|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Một
-
02- HỒNG DANH
-
Hồng danh là nghi thức Mật tông. Trong Mật tông vai trò bậc Thầy
còn quan trọng hơn cả Tam bảo, vì nhờ Thầy mà ta biết được Ba
ngôi báu, nên trước khi đảnh lễ Tam bảo ta phải đảnh lễ bậc Thầy
đã đưa mình vào đạo lộ Kim cang thừa:
-
“Nam
mô quy y Kim cang thượng sư”.
-
Kim cang thừa là cỗ xe Phật đạo, cỗ xe cao nhất, trực chỉ, “tức
thân thành Phật”, không qua các giai đoạn. Ngay trong thân và
tâm hiện tại, ta phải trực nhận Phật tính đầy đủ vô lượng công
đức vô lượng trí tuệ, và đồng thời trực nhận Phật tính ấy nơi
tất cả mọi người, bỏ qua những hiện tượng bất toàn của thế gian.
Giây phút nào mà ta trực nhận được Phật tính nơi tự thân và nơi
tha nhân, là giây phút đó bản thân và hoàn cảnh ta được chuyển
hóa: cõi chúng sinh thành cõi Phật, vì trong đó chúng sinh đang
thành Phật. Cho nên tiếp dến, có câu: “Con nay phát tâm
không để tìm hạnh phúc trong cõi người, cõi trời, hay để làm các
bậc thánh thanh văn, độc giác, hay trải qua 53 địa vị Bồ tát là
những giai đoạn tạm thời. Mà con phát tâm là chỉ nhắm đến một
cảnh giới duy nhất, đó là cảnh giới mà trong đó mọi người đều là
Phật. Xin cho tất cả chúng sinh cùng được chứng quả vị Vô thượng
bồ đề, thành Phật”.
-
Sau khi đã nguyện như thế rồi, hành giả phải quán tưởng tất cả
vũ trụ đều là cõi Phật, tất cả chúng sinh trong đó đều là Phật,
và đảnh lễ: “Con xin quay về nương tựa vô lượng chư Phật trong
mười phương, cùng khắp không gian”.
-
Đã
thấy được tất cả chúng sinh là Phật, thì cũng thấy được tất cả
hiện tượng trước mắt đều là Pháp, nghĩa là chân lý giúp ta giải
thoát. Cho nên hành giả đảnh lễ: “Con xin quay về nương tựa tất
cả chính lý ở nơi mọi sự trong khắp không gian vô cùng tận”. Tất
cả mọi sự, mọi hiện tượng trên thế gian đều là Pháp, bởi vì
trong cái giả ta tìm được sự thật, nhờ cái sai ta biết được cái
đúng, trong vô thường ta thấy được chân thường, trong khổ ta
thấy được đâu là hạnh phúc chân thực. Đã thấy được tất cả chúng
sinh là Phật, hay đúng hơn, thấy được cốt lõi Phật tính nơi tất
cả chúng sinh, thì đồng thời cũng thấy được tính thanh tịnh vốn
có nơi chính mình và mọi người.
-
Tính thanh tịnh đó làm nên hiền thánh, nên ta đảnh lễ tất cả
hiền thánh tăng ở cùng khắp mười phương không gian vô tận: “Con
xin quay về nương tựa tất cả các bậc hiền thánh trong không gian
vô cùng tận”. Phải “quay về” là vì nếu chỉ chấp tướng bề ngoài
thì ta không thể thấy tính tịnh nơi mọi người được. Khi thấy một
người đang hiện tướng giận dữ tham lam, nhưng nếu ta bình tâm
“quay về” cái nơi xuất phát cơn giận dữ tham lam ấy, thì ta vẫn
thấy được nó vốn tịch mịch, đồng nhất với tâm Phật và tâm của
tất cả mọi người. Như thế là ta “quay về nương tựa tất cả thánh
hiền”.
-
Kế
tiếp, hành giả đảnh lễ đức Phật đầy đủ mười hiệu.
-
1.
“Như Lai”
-
“Như” ám chỉ khía cạnh bất biến của pháp thân bất sinh diệt,
“lai” ám chỉ khía cạnh tùy duyên của ứng thân có sinh diệt. Phật
“đến” với chúng ta khắp mọi nơi trên cõi đời đau khổ, nhưng đồng
thời Ngài vẫn “như”, vẫn luôn luôn thanh tịnh, niết bàn. “Như”
là vừng trăng trên trời, “lai” là bóng trăng dưới nước, ngàn
giếng nước thì có ngàn bóng trăng xuất hiện, nhưng gốc chỉ là
một vừng trăng. Tâm ta như hồ nước, khi trong lắng sẽ có bóng
trăng Phật xuất hiện trong đó. Như Lai là trung đạo nơi Phật: ở
trong sinh tử mà không nhiễm sinh tử, ở trong Niết bàn nhưng
không bỏ quên chúng sinh mà vẫn “đến” với chúng sinh, miễn rằng
chúng sinh có đủ điều kiện, sẵn sàng để đón tiếp Ngài: như giếng
nước phải trong lặng, vào đêm rằm không có gió thì vừng trăng
mới xuất hiện tròn vẹn và trong sáng.
-
Trong kinh Kim Cương có ba câu giải thích danh hiệu Như Lai: Câu
thứ nhất: Như lai thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ
giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả (đoạn 17–theo cách
phân 32 đoạn của Chiêu minh thái tứ.). Câu thứ hai: Như lai
giả, tức chư pháp như nghĩa (đoạn 17). Câu thứ ba: Như
lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như lai
(đoạn 29).
-
Câu thứ nhất ám chỉ ngữ hành của Phật: Như Lai là đấng nói lời
chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời không khác. Lời chân
là lời đúng sự thật không phải bày đặt để nói, lời thật là không
dối trá, lời như là trước sau như một không mâu thuẫn.
-
Câu thứ hai: Như lai là nghĩa như của các pháp. Đây không còn
nói về người như câu trên mà nói về pháp; khía cạnh như như bất
biến nơi các pháp. Mọi sự vật thiên hình vạn trạng đều bao hàm
trong chữ pháp và có một đặc tính chung giống nhau là vô ngã,
như câu Pháp cú
Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã.
Vô ngã nghĩa là không có tính cố định bất biến, chỉ do kết hợp,
phân biệt đối đãi mà thành có ra một cái tên nên vô ngã cũng còn
gọi là giả danh. Như cùng một chất bột nắn ra nhiều thứ bánh rồi
đặt tên khác nhau. Thấy được tính duyên sinh, vô ngã nơi các
pháp (cả pháp phàm như 5 uẩn 4 đại, lẫn pháp thánh như vô thượng
bồ đề) cũng chính là thấy Phật vì Phật và Pháp (trong nghĩa niết
bàn hay chân lý Phật chứng) cũng vô ngã. Đoạn 17 của Kinh còn
dạy tiếp để ta thấy rõ tính vô ngã của thánh pháp như sau: Không
có cái phương pháp cố định nào tên là pháp (cách đạt đến) vô
thượng bồ đề, tất cả pháp đều là Phật pháp. Cũng không có một
pháp cố định nào Như Lai có thể nói. (Vô hữu định pháp danh a
nậu đa la tam niệu tam bồ đề, diệc vô hữu định pháp Như lai khả
thuyết). Người đưa đò sang sông nhờ chuyên tâm nghiền ngẫm
về dòng sông mà giác ngộ nên dòng sông đối với ông ta chính là
cái pháp để thành Phật. Trong khi đó không hiếm gì người nghiên
cứu kinh điển rồi vì lợi danh mà bóp méo lời Phật, hoặc trích
dẫn lời Phật nhưng không đúng chỗ đúng lúc đúng người thì Pháp
lại thành phi pháp; chỉ là một phương tiện sinh nhai của người
nói và đánh lạc hướng những người nghe thiếu suy nghĩ.
-
Câu thứ ba: Như lai là không từ đâu lại và cũng không đi về đâu
(Như lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ cố danh Như lai);
đến đồng nghĩa với sinh ra, đi đồng nghĩa với diệt mất, Phật
không đến không đi tức là bất sinh bất diệt. Thấy được bất sinh
bất diệt cũng là thấy Phật vậy. Bất sinh bất diệt chính là cái
Tâm bất sinh mà chiếu sáng kỳ diệu trong pháp thiền của tổ sư
Bàng Khuê (Bankei).
-
2.
“Ứng cúng”
-
Phật là nơi đáng cúng dường nhất, bằng những phẩm vật tối thượng
trong ba cõi. Nghi lễ mật tông thường cúng tất cả vũ trụ, sơn hà
đại địa, núi Tu di và biển cả cho Phật. Vì sao lại đem cúng Phật
những cái không phải của mình? Vũ trụ, núi, biển, gió, trăng...
tuy không phải của mình, song cũng không phải của bất cứ ai, nó
do cọng nghiệp của tất cả chúng sinh (trong đó có mình) tạo nên.
Do vậy vẫn có thể cúng được như thường. Lý do vì công đức của
Phật quá lớn lao không thể nào nói cho xiết, dù ta có bỏ cả vô
số kiếp mà nói đi nữa. Công đức ấy không có phẩm vật gì thích
hợp để cúng dường, ngoài ra là cúng dường cho Ngài tất cả vũ trụ
với sơn hà đại địa, núi tu di và biển cả và tất cả mọi thứ bao
gồm trong đó, kể cả thân tâm ta. Cũng như những người yêu nhau
tha thiết không biết cho người mình yêu cái gì cho xứng với tấm
lòng ngưỡng mộ, bèn đem tặng cả mùa xuân, cả lộc non, hoa lá,
đường lao xao phố chiều, đất mẹ với chim chóc bốn mùa.
-
“Ứng cúng” còn chỉ bậc thánh đã chứng A la hán quả. Vì chỉ có vị
ấy mới xứng đáng với sự cúng dường, gọi là dùng bốn thứ cúng
dường về ăn, mặc, ở, bệnh, với tư cách như chủ nhân sử dụng vật
sở hữu của mình, “dùng như chủ”. Từ quả Dự lưu cho đến
Bất hoàn sử dụng bốn thứ cúng dường thì gọi là “dùng như thừa
tự”: những vị này giống như con thừa hưởng gia tài của cha (là
Phật), khi sử dụng bốn thứ cần dùng mà thí chủ vì lòng tin Phật
đã đem cúng dường. Còn lại toàn là “dùng như mang nợ” (những
người tu chưa đắc quả, không chính niệm) và “dùng như ăn cướp”
(những người phá giới).
-
3.
“Chính biến tri”
-
Biết một cách chân chính, đúng sự thật (chính), và biết tất cả
các pháp trên thế gian (biến). Nghĩa là Ngài dung thông cả tục
đế lẫn chân đế. Biết tục đế là để độ chúng sinh tùy theo trình
độ của họ (khế cơ). Biết chân đế là an trú trong Tính không,
không thấy có ta đây là người độ và chúng sinh là kẻ được ta độ
(khế lý).
-
4.
“Minh hành túc”
-
Là
đầy đủ trí tuệ (minh) và giới đức hay công hạnh độ sinh (hạnh).
-
5.
“Thiện thệ”
-
Là
vượt qua (các nhiễm ô hữu lậu) một cách khéo léo dứt khoát, một
đi không trở lại.
-
6.
“Thế gian giải”
-
Là
hiểu rõ thế gian (cuộc đời này) một cách tường tận, nhờ hiểu rõ
nên giải thoát. Có ba loại thế gian, Phật đều biết rõ: “hữu tình
thế gian”, là tất cả những loài có tình thức trong pháp giới và
tâm lý của chúng; “khí thế gian”, là tất cả chỗ ở của các hữu
tình ấy (vũ trụ quan Phật giáo); và “chính giác thế gian” là cái
thấy của Phật về vũ trụ, với con mắt bậc Giác ngộ.
-
7.
“Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu”
-
Là
đấng không ai sánh bằng hay hơn được (vô thượng sĩ), vì Ngài có
năng lực chế phục được những con người thông minh cang cường
thuộc nam giới, hay những người có căn tính linh lợi vượt bực
bất kể nam nữ.
-
8.
“Thiên nhân sư”
-
Là
bậc Thầy của cả chư thiên và nhân loại.
-
9.
“Phật”
-
Là
đấng giác ngộ, đầy đủ ba khía cạnh là tự giác giác tha và giác
hành viên mãn. Hành vi khai hóa cho người khác của Phật viên mãn
ở chỗ tất cả chúng sinh quay về nương tựa Phật thì đều được mong
ân giáo hóa, không hạn cuộc không gian thời gian. Như ngày nay
đạo Phật đã lan tràn khắp thế giới. Ở đại học Harvard nổi tiếng
của Hoa kỳ có một trung tâm nghiên cứu thiền học. Tại trung tâm
nước Pháp có Dordogne với những hang động tu thiền dành cho tất
cả mọi người khắp thế giới đến tu, cùng với nhiều trung tâm
giảng dạy Phật học và hướng dẫn tu thiền, do chính những thiền
sư người Pháp đảm trách.
-
10. “Thế tôn”
-
Là
đấng tôn quý nhất trên đời, không ai sánh kịp.
-
Đảnh lễ Tam bảo và mười danh hiệu Phật xong, hành giả kế tiếp
đảnh lễ hồng danh chư Phật, từ đức Phật Phổ Quang cho đến đức
Phật A Di Đà, vị Phật có thân ẩn tàng trong khắp vũ trụ, đâu đâu
cũng có: “Nam mô Pháp giới tàng thân A Di Đà Phật”. Mỗi vị Phật
ít nhiều đều biểu trưng cho một đức tính nơi tự thân tâm ta, cho
những khả năng tiềm tàng trong chính ta. Lạy Phật là khơi dậy
những khả năng tốt lành ấy đang bị che mờ vì vô minh phiền não.
Bất cứ một đức Phật nào cũng đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng
phước đức cho nên lạy một vị Phật cũng là lạy tất cả chư Phật,
và cũng là lạy những tiềm năng quý báu đang ngủ quên trong tâm
ta. Ta phủ phục mà mời chúng trỗi dậy, đừng mê ngủ nữa. Bởi
chính vì ta để cho Phật tính ngủ quên mà đời ta đã trở thành một
mớ hỗn mang đau khổ. Lạy đức Phật Phổ Quang, Phổ Minh cũng là
lạy ánh sáng trí tuệ trong tự tâm ta. Lạy đức Phật Chiên đàn
hương, ta khơi dậy trong ta hương Giới có thể bay ngược gió cùng
xuôi gió. Lạy Phật Hoan hỉ tạng là ta nguyện cho tâm ta có đầy
đủ đức tính quý báu như châu ngọc tích tụ, và nhờ vậy trở thành
một kho tàng của sự hoan hỉ, đời ta không còn u sầu ảm đạm vì
ngã chấp, não phiền.
-
Như vậy, lạy một vị Phật là đánh thức một đức tính đang ngủ quên
trong tâm. Ta cũng có thể tha thiết thầm niệm trong lòng mỗi khi
phủ phục, như sau: “Xin cho con khơi dậy được đức tính siêng
năng hành thiện, làm cho tất cả mọi người thấy con đều vui vẻ”
trong khi ta xướng danh hiệu: Nam mô Nhất thiết thế gian nhạo
kiến thượng đại tinh tấn Phật. Hoặc “Xin cho con có sức dũng
mãnh tinh tấn để diệt trừ các thói xấu khi xướng: Nam mô Đại
cường tinh tấn dũng mãnh Phật. Khi niệm danh hiệu Nam mô
Từ tạng Phật cũng có nghĩa là “Xin cho tâm con trở thành kho
tàng thương yêu với tình yêu bình đẳng”. Khi niệm
Nam mô Đại bi quang Phật
là “Xin cho tâm con tỏa sáng lòng thương xót bao la đối với
những người đau khổ”. Nam mô Kim cương bất hoại Phật cũng
có nghĩa là , “Xin cho lòng tin Phật trong con được kiên cố
không ai lay chuyển nổi, như kim cương không thể hư hoại” vân
vân. Như thế là cách phối hợp tự lực và tha lực, hành trì pháp
sám hối bằng cách thanh lọc thân tâm, vận chuyển tất cả tế bào
trong cơ thể thành một năng lực lành mạnh, tinh khiết, để từ đấy
phát triển vô lượng khả năng tất đẹp nơi chính mình.
--o0o--
|
|