình ưa muốn (cầu bất
đắc), buồn thương, đau khổ, tất cả những hình thức khổ thể xác và
tinh thần ấy (ngũ ấm xí thạnh), những điều mà ai cũng nhận là đớn
đau, khổ sở, đều được bao gồm trong dukkha theo nghĩa khổ thông
thường, khổ-khổ (dukkha- dukkha).
- Một cảm giác
hoan lạc, một hoàn cảnh hạnh phúc trong đời không bao giờ trường
cửu bất diệt. Sớm hay muộn nó cũng thay đổi. Khi biến đổi, nó
phát sinh khổ đau bất hạnh. Sự thăng trầm này được bao hàm trong
dukkha theo nghĩa những khổ đau phát sinh do sự chuyển biến vô
thường, gọi là hoại khổ (viparinàma- dukkha).
- Hai hình thức
khổ (dukkha) trên đây thật dễ hiểu, không ai chối cãi. Khía cạnh
này của Diệu đế thứ nhất thường được người ta biết đến nhiều hơn
vì nó dễ hiểu; đấy là kinh nghiệm thường ngày.
- Nhưng hình thức
thứ ba của dukkha là hành khổ (samkhàra - dukkha), mới chính là
khía cạnh triết lý quan trọng nhất trong chân lý đầu tiên. Muốn
hiểu nó, ta cần giải thích, phân tích cái mà ta gọi là một "thực
thể", một "cá nhân", hay "cái tôi".
- Cái mà ta gọi
"bản ngã", "cá thể", hay "tôi" theo triết lý Phật giáo, chỉ là một
sự phối hợp những năng lực tâm vật lý hằng biến, có thể chia thành
5 nhóm hay uẩn (pancakkhandha). Ðức Phật dạy: "Tóm lại, năm uẩn
trói buộc là dukkha"[8].
Ở một chỗ khác, Ngài định nghĩa rõ rằng "Dukkha là gì, phải
nói rằng đấy là ngũ uẩn"
[9].
Ðây ta cần hiểu rõ rằng dukkha và năm uẩn không phải là hai, năm
uẩn chính là dukkha. Chúng ta sẽ hiểu điểm này rõ hơn, khi có một
khái niệm về năm uẩn cấu tạo nên cái mà ta gọi là "thực thể" hay
"ngã". Năm uẩn ấy là gì?
- NGŨ UẨN
- Uẩn thứ nhất là
sắc uẩn (rùpakkhandha). Trong từ ngữ "sắc uẩn" này, bao gồm bốn
đại cổ truyền (cattàri mahàbhùtàni) là đất, nước, lửa, gió (địa,
thủy, hỏa, phong) và vật chất do bốn đại tạo (sở tạo sắc
upàdàya-rùpa)[10].
Trong những sở tạo sắc ấy gồm có năm căn, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và những đối tượng ngoại giới tương đuơng với năm căn ấy (5
cảnh): hình sắc, âm thanh, mùi, vị, những vật có thể chạm xúc
(sắc, thanh, hương, vị, xúc) và ý nghĩ hay tư tưởng thuộc đối
tượng của tâm (pháp xứ - dharmàyatana)[11].
Như thế tất cả thế giới vật thể, thuộc nội tâm cũng như ngoại
giới, đều bao gồm trong sắc uẩn.
- Uẩn thứ hai là
cảm giác hay thọ (vedanàkkhandha). Uẩn này bao gồm tất cả những
cảm giác vui khổ hoặc không vui không khổ, được cảm nhận do sự
tiếp xúc của những cảm quan tâm vật lý (căn) với thế giới bên
ngoài (cảnh). Những cảm giác này có 6 loại: những cảm giác phát
sinh khi mắt xúc tiếp với những hình sắc, tai với âm thanh, mũi
với mùi, lưỡi với vị, thân thể với những vật cứng mềm, và ý (mà
trong triết học Phật giáo được xem là quan năng thứ sáu) với những
đối tượng của ý thức hay tư tưởng, ý nghĩ[12].
Tất cả mọi cảm giác vật lý và tâm linh của ta đều bao hàm trong
uẩn này.
- Ở đây ta cũng
nên giải thích sơ lược về ý nghĩa bao hàm trong từ ngữ "ý" (manas)
của triết học Phật giáo. Cần hiểu rõ "ý" không phải là "tâm" đối
lập với vật. Ta nên luôn luôn nhớ Phật giáo không công nhận có một
tinh thần đối lập với vật chất như phần đông các hệ thống triết
học và tôn giáo khác chỉ là một giác quan hay cơ quan (căn,
indriya) như mắt hay tai. Nó có thể được điều khiển, phát triển
như bất cứ giác quan nào khác, và đức Phật thường nhắc nhở khá
nhiều về giá trị của sự chế ngự và điều phục sáu căn này: sự khác
biệt giữa mắt và tâm kể như những giác quan, là ở chỗ "mắt" nhận
biết thế giới màu sắc và dáng hình có thể thấy, trong khi "tâm"
nhận biết thế giới ý tưởng và đối tượng tâm thức. Chúng ta nhận
biết được những phạm vi khác nhau nhờ những quang năng khác nhau.
Ta không thể nghe màu sắc, mà thấy chúng. Ta cũng không thể thấy
âm thanh mà nghe chúng. Như thế với năm sắc căn của ta - mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân - ta chỉ nhận biết được thế giới hình sắc, âm
thanh, mùi, vị và những vật tiếp xúc, nhưng những thứ này chỉ là
một phần của thế giới, không phải là tất cả. Còn những ý niệm và
tư tưởng thì sao? Chúng cũng là một phần của thế giới vũ trụ.
Nhưng chúng không thể được nhận biết bằng khả năng của mắt tai,
mũi, lưỡi, hay thân, mà chúng có thể được quan niệm nhờ một quan
năng khác, tức là ý. Những ý niệm, tư tưởng tuy vậy không phải
biệt lập với thế giới mà năm sắc căn nhận biết. Quả vậy, chúng tùy
thuộc vào, và bị giới hạn bởi những kinh nghiệm vật lý. Bởi thế mà
một người mù từ sơ sinh không thể có ý niệm về màu sắc, trừ phi do
loại suy từ âm thanh hay vài sự vật khác do những căn khác của
người ấy cảm nhận. Những ý niệm và tư tưởng lập thành một phần của
thế giới, như vậy đã được phát sinh và giới hạn bởi những kinh
nghiệm vật lý và được quan niệm bởi tâm ý. Do đó mà ý (manas) cũng
được xem như một giác quan (căn) (indriya) như mắt hay tai.
- Uẩn thứ ba là
tưởng (sannàkkhandha) hay nhận thức, tri giác. Cũng như thọ, tưởng
gồm sáu loại, tương đương với sáu căn bên trong và sáu cảnh bên
ngoài, và cũng phát sinh do tiếp xúc giữa sáu căn với ngoại giới.
Chính tưởng này nhận biết sự vật là vật lý hay tâm linh[13].
- Uẩn thứ tư là
những tạo tác của tâm thức[14]
hay "hành uẩn" (samkhàrakkhandha). Nhóm này bao gồm tất cả các
hoạt động của ý chí, xấu hay tốt. Những gì thường được xem là
karma (nghiệp) cũng thuộc vào hành uẩn. Ở đây nên nhắc lại định
nghĩa của Phật về nghiệp: "Hỏi các Tỳ kheo, chính tư tâm sở hay ý
muốn (cetanà) ta gọi là nghiệp. Khi đã muốn, người ta liền thực
hành bằng thân, miệng, ý[15]
muốn là sự tạo tác bằng tâm ý, hoạt động tâm linh. Công việc của
nó là dẫn tâm làm những hoạt động xấu, tốt hoặc không xấu không
tốt[16].
Cũng như thọ tưởng, hành gồm sáu loại liên hệ đến sáu giác quan và
các đối tượng tương ứng thuộc vật lý, tâm lý[17].
Cảm giác và tri giác (thọ, tưởng) không phải là những hoạt động cố
ý nên không phát sinh nghiệp quả. Chỉ những hoạt động do ý chí
thúc đẩy như tác ý (manasikàra), dục (chanda), thắng giải
(adhimokkha), tín (saddhà), định (samàdhi), tuệ (pannà), tinh tấn
(viriya), tham (ràga), sân (patigha), vô minh (avijjà), kiêu mạn
(màna), thân kiến (sakkàyaditthi) v.v.. mới có thể phát sinh
nghiệp quả. Có tất cả 52 tâm sở (hoạt động tâm ý) như thế, tạo nên
hành uẩn.
- Uẩn thứ năm là
"thức" (vinnànakhandha)[18].
Thức là một phản ứng có căn bản là một trong sáu giác quan (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý), và đối tượng là một trong sáu hiện
tượng ngoại giới tương ứng (hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc giác
và sự vật thuộc tâm giới). Chẳng hạn, nhãn thức (cakkhavinnàna) có
con mắt làm căn bản cho nó và một hình sắc thấy được làm đối
tượng.thức (manovinnàna) có ý (manas) làm căn bản và một sự vật
thuộc tâm giới, nghĩa là một ý niệm hay tư tưởng (pháp), làm đối
tượng. Như thế thức liên quan với những quan năng khác và cũng như
thọ, tưởng, hành, thức gồm sáu loại tương quan với sáu căn và sáu
cảnh[19].
- Cần hiểu rõ
thức không nhận ra một đối tượng. Ðây chỉ là một thứ rõ biết - rõ
biết sự hiện diện của đối tượng. Khi mắt xúc tiếp với một màu sắc,
màu xanh chẳng hạn, nhãn thức liền phát sinh nhưng chỉ là sự ý
thức về hiện diện một màu sắc, chứ không nhận ra đấy là màu xanh.
Ở giai đoạn này chưa có nhận thức. Chính tri giác (tưởng uẩn thứ
ba) nhận ra màu xanh. Danh từ "nhãn thức" là một từ ngữ triết học
ám chỉ cùng một ý như chữ thấy thông thường. Thấy không có
nghĩa nhận biết. Các loại thức khác (nhĩ thức, tỉ thức, thiệt
thức) cũng thế.
- Ở đây, ta cần
nhắc lại rằng theo triết học Phật giáo không có một linh hồn
trường cửu bất biến nào có thể được xem là "ngã" hay "linh hồn",
hay "cái tôi" đối lập với sự vật, và thức (vinnàna) không nên xem
là "tâm" đối lập với vật thể. Ðiểm này cần được nhấn mạnh đặc
biệt, vì từ khởi thủy cho đến ngày nay vẫn có một quan niệm sai
lầm rằng ý thức là một thứ ngã hay linh hồn tương tục lập thành
một bản thể trường tồn.
- Một đệ tử Phật
tên Sàti cho rằng đức Ðạo sư đã dạy chính cái thức này luân chuyển
khắp các cõi. Phật hỏi ông ta hiểu thức là gì. Câu trả lời của
Sàti rất cổ điển: "Ðấy là cái gì diễn đạt, cảm giác và kinh nghiệm
kết quả của những hành động thiện ác chỗ này chỗ kia."
- Phật đã quở
trách: "Này kẻ ngu kia, ngươi đã nghe ta giảng kiểu ấy cho ai vậy?
Há ta đã không nhiều phen giải thích rằng do các duyên, thức sinh
khởi, không có các duyên thì không có thức sinh khởi hay sao?" Và
Ngài tiếp tục giảng giải chi tiết: "Thức được gọi tên tùy thuộc
vào điều kiện do đấy nó phát sinh: do duyên con mắt và sắc mà thức
sinh thì gọi là nhãn thức, do duyên tai và tiếng mà thức sinh thì
gọi là nhĩ thức, do duyên mũi và mùi mà thức sinh thì gọi là tỷ
thức, do duyên lưỏi và vị mà thức sinh thì gọi là thiệt thức, do
duyên thân và xúc mà thức sinh thì gọi là thân thức, do duyên ý và
pháp (tư tưởng, ý nghĩ) mà thức sinh thì gọi là ý thức.
- Phật làm sáng
tỏ thêm bằng một ví dụ: Một ngọn lửa được gọi tên tùy theo nhiên
liệu. Lửa được đốt bằng củi gọi là lửa củi; đốt bằng rơm gọi là
lửa rơm. Thức cũng thế được gọi tên tùy theo điều kiện phát sinh
ra nó.[20]
- Căn cứ điểm
này, Buddhaghosa (Phật Âm), một luận sư lỗi lạc đã giải thích:
"... một ngọn lửa cháy bằng củi chỉ cháy khi có củi, và sẽ tắt khi
hết củi, bởi vì khi ấy điều kiện hay duyên đã thay đổi (củi đã
thành tro). Ngọn lửa không quay sang cháy bằng tro và trở thành
một ngọn lửa tro vân vân. Cũng thế cái thức sinh do duyên con mắt
và sắc, chỉ sinh làm nhãn thức khi có các điều kiện mắt, hình
dáng, ánh sáng và sự chú ý; nó sẽ chấm dứt khi các điều kiện ấy
không còn, vì khi ấy điều kiện đã thay đổi. Thức ấy không quay
sang lỗ tai v.v.. và trở thành nhĩ thức v.v..[21]
- Phật tuyên bố
rõ ràng rằng thức tùy thuộc vào bốn uẩn kia là sắc, thọ, tưởng,
hành (vật thể, cảm giác, tri giác và ý chí), không thể tồn tại
biệt lập với những điều kiện này. Ngài dạy:
- "Thức có thể
tồn tại với sắc làm phương tiện (rùpupàyan), sắc làm đối tượng
(rùpàrammanam), sắc làm nơi nương tựa (rùpapatittham), và tìm lạc
thú trong ấy (sắc) nó có thể lớn thêm, tăng trưởng, phát triển.
Thức có thể tồn tại với thọ làm phương tiện, hay tưởng làm phương
tiện, hay hành làm phương tiện, hành làm đối tượng, hành làm nơi
nương tựa, và tìm lạc thú trong ấy, nó có thể tăng trưởng, lớn
lên, phát triển. Nếu ai bảo rằng họ có thể chỉ rõ sự xuất hiện,
sự ra đi, biến mất, sự sinh, tăng trưởng, phát triển của thức biệt
lập với sắc, thọ, tưởng, hành, thì đấy là nói một điều không thực
có."[22]
- Tóm tắt, đấy là
Ngũ uẩn. Cái mà ta gọi là một "linh hồn" hay "cá thể" hay "tôi",
chỉ là một tên gọi cho tiện hay một nhãn hiệu để đặt cho sự nhóm
họp của năm uẩn ấy. Tất cả chúng đều vô thường, tất cả đều hằng
biến. "Bất cứ gì vô thường đều là dukkha." Ðây là ý nghĩa chân
chính của lời Phật dạy: "Tóm lại, Ngũ uẩn trói buộc là khổ." Chúng
không còn là một, ở vào hai thời điểm tiếp nhau. Ở đây A không
bằng A. Chúng luôn luôn ở trong một dòng sinh và diệt từng giây
phút.
- "Hỏi các Bà la
môn, giống như một dòng thác núi chảy mau và trôi xa, cuốn theo
tất cả; không lúc nào, phút giây nào nó ngừng chảy, nó cứ tiếp tục
chảy trôi. Hỏi các Bà la môn, đời người cũng như giòng thác núi
kia."[23]
Như Phật dạy Ratthapàla: "Thế gian là dòng chảy tương tục, là vô
thường."
- Một sự vật biến
mất, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của vật kế tiếp trong một
chuỗi dài nhân và quả. Không có gì là bản thể bất biến ở trong
chúng. Không có một cái gì ở đằng sau chúng mà có thể gọi là một
cái ngã trường cửu (àtman), cá thể; không gì có thể được gọi là
"tôi" thực sự. Ai cũng sẽ đồng ý rằng không yếu tố nào, sắc hay
thọ hay tưởng, hay một hoạt động tâm linh nào thuộc hành uẩn, hay
thức, không một yếu tố nào trong số ấy có thể thực gọi là "tôi"[24].
Nhưng khi năm uẩn vật lý và tâm lý này vốn tương quan với nhau,
cùng hoạt động phối hợp như một bộ máy vật lý - tâm lý[25],
thì khi ấy ta có một ý tưởng về "tôi". Nhưng đây chỉ là một ý
tưởng sai lầm, một tạo tác của tâm thức thuộc về hành uẩn như đã
nói, hoạt động ấy là một tưởng về thân gọi là thân kiến
(Sakkàyaditthi).
- Năm uẩn ấy họp
lại, mà ta quen gọi là một "cá thể" chính là dukkha
(Samkhàra-dukkha). Không có cá thể hay "tôi" nào khác đằng sau năm
uẩn ấy để chịu khổ. Như Buddhaghosa đã nói:
- "Chỉ có đau
khổ, nhưng không có người khổ đau".
- Có nghiệp,
nhưng không có con người tạo nghiệp[26].
Không có một người đẩy xe bất động đằng sau sự chuyển động. Chỉ có
sự chuyển động. Không đúng khi nói rằng sự sống đang chuyển dịch,
mà sự sống chính là chuyển dịch. Sự sống và chuyển dịch
không phải là hai. Nói cách khác, không có người tư tưởng ở đằng
sau tư tưởng. Chính tư tưởng là người tư tưởng. Nếu tách bỏ tư
tưởng ra, ta sẽ không tìm thấy đâu là người tư tưởng. Ở đây ta
không khỏi nhận xét: quan điểm Phật giáo đối lập hoàn toàn với
Cogito ergo sum của Descartes: "Tôi suy nghĩ, vậy nên có tôi."
- Bây giờ, người
ta có thể đặt câu hỏi: Sự sống có một khởi điểm hay không? Theo
giáo lý đức Phật, khởi điểm của dòng sinh hoạt của chúng sinh thì
không thể nghĩ bàn. Người tin vào sự tạo dựng của Thượng đế có thể
ngạc nhiên trước giải đáp này. Nhưng nếu bạn hỏi họ: "Khởi thủy
của Thượng đế là gì?" Họ sẽ trả lời không do dự: "Thượng đế không
có bắt đầu" và họ lại không ngạc nhiên trước sự trả lời của chính
họ. Ðức Phật dạy: "Hỏi các Tỳ kheo, dòng luân hồi sinh tử
(samsàra) không có một kết thúc rõ rệt, và khởi thủy của chúng
sinh lăn lộn trong vô minh, bị dục vọng trói buộc, là chuyện không
thể nghĩ bàn[27].
Và về sau, nói đến vô minh, nguyên nhân chính của sinh tử, Phật
dạy: "Nguồn gốc của vô minh (avijjà) không thể được quan niệm để
cả quyết rằng bên ngoài một điểm nào đó, không có vô minh"[28].
Như thế không thể nói rằng không có sự sống ở bên ngoài một điểm
nào nhất định.
- Tóm lại, đấy là
ý nghĩa của Diệu đế về dukkha. Ðiều tối quan trọng là phải hiểu
chân lý thứ nhất này một cách rõ ràng bởi vì, như đức Phật dạy:
"Người nào thấy rõ được dukkha cũng thấy luôn nguyên nhân của
dukkha, cũng thấy luôn sự diệt dukkha và cũng thấy luôn con đường
đưa đến sự diệt dukkha"
[29].
- Ðiều này tuyệt
nhiên không làm cho đời của một Phật tử buồn sầu ảm đạm như vài
người lầm tưởng. Trái lại phật tử chân chính là người hạnh phúc
nhất trần gian. Người ấy không sợ hãi lo lắng. Họ luôn luôn bình
an thanh thoát, không thể bị tai nạn hay biến chuyển nào làm cho
điêu đứng đảo điên, vì họ thấy mọi sự đúng như thật. Phật không
bao giờ buồn sầu u ám. Ngài thường được những người đồng thời mô
tả là "luôn luôn mỉm cười" (mihita-pubbamgama). Trong hội họa và
điêu khắc Phật giáo, đức Phật luôn luôn được trình bày với một sắc
diện hạnh phúc, bình an, hài lòng và từ bi. Không bao giờ người ta
thấy một nét đau khổ điêu đứng hay cực lòng[30].
Mỹ nghệ và kiến trúc Phật giáo, những ngôi chùa thờ Phật không bao
giờ cho người ta cảm tưởng u ám buồn sầu, mà thường có không khí
bình an và thanh thoát.
- Mặc dù sự sống
có khổ đau, một Phật tử không nên vì vậy mà sầu khổ, mà oán hận
hay thiếu kiên nhẫn. Theo Phật giáo, một trong những điều xấu xa
nhất ở đời là nghịch ứng hay thù ghét. Nghịch ứng (patigha) được
giải là "sự thù ghét đối với chúng sinh, đối với đau khổ và đối
với những gì thuộc về khổ đau. Công việc của nó là làm căn bản cho
những hoàn cảnh bất hạnh và ác nghiệp"[31].
Vậy thiếu kiên nhẫn trước khổ đau là một điều sai lầm. Sự thiếu
kiên nhẫn hay oán hận trước khổ đau không làm cho đau khổ ấy tiêu
tan. Trái lại, thái độ ấy chỉ tổ tăng thêm rối ren và làm trầm
trọng thêm một hoàn cảnh vốn đã khó chịu. Ðiều cần thiết không
phải là oán hận hay thiếu kiên nhẫn, mà phải hiểu rõ vấn đề khổ
đau, xem nó đã phát sinh thế nào, làm sao xua đuổi nó, rồi tùy
theo đấy mà hành động với kiên nhẫn, thông minh, quả cảm và nghị
lực.
- Có hai bản kinh
xưa cũ gọi là Trưởng lão kệ (Theragàthà) và Trưởng lão ni kệ
(Therigàthà) chứa đầy những lời hoan hỉ của các Tăng Ni đệ tử
Phật, những người đã tìm thấy an vui hạnh phúc trong đời nhờ giáo
lý của Ngài. Vua xứ Kosala một hôm bạch Phật: "Khác với nhiều đồ
đệ của các hệ thống tôn giáo khác thường trông hốc hác, thô kệch,
xanh xao, tiều tụy ít ưa nhìn, những đệ tử Phật luôn luôn vui vẻ,
thanh thoát, hồn nhiên, sung sướng, vui hưởng lạc thú đời sống tâm
linh, không lo âu, bình an, thư thái." Vua thêm rằng ông tin tính
chất lành mạnh đó là do ở chỗ "những vị thượng tọa này chắc chắn
đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của đức Thế Tôn"[32].
- Phật giáo hoàn
toàn đối lập với thái độ buồn sầu, phiền muộn, u ám, xem đấy là
một trở ngại cho sự thực hiện chân lý. Trái lại, ta nên nhắc lại ở
đây rằng sự vui sướng, "hỉ" (pìti), là một trong bảy yếu tố để đạt
giác ngộ hay "thất giác chi" (Bojjhamgas), những đức tính cốt yếu
phải được đào luyện để thực hiện Niết-bàn
[33].
-
Ghi chú:
-
[1]
Dhammacakkappavattana-sutta: "Chuyển pháp luân kinh". Mhvg.
(Alutgama, 1922), p.9 ff, SV (PTS), p.420 ff.
-
[2]
Tác giả để nguyên danh từ dukkha trong nguyên bản thay vì
dịch dễ gây hiểu lầm.
-
[3]
A (Colombo), 1929, p.49
-
[4]
Mahàdukkhakkhandha-sutta, M I (PTS), p.90
-
[5]
M I (PTS), p.85 ff, SIII (PTS), p.27 ff.
-
[6]
M I (PTS), p.87
-
[7]
Vism (PTS), p.499, Abhisamuc, p.38
-
[8]
Samkhittena pancupàdànakkhandhà dukkhà. SV (PTS) p.421
-
[9]
S III (PTS), p.158
-
[10]
S III (PTS), p.59
-
[11]
Abhisamuc, p.4
-
[12]
S III (PTS), p.59
-
[13]
S III (PTS), p.60
-
[14]
"Hành" là một danh từ nay thường dùng để diễn tả ý nghĩa
rộng lớn của chữ samkhàra trong ngũ uẩn. Samkhàra
ở trường hợp khác có thể chỉ bất cứ cái gì giới hạn, trong ý
nghĩa này tất cả năm uẩn đều là samkhàra.
-
[15]
A (Colombo, 1929) p.590- Cetanàham, bhikkhave kammam vadàmi.
Cetayitvà kammam karoti kàyena vàcà manasà.
-
[16]
Abhisamuc, p.6
-
[17]
SIII (PTS), p.60
-
[18]
Theo Phật giáo Ðại thừa, Thức uẩn có 3 phương diện: Tâm (citta),
ý (manas) và thức (vijnàna) và tàng thức (Alayà vijnàna) cũng ở
trong uẩn này. Một sự nghiên cứu chi tiết và tỉ giảo về vấn đề
này sẽ được tìm thấy trong 1 tác phẩm xuất bản của biên giả về
triết học Phật giáo.
-
[19]
S III (PTS), p.61
-
[20]
Ái tận đại kinh, Trung I ,PTS, p.256
-
[21]
MA II, PTS, p306-307
-
[22]
S III (PTS), p.58
-
[23]
A (Colombo, 1929), p.700. Ðiều thú vị là Hêraclite sống vào
khoảng thế kỷ thứ năm trước Công nguyên cũng nói tương tự: Không
bao giờ ta tắm hai lần trong cùng một dòng sông, vì luôn luôn
giòng nước mới sẽ chảy đến.
-
[24]
Lý thuyết Anatta "vô ngã" sẽ được bàn trong chương sáu.
-
[25]
Buddhaghosa so sánh một con người với một động cơ bằng gỗ
(dàruyanta) Vism. (PTS), pp. 594-595.
-
[26]
Vism (PTS), p.513
-
[27]
S III (PTS), p.178-179, III pp. 159,151
-
[28]
AV (PTS), p.113
-
[29]
AV (PTS), p.437. Quả thé, Phật dạy ai thấy bất kỳ chân lý nào
trong bốn chân lý cũng sẽ thấy được cả ba cái còn lại.
-
[30]
Có một tượng Phật ở Gandhara, và cũng có ở Phúc Kiến, Trung Hoa,
trình bày đức Phật như một nhà khổ hạnh tiều tụy gầy để lộ cả
xương sườn. Nhưng đấy là trước khi Giác ngộ, lúc Ngài theo lối
tu khổ hạnh mà sau này khi đã thành Phật, Ngài bài bác.
-
[31]
Abhisamuc, p.7
-
[32]
M II (PTS), p.121
-
[33]
Về "Thất Bồ đề phận" xem chương VII, về Thiền quán.
--o0o--
|
|