|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Hai
-
7- THÂN HÀNH NIỆM
-
-
Thân hành niệm là một pháp tu được Phật tán dương không tiếc lời, trong nhiều
kinh thuộc cả hai hệ thống A hàm và Bát nhã. Lấy ví dụ trong Tăng chi 1, trang
43, Ngài dạy: “Này các tỷ kheo, có một pháp môn này, được tu tập, được làm cho
sung mãn, sẽ đưa đến quả báo lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn, khỏi các khổ ách,
đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, chứng ngộ minh giải
thoát. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân hành niệm”. Và: “Hỡi các tỷ kheo, ai
thưởng thức thân hành niệm, người ấy nếm vị Bất tử, ai không thưởng thức thân
hành niệm, người ấy không được nếm vị bất tử”.
-
Thân hành niệm bao quát đến 14 pháp trong số 40 đề mục thiền nguyên thủy, chưa
kể đến pháp quán bộ xương ở nghĩa địa, thuộc một giai đoạn của tuệ gọi là quá
hoạn trí, bố úy trí, hành xả trí. Mười bốn pháp đó là 10 giai đoạn thây chết,
phân tích bốn đại, quán bộ xương qua chín giai đoạn (cửu tưởng), niệm hơi thở
và mệm thân hành. Tất cả 14 pháp đó đều được gọi chung là thân hành niệm.
Niệm thân được kể trong số 10 tùy niệm là niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới,
Thí, Thiên, Chết, Diệt, Hơi thở, Thân hành. Niệm thân mà ngang hàng với niệm
Phật, quả thực là chuyện lạ đời, bất kính, nếu nó không phải do chính đức Phật
giảng dạy. Chẳng những thế, niệm Phật kể như đề mục thiền, nghĩa là tưởng niệm
các trí đức, đoạn đức, ân đức của Ngài, thì vì hành giả bận suy tưởng nhiều
thứ nên không đắc định, còn niệm thân hành vì thuộc loại “phi tự tính” như các
kasina, nên tâm có thể đắc an chỉ và chứng các thiền, cho đến chứng ngộ minh
giải thoát (vijjamutti). Niệm Phật chỉ đạt được định cận hành mà thôi. Niệm
thân và niệm Phật đều là những cửa vào đạo, điều này khiến ta nhớ tới câu Kinh
Kim cương: “Thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ” (các pháp đều có
giá trị ngang nhau không cao thấp). Hơn nữa, Phật còn dạy, trong quá khứ,
những ai đã đạt niết bàn, thành Phật, đều đã tu pháp này, và trong tương lai
cũng vậy. “Chỉ trong pháp môn này mới có đệ nhất sa môn, đệ nhị sa môn, đệ tam
sa môn, đệ tứ sa môn”. Các thánh quả thanh văn cũng xuất phát từ thân hành
niệm mới thành. Ai có thể nói việc trên trời dưới đất, cùng khắp vũ trụ, mà
chưa biết rõ về chính mình, chưa tu thân hành niệm, thì cũng chỉ mới chạy vòng
ngoài, còn lâu mới giải thoát đau khổ. Vì thế Socrate nói, “Hãy tự biết mình”.
(Connais-toi toi-même).
-
Trong khi những vị giáo chủ ngoại đạo, những triết gia ở đời xem thân thể là
điều húy kị (taboo) không dám bàn, hoặc xem như đầu mối của tội ác cần phạt
trị bằng ép xác khổ hạnh để chuộc tội, thì đức Phật lại sử dụng thân làm đề
tài tu tập, như các ngoại đạo tưởng niệm thần linh, hay như “niệm chư thiên”
do chính Phật dạy: đây quả thực là một cuộc cách mạng lớn trong địa hạt tâm
linh chưa từng thấy trước khi đấng Giác ngộ ra đời.
-
Niệm thân là nghĩ đến thân thể. Thật là đơn giản đến quái dị, khi ta nghe Phật
dạy một pháp môn này có thể đưa ta đến an ổn thoát khỏi khổ ách, và lại còn
chứng ngộ minh kiến giải thoát, thành Phật. Ai mà không nghĩ đến thân mình?
Chúng ta đều nghĩ đến thân, lo cho thân mình, nghĩ quá nhiều đi nữa là đằng
khác. Thế thì tại sao chúng ta không thành Phật, mà chỉ một mình đức Thích Ca
thành Phật thôi? Tại sao mọi người đều nghĩ tới thân thể, mà chẳng những không
thành Phật, lại làm cho cuộc đời ngày càng thêm loạn? Vậy hãy xét lại kiểu
niệm thân của chúng ta trước khi học tập pháp niệm thân mà Phật dạy.
-
Chúng ta niệm thân kiểu thế này: Sáng nay ta sẽ ăn cái gì? Trưa ăn món gì?
Chiều đổi món gì cho khoái khẩu? Tuần này có tuồng cải lương nào hấp dẫn
không? Rạp chiếu bóng có phim nào coi được không? Mới mướn bộ băng Tây du ký
về, phải coi cho hết, hãy nghỉ thọ Bát quan trai một kỳ. Hôm nay ăn liên hoan
mà đụng ngày mồng một mình ăn chay uổng quá, thôi thì cứ ngã mặn, mai hãy ăn
bù cũng được... Chúng ta lo tính chuyện ăn, chuyện mặc, sắm xe, sửa nhà, mua
tivi, tủ lạnh, tất cả đều vì nghĩ đến tấm thân, làm sao cho nó được sống thoải
mái, hưởng thụ tối đa. Người nghèo lo làm cho đủ nuôi thân ngày hai bữa. Người
dư của tiền, ăn mặc thừa thãi thì lo kiếm cách giải trí cho thân xác đỡ buồn
chán, bằng cách tìm các lạc thú giác quan đủ loại từ hạ cấp như rượu chè đến
cao cấp như cầm kỳ thi họa nhạc. Bận rộn suốt đời vì cái thân xác mà vẫn thấy
trống rỗng vô vị, càng giàu có, hưởng thụ nhiều thì càng dễ buồn chán vì giác
quan dần trở nên chai lì bởi những âm thanh chát chúa, màu sắc thác loạn. Mọi
nỗ lực dường như đều nhằm thỏa mãn nhu cầu giác quan: những quán hàng, tụ điểm
ăn chơi, ca nhạc, nhảy nhót... càng tấp nập bao nhiêu càng chứng tỏ tình trạng
nghèo nàn, cô độc của cá nhân bấy nhiêu: có buồn sầu, trống rỗng mới tìm cách
giải sầu cấp thiết đến thế:
-
Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo
-
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
-
Lòng nghiêng tràn hết đau thương...
-
(Thơ say – Vũ Hoàng Chương)
-
Vì quá lo cho thân xác, mà chúng ta đi đến tàn mạt, trở thành một “khách
phong trần” lạc mất quê hương:
-
Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
-
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
-
Bôn ba làm khách phong trần mãi
-
Ngày hết, quê xa vạn dặm đường.
-
(Trần Nhân Tông)
-
Như vậy cái kiểu “niệm thân” của ta hóa ra chỉ là một cách lãng quên thân,
vong thân tán mạng.
-
-
PHẠM VI THÂN HÀNH NIỆM
-
Bây giờ, chúng ta hãy học tập cách niệm thân mà Phật dạy là có lợi ích lớn,
đem lại an ổn lớn thoát khỏi khổ ách. Cách niệm thân này bao gồm sáu việc sẽ
tuần tự đề cập sau đây.
-
a.
Quán 32 uế vật
-
Đầu tiên là quán 32 uế vật tập họp thành cái thân của ta, còn gọi là QUÁN BẤT
TỊNH. Nó có tác dụng trừ khử lòng tham sắc dục nơi người nhiều tham dục. Hành
giả trước hết phải học thuộc lòng như tụng kinh, các món sau đây:
-
Tóc, lông, móng, răng, da
-
Thịt gân, xương, tủy, thận
-
Tin, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi
-
Ruột non, ruột già, màng ruột, phân, não
-
Mật, đàm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ
-
Nước mỡ, mắt, bọt, mũi, khớp, tiểu.
-
(tức 6 chất lỏng: mỡ nước, nước mắt, nước miếng, mũi nước, nước nhờn giữa các
khớp xương và nước tiểu).
-
Sau khi thuộc lòng đến độ có thể đọc theo thứ tự xuôi cũng như ngược cả trăm
ngàn lần, hành giả kế tiếp quan sát kỹ từng món trên tử thi, chú ý màu sắc,
hình dạng, vị trí, giới hạn của nó, và đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh bất tịnh.
Sau khi nắm vững hai việc này, thuộc lòng và quan sát, hành giả mới ngồi xuống
nhắm hai con mắt lại mà quán toàn bộ 32 thứ như niệm một xâu chuỗi tràng có 32
hột. Hột nào nổi bật nhất hành giả sẽ chú tâm vào đó cho tới khi đắc sơ
tướng, tợ tướng thuộc sơ thiền. Có thể đắc một định tướng sơ thiền cho mỗi
món, hết món này quán món khác, như trưởng lão Mallaka có thể nhập định sơ
thiền liên tục 16 ngày đêm do quán mỗi ngày một vật, mỗi đêm một vật. Pháp
quán này không đắc gì cao hơn định tướng sơ thiền, vì không vượt qua TẦM TỨ,
nhưng cũng giúp hành giả sống một đời an lạc nhờ nhiếp phục được tham ái. Khi
thuần thục trong pháp quán này, ta sẽ thấy mọi thân thể đều giống nhau, xác
sống cũng như xác chết không có gì đáng tham đắm. Nhìn mỗi cái thân người di
động ta không còn thấy là trai hay gái, trẻ hay già, mà chỉ thấy như một bao
đồ cứu trợ nạn lụt gồm 32 món đồ cũ. Nó mất hết dáng vẻ yêu kiều diễm lệ mê
hoặc con người. Khi ấy ta nhìn tóc chỉ là tóc, có thể có chí rận hoặc có tưởng
gì thêm thì cũng chỉ tưởng đến lúc đốt lên nghe mùi khét lẹt, chứ không tưởng
theo kiểu thơ mộng như thi sĩ:
-
Một buổi trưa nắng vàng in lên tóc
-
Mây trên trời xuống phủ ở trên vai
-
Một cái mặt chỉ là một cái mặt, chỉ là tóc lông móng răng da, chứ không có
chuyện tưởng ra cái hoa được như Lý Bạch:
-
Áo
ngỡ mây vờn, mặt ngỡ hoa
-
(Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
-
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng)
-
Thi văn bay bướm đôi khi có hại, nó kích động trí tưởng tượng của ta đi xa sự
thật quá nhiều. Nghe các thi hào Lý Bạch, Bạch Cư Dị tả vẻ đẹp của Dương quý
phi, ta cũng muốn đi ngược dòng thời gian sống lại thời vua Hán để coi nàng
đẹp tới cỡ nào mà thi tổ phải hạ bút:
-
Thiên sinh chất lệ nan tự khí
-
(Vẻ diễm lệ trời bày khó bỏ)
-
Và:
-
Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh
-
Lục cung phấn đài vô nhan sắc
-
(Khi nàng quay đầu mỉm cười một cái, thì trăm vẻ diễm lệ nổi lên, làm cho các
mỹ nữ trong ba cung sáu viện bỗng trở thành xấu xí đáng cho về vườn hết
trọi.)
-
Quả thật là một nét bút thần tình mô tả mỹ nhân, làm cho ta trong phút chốc
quên mất thân hành niệm. Nàng đẹp tới nỗi muốn vứt cái đẹp đi cũng không được
(nan tự khí), đẹp một cách tự nhiên không cần trang sức, uốn éo làm bộ làm
tịch gì cả. Người đẹp ngày nay phải nhờ đến mỹ viện chống lỗ mũi, căng da xẻ
cằm cắt mắt nhổ răng... và trét thêm bao nhiêu thứ khác nữa mới được cho là
đẹp. Dương quý phi trái lại, muốn bỏ bớt cái nhan sắc cũng khó; mỗi khi nàng
cảm thấy lúng túng vì vẻ lộng lẫy của mình. Ôi, nếu không có hai thi hào lỗi
lạc ấy thì Dương quý phi đã thành cát bụi từ khuya, làm sao còn được nhắc nhở
một cách sống động như thế? Làm cho người ta phải tưởng tượng đến cái nhan sắc
đã qua của một thời vang bóng? Chẳng những mắt chúng ta hiện tại chạy theo
hình sắc, mũi chạy theo hương, mà tâm tưởng còn đuổi theo những bóng hình quá
khứ làm mất cảnh giác đối với sự vật hiện tiền.
-
Chính vì cảm giác và ý tưởng của chúng ta cũng cần những món ăn như thân xác,
nên ta đánh giá cao những tác phẩm nghệ thuật, và hâm mộ các thi hào, họa sĩ,
diễn viên xuất sắc, cũng như ta ngưỡng mộ những đầu bếp giỏi.
-
Pháp môn quán 32 vật trong thân kéo ta trở về thực tại, nhìn thẳng vào thực
chất thân xác, không có màu mè thêm bớt cái gì cả. Xác sống xác chết đều như
nhau, thân ta và thân người cũng thế, chỉ là một tập hợp các chức năng khác
nhau, như những bộ máy gồm nhiều phần ráp lại mới chạy được. Chỉ là tóc, lông,
móng, răng da, thịt, gân, xương, thận, tủy... Không có ta, người, nam, nữ, trẻ
già đẹp xấu, lại càng không những chức tước địa vị như ông nọ bà kia.
-
Lợi lạc của môn tu này là nhiếp phục được ưa và chán, nhiếp phục được sự sợ
hãi, kham nhẫn được nóng lạnh đói khát, những lời nhục mạ, những cảm giác khó
chịu, chết điếng người.
-
Trong quá trình tu tập, hai thái độ cần tránh là sự chai lì vô cảm vì quá quen
thuộc, như thái độ của phu tẩm liệm, hay thái độ sợ hãi nhờm gớm phát sinh từ
ngã chấp gọi là “kiêu mạn về sự sống” trong ba kiêu mạn. Thái độ thích đáng là
nhìn xác chết như lẽ tất yếu dành cho tất cả, chung cuộc của mọi con người.
Nhìn “với các căn xoay vào trong”, với niềm kính trọng biết ơn xác chết vì
nghĩ “Chắc chắn nhờ pháp quán này mà ta thoát khỏi tham dục, sân hận và các
thói xấu khác”.
-
Như đức Phật có lần đã sụp lạy đống xương vô chủ bên đường, và khi tôn giả A
Nan hỏi tại sao Ngài làm thế, Ngài đã dạy, đống xương kia là cha, mẹ, anh em
bà con quá khứ của ta, là chính thân ta trong nhiều đời trước. Kinh Bồ tát
giới cũng dạy, “Nhất thiết địa thủy thị ngã sắc thân, nhất thiết hỏa phong
thị ngã bản thể”. Thân ta là bốn đại chủng địa thủy hỏa phong tập hơp lại,
cho nên chỗ nào có địa thủy hỏa phong chỗ ấy có một phần của thân thể ta. Như
vậy, nói “không có cái ta trong thân xác này” (quán vô ngã) “không có cái tôi
trong 32 uế vật hiện tại” cũng đồng như nói “không có đại dương trong bát nước
biển hay trong 32 giọt nước biển”, bởi vì biển ở khắp nơi, không phải chịu sự
sinh diệt như cái bát nước mặn ta múc lên để nhìn ngắm. Quán như vậy gọi là
chính quán để gột rửa tham ưu ở đời.
-
Người tu quán bất tịnh hay bất cứ môn nào thuộc thân hành niệm, thỉnh thoảng
cần tác ý tướng tinh tấn, thỉnh thoảng cần tác ý tướng định, thỉnh thoảng cần
tác ý tướng xả. Nếu cứ một mạch tinh tấn quá mức để quán bất tịnh, thì không
thể nào nuốt cơm vì gớm ghiếc, có thể đi đến chỗ tự sát hoặc hao mòn cơ thể vì
mỏi mệt. Nếu định nhiều thì sẽ đưa đến sự giải đãi lười biếng. Nếu xả nhiều
thì sự tu tập không đạt đến đích mong muốn, có thể bỏ cuộc. Như người luyện
vàng, thỉnh thoảng nên rưới nước, thỉnh thoảng nên thụt ống bệ, thỉnh thoảng
nên ngồi canh chừng. Nếu chỉ thổi ống bệ mà thôi, thì vàng sẽ cháy, nếu rưới
nước mãi, vàng sẽ cứng lại, nếu chỉ ngồi nhìn, thì vàng không được luyện đúng
mức.
-
Lại còn 6 pháp cần nhớ là chế ngự, nỗ lực, khích lệ, nhìn tâm với thái độ xả,
quyết tâm đối với việc tu tập, và yêu mến Niết bàn. Người tu tập nếu không có
sáu pháp này thì việc tu tập không thể thành công.
-
Khi tâm nổi tham dục, là lúc cần chế ngự. Khi tâm lười biếng, nên nỗ lực. Khi
tâm buồn nản (do quá tinh tiến, đâm ra chán cái thân muốn chết cho rồi) thì
nên vỗ về khích lệ nó. Khi tâm quân bình giữa tinh tấn và định, chỉ quán được
song hành không cái nào quá lố, thì nên nhìn tâm với thái độ xả Cũng như một
người quá siêng năng thì dễ thành trạo cử không lúc nào yên, quá thông minh
thì dễ trở thành láu cá, quá nhiều định thì dễ đâm ra lười biếng ù lì.
-
Chính niệm là biết rõ tâm đang ở trạng thái nào để kịp thời điều chỉnh, như
người ta sửa đồng hồ vậy.
-
b.
Phân biệt bốn đại
-
Hành giả cũng có thể niệm thân bằng cách phân tích bốn đại như sau. Trong thân
này, những chất cứng như tóc lông móng răng da thịt gân xương thận tủy...
thuộc về địa đại, chất lỏng thuộc thủy đại, nhiệt độ thuộc hỏa đại, hơi thở và
chuyển động thuộc phong đại. Cách quán này cốt để trừ ngã chấp nơi một người
chấp ngã nặng nề, có thể ít tham sắc dục nhưng rất kiêu căng ngã mạn nhiều tự
ái hoặc nhiều mặc cảm. Về 32 uế vật có Kinh được giảng theo khía cạnh bất tịnh
như kinh Đại niệm xứ thuộc Trường bộ số 22. Cách giảng dạy này là để đào luyện
tịnh chỉ (định), nhưng khi giảng theo khía cạnh tứ đại như trong nhiều kinh
khác thuộc Trung bộ (Kinh Tượng tích dụ, Giáo giới Rahula, Giới phân biệt,
Thân hành niệm...) thì cốt đào luyện trí tuệ thấy vô ngã. Phật lấy ví dụ
một người đồ tể không mất cái ý niệm “con bò” cho đến khi nào đã xẻ nó ra
thành nhiều phần đem ra chợ bán. Khi ấy anh ta chỉ nói bán lòng, bán thịt, bán
xương, bán gan, bán huyết, mà không nói bán “con bò”. Người tu hành cũng vậy,
khi phân biệt thành các thân phần, định rõ đây là địa đại, thủy đại, hỏa đại
và phong đại, thì mới hết thấy cái “tôi” mình đã ôm giữ lâu đời.
-
Pháp quán này có thể đưa hành giả đến chứng đắc cả 4 thiền và 6 thần thông như
Phật, vì bốn đại thuộc về “phi tự tính pháp” (xem bài trước), có thể vượt qua
tầm tư duy, không như quán bất tịnh. Chữ “đại” có nghĩa là to lớn, ở
đâu cũng có, không chỉ ở trong thân thể mà thôi: thể, tướng, dụng đều lớn. Nó
còn có nghĩa là “đại huyễn thuật”, chỉ có bốn đại này tập hợp nhiều cách mà
thành vô số chúng sinh đủ loài lớn nhỏ tùy theo nghiệp, giống như nhà huyễn
thuật có thể biến hóa đủ cách từ bốn vật đơn sơ, như Bạch cốt phu nhân (bà
xương trắng, đống xương hay cát bụi) biến hóa đủ kiểu để lừa gạt tính dễ tin
của Đường tăng trong truyện Tây du ký.
-
Khi quán thân thể chỉ là tứ đại giả hợp, người tu quán này an trú trong chính
niệm, sống không nương tựa bám víu gì trên đời, từ bỏ tham và sân, thấy thân
thể chỉ như là thân thể (quán thân trên thân), nghĩa là bốn đại tập hợp. Hành
giả không tưởng tượng thêm, kiểu như:
-
Cười môi em duyên dáng như chị Hằng
-
Và
lấp lánh mắt là sương trong lệ
-
Cái óc tưởng tượng (tưởng uẩn trong 5 uẩn) mê hoặc chúng ta không ít, đức Phật
gọi nó là “điên đảo tưởng” như trông gà hóa cuốc, vô ngã tưởng ngã, vô thường
tưởng thường, dơ mà tưởng thành sạch và đẹp. Khi một vị tỷ kheo khởi tham dục
vì trông thấy một phụ nữ, ông đi đến Ngài Sàriputta:
-
Dục ái đốt cháy tôi
-
Tâm tôi bị thiêu đốt
-
Xin Ngài vì thương xót
-
Nói pháp tiêu lửa hừng
-
Tôn giả Sàriputta đã dạy:
-
Chính do điên đảo tưởng
-
Tâm ngươi bị thiêu đốt
-
Hãy từ bỏ tịnh tướng
-
Liên hệ đến tham dục
-
Hãy quán sâu kiêu mạn
-
Hành nhiều, hạnh yểm ly ...
-
Như vậy, tham dục nổi lên là do xấu tưởng đẹp, dơ tưởng sạch, gọi là tưởng
điên đảo, bởi đối tượng kia thực chất chỉ là tứ đại, là tóc lông móng răng
da.
-
c.
Quán mười bất tịnh của tử thi
-
Một phương pháp khác cũng thuộc thân hành là quán 10 giai đoạn của thây chết:
thây phình trương, xanh bầm, chảy mủ, đứt lìa, bị dã thú gặm khới, chảy máu,
dòi rúc, tan rã, phân tán khắp nơi, và bộ xương.
-
Người tu quán cần ghi nhớ những điều sau đây:
-
-
Quan sát kỹ đường đi lối về nghĩa địa (để khỏi tưởng tượng những hình thù ma
quái).
-
-
Không nên đến xem thi thể người khác phái, vì có thể gợi những tư tưởng bất
đáng.
-
-
Như lý tác ý, nghĩa là tránh hai thái độ đã nói: chai lì và nhờm gớm.
-
Trong pháp quán này, khi hành giả có thể thấy rõ tướng tử thi dù nhắm hay mở
mắt, ấy là sơ tướng đã xuất hiện, với tất cả vẻ sống động kinh khủng
của nó. Nếu hành giả vượt qua được, giữ vững chính niệm mà quán tiếp thì một
thời gian tợ tướng sẽ hiện ra.
-
Sự
khác nhau giữa hai tướng là, sơ tướng thì giống như những gì đã thấy, còn tợ
tướng thì không còn vẻ gớm ghiếc, bất động và an bình.
-
Thây phình trương có tợ tướng như một người khổng lồ ăn no nằm dài. Thây bị
chặt đôi có tợ tướng nguyên vẹn. Thây chảy máu có tợ tướng như đang đắp một
tấm vải đỏ. Thây đầy dòi có tợ tướng như một trái banh bằng cơm trắng... Khi
đã đạt đến tợ tướng, hành giả sẽ đắc định sơ thiền, nhiếp phục được tham sân,
kham nhẫn được các nỗi khổ, và không còn sợ chết. Hành giả sống một đời an lạc
vì không mong cầu, và khi thân hoại mạng chung, dù không đắc quả cũng hướng
đến một cõi tái sinh tốt đẹp.
-
Nhưng mỗi loại thây chết thích hợp để trị một bệnh tham sắc khác nhau:
-
Thây phình trương cho người tham eo ếch
-
Thây xanh bầm cho kẻ đắm làn da
-
Thây mủ chảy cho người mê hương phấn
-
Thây đứt đôi hết ảo tưởng nguyên lành
-
Thây đục khoét cho người ham mông ngực
-
Thây rã rời cho kẻ khoái dung nhan
-
Thây máu me cho người tham môi đẹp
-
Thây phân ly hết thấy vẻ yêu kiều
-
Thây đầy dòi còn đâu nữa “của tôi”
-
Thấy bộ xương hết mê hàm răng trắng.
-
Cũng như quán 32 uế vật trong thân, pháp này chỉ đắc định sơ thiền vì không
rời khỏi tầm tư duy liên hệ đến thân xác.
-
d.
Quán bộ xương qua nhiều giai đoạn cho đến lúc thành bột trắng (Cửu tưởng)
-
Đây là một pháp tu thuộc Tuệ quán về tướng đáng sợ hãi, đưa đến các loại trí
gọi là Quá hoạn trí, Ố úy trí, Hành xả trí. Hành giả quán bộ xương còn
dính gân thịt máu, bộ xương hết thịt chỉ còn gân và máu, bộ xương chỉ còn gân,
bộ xương không còn gân nối lại, bộ xương bị phân tán chỗ này chỗ
-
khác, bộ xương bị rã nát, bộ xương đã thành bột trắng... Khi quán như vậy,
hành giả an trú chính niệm: “Thân này bản chất là như vậy, không vượt qua bản
chất ấy”. Và hành giả sống tinh cần, tỉnh giác, nhiệt tâm gột rửa tham ưu ở
đời. Đối với mọi sự vật mọi người, hành giả có tâm hành xả, không tham
luyến bất cứ gì, và khi nghĩ đến giai đoạn chỉ còn là xương trắng màu vỏ ốc,
hành giả không gây ra sự sinh, chỉ chú ý đến diệt, đến Niết Bàn
an ổn khỏi các khổ ách. Khi ấy hành giả dù vẫn làm việc lành mà xả chứ
không chấp quả báo để tái sinh vào bất cứ một loại hữu nào, vì đã thấy rõ các
hành đều đưa đến đau khổ, đưa đến hủy diệt. Trí thấy như vậy gọi là “Hành xả
trí”.
-
Hành giả sống nhiệt tâm tinh cần do như lý tác ý cái chết. Vì nếu không
như lý tác ý thì sẽ sợ hãi lo buồn trước cái già cái chết, như thi sĩ Bùi
Giáng đã viết :
-
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
-
Sẽ
rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
-
Ta
chết lặng bó tay đầu lắc
-
Đài xiêu ôi, xuân sắp rụng mất rồi.
-
Nghĩ đến nỗi chết chóc sắp đến, người ta có thể sầu khổ khóc than một cách
tuyệt vọng:
-
Đêm ứa lệ phồng mi hai mắt
-
Bàn tay ta nhỏ như lá cây khô
-
Hình hoa rã đẫm đìa sương theo móc
-
Đỡ
làm sao những cánh tiếp nhau rơi...
-
Thật thê thảm, khi con người không thể chấp nhận một điều chắc chắn phải đến.
Sự sống là bấp bênh, nhưng người ta lại nỗ lực tô bồi cho nó, trong khi cái
chết là chắc chắn, thì chúng ta lại tảng lờ nó, và chỉ hoảng hốt khi nó xảy
đến cho chính mình và người thân của mình.
-
Như lý tác ý
cái chết là thấy rõ sự sinh diệt trong từng giây phút của xác thân này từ khi
sinh ra cho tới khi xuống huyệt. Sống và chết là hai mặt tất yếu của cuộc đời
như ngày và đêm, sáng và tối hay bốn mùa luân chuyển. Nhờ quán cái chết trước
mắt mà ta sống nhiệt tâm tinh cần, nỗ lực làm việc thiện. Sự sống trở nên quý
báu vô ngần chính vì nó ngắn ngủi, vô thường, khó đoán trước được. Như thể ta
đang xem một vở tuồng hay đọc một cuốn truyện mà ta không thể nào đoán trước
được những tình tiết ly kỳ kế tiếp. “Muốn biết việc này xin đọc hồi sau sẽ
rõ”. Cái chết là điều chắc chắn ta nắm trong tay, nhưng bao giờ thì thân xác
này sẽ được đặt xuống, nó sẽ chấm dứt tại đâu, trên mặt đất? mặt nước? trên
không? hay trên một hành tinh nàọ khác ngoài trái đất? Nó sẽ chấm dứt kiểu
nào? Bị bạo bệnh hay “an nhiên tọa hóa” như các thiền sư? Chết non, chết già
hay chết vì tai nạn? Thân hành niệm nếu không đưa ta đến chứng đắc thần thông
để biết được những điều trên, thì ít ra cũng giúp ta nhìn sự chết với thái độ
tò mò, thản nhiên, thay vì sợ hãi.
-
THIỀN CHỈ VÀ THIỀN QUÁN
-
Trong các đề mục thân hành niệm đã bàn kỳ trước, thì quán 10 giai đoạn tử thi
là cốt để thấy tính bất tịnh, vô thường, quán tứ đại là để thấy tính vô ngã.
Nhưng về 32 uế vật, thì có kinh nhấn mạnh khía cạnh vô ngã, có kinh nhấn mạnh
khía cạnh bất tịnh. Phật thường lấy ví dụ một người đồ tể vẫn xem con bò là
con bò cho đến khi xẻ nó ra làm nhiều phần đem ra chợ bán. Khi ấy anh ta chỉ
nói bán thịt, xương, lòng, mỡ, gan, huyết... mà không nói bán “con bò”. Chúng
ta cũng thế, cần phân tích con người ra nhiều phần tử như thế thì mới hết cái
ảo tưởng về một toàn khối gọi là “con người” (còn gọi là thân kiến). Kinh ĐẠI
NIỆM XỨ (Trường 22) trình bày 32 phần theo khía cạnh bất tịnh, còn các kinh
khác như Tượng Tích Dụ (Trung 28), Giáo Giới Rahula (Trung 62),
và kinh Giới Phân Biệt (Trung 140) thì trình bày 32 phần dưới khía cạnh
tứ đại. Khi giảng theo khía cạnh bất tịnh, thì 32 vật là một đề mục thuộc
thiền chỉ (Định), còn giảng theo khía cạnh tứ đại, thì 32 vật là một đề
mục thiền quán (Tuệ). Vì thấy Vô Ngã là cốt yếu của Tuệ, trong khi thấy
bất tịnh chỉ là phương tiện tạm thời để trị bệnh tham sắc.
-
SƠ
TƯỚNG Và QUANG TƯỚNG
-
Hơn nữa, trong khi quán bất tịnh, đạt đến cái tưởng bất tịnh đối với thân xác,
thì hành giả chỉ mới đắc định Cận hành, trong đó hình ảnh bất tịnh hiện rõ với
tất cả vẻ sống động gớm ghiếc trong tâm hành giả, dù khi nhắm mắt hay mở mắt.
Tiếp tục tập trung vào sơ tướng một thời gian, hành giả mới đạt đến một giai
đoạn cao của định thực thụ, gọi là An chỉ, khi quang tướng xuất hiện. Đó là
khi hình ảnh trong tâm tách rời thực tại gớm ghiếc, và trông có vẻ an tịnh,
sáng sủa, rõ mồn một. Khi ấy hành giả đắc sơ thiền với năm thiền chi: tầm, tứ,
hỷ, lạc, nhất tâm. Cảm giác đau khổ khó chịu lúc đầu khi mới tiếp xúc tướng
bất tịnh, cuối cùng phải chuyển thành hỷ lạc mới gọi là đắc định. Quang
tướng về thi thể phình trương chỉ như một người khổng lồ nằm ngủ sau khi ăn
no. Quang tướng về thây xanh bầm đủ màu khi trước bây giờ chỉ còn một màu trội
nhất. Thây đầy máu me chỉ như người ngủ đắp mền đỏ. Thây nhung nhúc những con
dòi có quang tướng như một trái banh lớn làm bằng cơm trắng.
-
Như vậy tướng bất tịnh, đau khổ cần phải được vượt qua mới đắc an chỉ, và quán
bất tịnh chỉ là giai đoạn tạm thời để trừ tham dục mà thôi. Nếu cứ đeo đẳng
không thoát ra khỏi nó, thì chẳng những không ích gì mà còn gây phản ứng tai
hại như chán đời, trắng trợn (cynique), xem đời không còn chút ý vị nào nữa.
Một nền tôn giáo mà cứ nhồi sọ người ta bằng những tư tưởng bi quan yếm thế
thì không thể nào sống dai và càng ngày càng lan rộng như Phật giáo. Khi Phật
dạy đời là khổ, thân thể là bất tịnh thì Ngài mới chỉ nói có nửa câu. Nhiều
người mới nghe chừng ấy đã vội phê phán đạo Phật bi quan yếm thế. Nhưng nửa
câu sau mới là điều Phật muốn truyền dạy. Đó là Niết bàn, sự vắng bóng tất cả
mọi đau buồn: thường lạc ngã tịnh là cứu cánh, trong khi vô thường khổ
vô ngã chỉ là phương tiện, là chân lý của thế gian, chưa phải là đệ nhất nghĩa
hay chân lý tuyệt đối. Phật dạy giáo lý của ta ví như chiếc bè, để qua sông,
chứ không phải để ôm giữ.
-
Tính vô thường, khổ dưới cái nhìn tuệ giác, nghĩa là nhìn không kèm theo ngã
chấp, không có sự ưa và chán thì trở thành thường, lạc. Già, chết (vô thường)
sở dĩ kéo theo sầu bi ưu não là vì vô minh, ngã chấp. Nếu không có vô minh ngã
chấp thì thấy vô thường là thường:
-
Chim vẫn bay quanh từ vạn kỷ
-
Gió thật xưa, mây thật già nua
-
Những hiện tượng phù du như mây, gió vẫn diễn biến trong bầu trời chân thường
từ muôn vạn kỷ. Vô thường không ra khỏi chân thường. Hãy nghe bài kệ triệu
thỉnh các vong linh:
-
Viễn quan sơn hữu sắc
-
cận thính thủy vô thanh
-
xuân khứ hoa thường tại
-
Nhân lai điểu bất kinh
-
(Trông xa ngọn núi vẫn có hình dạng, lắng nghe thật gần nhưng không nghe được
tiếng nước chảy. Xuân qua rồi mà hoa vẫn nở, Người đến không làm kinh động
chim chóc.)
-
Bài kệ không chỉ để an ủi các vong linh, mà còn nói lên một sự thật thâm thúy:
cái chết tuồng như bao la hơn, “thực” hơn sự sống luôn luôn tuôn chảy khó nắm
bắt. Vì vô thường là thường nên khổ không khổ mãi mà đang biến thành vui, chết
không chết mãi mà đang chuyển thành sự sống dưới hình thức khác. Ở đây đạo và
thơ gặp gỡ. Những hiện tượng phù du trở thành bất tử dưới ngòi bút thi nhân,
cũng như vô thường trở thành chân thường dưới nhãn quan của đạo sĩ. Nhờ vô
thường mà chân thường hiển lộ:
-
Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
-
Rằng biển rộng không đến bờ em ạ
-
(B.G. Mưa nguồn)
-
Non cao đã biết hay chưa?
-
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
-
Nước non hội ngộ còn luôn.
-
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
-
(Tản Đà–Thề non nước)
-
Vô
thường, khổ trở thành bất tử dưới ngòi bút thi nhân khi nó được đem làm thể
tài của nghệ thuật, trở thành chân thường khi được đem làm đề mục thiền quán.
Vì sự thưởng ngoạn cũng như sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi một lối nhìn vô ngã.
Có vô ngã mới thoát ra khỏi nỗi đau khổ của “tôi” để nhìn xa thấy rộng. Một
nhà phê bình văn học đã viết về cụ Nguyễn Du như sau: “Nếu không có con mắt
trông suốt ba cõi, tấm lòng nghĩ thấu nghìn đời, thì tài nào có được bút lực
ấy”. Đó là sự cảm thông với mọi tầng lớp xã hội đương thời và mai
hậu:
-
Thương thay thập loại chúng sinh
-
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người.
-
Sở
dĩ cứ phải làm cô hồn không siêu được là vì chấp ngã, mỗi người ôm giữ tình
trạng của mình lúc còn sống.
-
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn.
-
Lặng mặt trời lẩn thẩn tìm ra.
-
Lôi thôi bồng trẻ dắt già.
-
Có
khôn thiêng hỡi, lại mà nghe kinh.
-
Nhưng trong cõi chết thì “còn chi ai khá ai hèn, còn chi mà nói ai hiền ai
ngu”. Để cảnh tỉnh các vong linh ấy thoát khỏi ngã chấp, cần phải
nhờ đến thần lực từ bi của Phật:
-
Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát,
-
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi.
-
Dám nhờ Phật lực từ bi
-
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.
-
Muốn thoát khổ cần phải mở rộng nhãn quan để thấy với trí tuệ vô ngã, thấy
cuộc đời là phù du mộng ảo, và do đó sống chết cũng chỉ là ảo mộng trong bối
cảnh chân thường như bọt sóng nổi lên rồi lại tan ngay vào biển cả.
-
“Kiếp phù sinh như hình bào ảnh.
-
Có
câu rằng: Vạn cảnh giai không”
-
Thấy được như vậy cũng chính là thấy Pháp và thấy Phật, thấy Pháp thân của
Phật và tự nhiên được siêu thoát.
-
“Ai ơi lấy Phật làm lòng.
-
Tự
nhiên siêu thoát ờ trong luân hồi”
-
“Lấy Phật làm lòng” là sống với cái tâm như tâm Phật, thì sẽ không còn khổ đau
vì ngã chấp.
-
Thấy “vô thường, khổ” là vô ngã thì hết khổ. Dưới lối nhìn siêu thoát bằng trí
tuệ vô ngã, thì vô thường không khổ mà còn là điều tất yếu và đáng muốn, vì nó
làm cho cuộc đời luôn đổi mới, gợi tò mò, như đọc một quyển sách mà ta không
biết điều gì sẽ xảy đến, nên luôn luôn hấp dẫn. Mọi bi kịch trở thành hài kịch
khi ta nhìn lại với lối nhìn vô tư bình thản. Óc hài hước bởi thế là dấu hiệu
của sự thông minh, của trí tuệ vô ngã. Có trí tuệ mới biết cười cái ngu, cười
sự thất bại của mình và thoát ly khỏi nó.
-
e.
Niệm thân hành
-
Một pháp môn niệm thân được gọi là “thân hành niệm” thực sự, chính là đào
luyện sự tỉnh giác trong 4 uy nghi đi, đứng, nằm, ngồi, và trong tất cả các
động tác của thân thể. Bất cứ lúc nhìn tới ngó lui, co tay duỗi tay, thân thể
được sử dụng như thế nào, hành giả phải hoàn toàn ý thức về nó, thắp sáng động
tác ấy bằng ánh sáng tỉnh thức, không để cho nó chìm vào bóng tối vô thức. Nhờ
tỉnh giác như vậy, các ý niệm tư duy liên hệ thế tục được đoạn trừ, nội tâm
được định tĩnh, chuyên nhất.
-
Mỗi động tác của thân là một “thân hành”. Khi chú ý sự sinh và diệt của nó,
hành giả thấy rõ thân xác bị bức bách bởi sinh diệt, gọi là “hành khổ” trong 3
khổ. Hành khổ rất khó nhận ra, nên hãy nói “khổ khổ” trước. Khổ khổ là nỗi đau
đớn thực sự, như đau răng, đau bụng. Hoại khổ là nỗi khổ của sự diệt vong, như
một cái chết do tai nạn hay chết tự nhiên. Nhưng khi còn sống thì thân xác
phải được bảo trì nhờ cơm ăn áo mặc, chỗ ở thích hợp, và 4 uy nghi đi đứng nằm
ngồi phải được điều hòa. Khi mọi sự việc ấy diễn tiến êm xuôi thì ta không ý
thức được nỗi khổ tiềm tàng trong đó, mà chỉ khi có trục trặc xảy ra, ta mới
thấy khổ khổ hay hoại khổ. Kỳ thực, bình thường, các uy nghi
dáng điệu, nhu cầu của thân xác chính là hành khổ. Nhưng ta không thấy
được điều ấy, bởi vì khi ngồi chưa mỏi ta đã vội đứng lên, ăn chưa đói đã có
bữa ăn khác. Thử tưởng tượng một người phải đứng mãi một chỗ, đương nhiên sẽ
khao khát đi hoặc ngồi hay nằm, cho là thượng sách. Nhưng nếu một người phải
nằm liệt giường tháng này qua năm nọ thì quả là hành khổ. Không có một tư thế
nào thực sự là an ổn nếu không được thay đổi. Cho nên đi, đứng, nằm, ngồi chỉ
là thay đổi kiểu khổ cho đến khi xuống mồ. Hành khổ này không dễ nhận
ra nếu không chính niệm tỉnh giác.
-
Hành khổ là cái khổ của sự sinh diệt, bị vô thường bức bách. Và vì thân này vô
thường, nên nó cũng vô ngã. Không có hai cái thân xác giống nhau trong hai
thời điểm tiếp nhau: khi đứng là một cái thân, khi ngồi xuống là một thân
khác. Có liên tục đổi khác như vậy (sát na sinh diệt) mới dần dần đi
đến già và chết.
-
Đào luyện chính niệm tỉnh giác này rất khó, lúc đầu cần phải thực tập liên kết
với các môn thân hành niệm khác như quán 32 uế vật và niệm hơi thở. Tựu trung,
tất cả 6 pháp niệm thân đều liên quan chặt chẽ với nhau: quán 32 vật và quán 4
đại là để thấy rõ thực chất của thân xác là bất tịnh, vô ngã; niệm thân
hành và niệm hơi thở là để thấy rõ vận hành của thân xác và tính chất vô
thường, khổ, quán 10 giai đoạn của tử thi và quán bộ xương qua 9 giai đoạn
(cửu tưởng) là để thấy rõ chung cuộc của thân này.
-
f.
Niệm hơi thở
-
Cuối cùng, pháp niệm hơi thở tóm thâu tất cả 4 pháp quán gọi là Tứ niệm xứ
quán gồm 16 đề tài mà chúng ta đã quen thuộc. Mỗi nhóm 4 đề tài, nhóm 1
quán thân, nhóm 2 quán cảm thọ, nhóm 3 quán tâm, nhóm 4 quán pháp.
-
Trong mỗi đề tài đều lấy hơi thở làm điểm tựa để quán, nên thân, thọ, tâm,
pháp, đều do hơi thở mà có ra. Hơi thở là đầu mối của mọi sự: có thở mới
duy trì được thân xác, cảm thọ, tư tưởng, tâm thức. Do vậy, làm chủ được hơi
thở cũng là làm chủ được các thứ này.
-
Quán hơi thở ta còn nhận rõ được tính vô thường của thân xác. Thở vô mà không
thở ra được hay ngược lại, thì hết sống. Tính chất vô ngã cũng hiện rõ:
không có cái “tôi” nào ở trong luồng không khí ra vô nơi lỗ mũi để có thể bám
lấy mà gọi là “ta” và “của ta”. Đức Phật có lần hỏi các đệ tử đời người dài
bao lâu. Một người đáp trong khoảng 1 ngày đêm, người thứ hai đáp trong khoảng
1 bữa ăn, người thứ ba đáp trong 1 hơi thở ra vào. Đức Phật khen người sau
cùng mới thực sự thấy đúng, chân chính tu tập niệm chết để tận diệt khổ đau.
Quả vậy, khi thấy cái “tôi” chỉ kéo dài trong 1 hơi thở, thì không còn nuối
tiếc quá khứ, khát vọng tương lai, mà luôn luôn an trú trong chính niệm hiện
tiền, chính quán nó là vô thường, vô ngã.
-
Pháp môn thân hành niệm gồm cả 6 phần này có thể khiến hành giả sống một đời
hạnh phúc an lạc trong hiện tại, nếu tu tập nghiêm túc sẽ chứng được sơ thiền
và khi chết sẽ hướng đến cảnh giới tốt đẹp. Ngược lại, người không tu tập thân
hành mệm, sống trong thất niệm buông lung, thì chính là miếng mồi ngon cho ma
quỷ, ma dễ cám dỗ vị ấy và làm cho vị ấy đi đến tàn mạt.
-
-
NIỆM VÀ ĐỊNH
-
Các pháp tu bao hàm trong THÂN HÀNH NIỆM như đã nói, gồm 6 mục. Bốn mục – gồm
82 uế vật 4 đại, 10 giai đoạn thây chết, và 9 giai đoạn của bộ xương – là để
đào luyện Chỉ và Quán hay Định, Tuệ. Hai pháp còn lại – niệm thân hành và niệm
hơi thở – là để đào luyện CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC, gọi tắt là Niệm.
-
Niệm và Định khác nhau ở chỗ nào. Trước hết hãy nói về Định. Như đã định nghĩa
lúc đầu, Định là sự tập trung, xoay quanh của tâm và tâm sở vào một đối tượng
duy nhất cho đến khi tâm dừng lại những tư tưởng đủ loại, và chú mục vào một
đối tượng duy nhất ấy, thắp sáng nó, gọi là AN CHỈ. Trái lại, Niệm là
tâm luôn luôn chảy theo một hướng bất biến (như vô thường, khổ, vô ngã)
dù đối tượng thấy, nghe hay, biết, có thay đổi (tùy duyên). Ví dụ khi
một tỷ kheo tu quán bộ xương đã đắc định, thì thấy mọi người chỉ là những bộ
xương di động, không thấy gì khác. Ngược lại, đào luyện chính niệm thì
khi thấy một con người, dù có thấy tướng đàn ông, đàn bà, đẹp, xấu, (chứ không
phải chỉ là bộ xương) tâm vẫn không chấp cái tướng ấy mà luôn luôn nhớ nghĩ
đến vô thường vô ngã. Chỉ khi quên chính niệm (thất niệm) phân biệt mới
sinh khởi, và do phân biệt nên có thương ghét, có đau khổ. Bởi thế Phật dạy
mất chính niệm là mất công đức. Có chính niệm như có áo giáp sắt, dù có xông
ra giữa trận giặc đủ loại (sắc đẹp tiếng hay, lợi lộc, danh tiếng...) cũng
không bị tổn thương (kinh Di Giáo).
-
Khi Phật còn tại thế, có nhiều mệnh phụ phu nhân trong triều vua Ba Tư Nặc đến
yết kiến Ngài để được nghe giáo lý từ kim khẩu. Mỗi lần bà nào có nhan sắc đi
đến, Ngài lại cảnh giác các tỳ kheo chung quanh (những vị chưa đắc quả): “Các
thầy hãy chính niệm lại, vì có một nhan sắc sắp tới”. Nghe như là cha dặn con
“các con hãy cẩn thận, có con rắn đang bò tới”, hay “các con coi chừng có đoàn
tàu tốc hành sẽ đi qua”. Không cẩn thận, không coi chừng thì sẽ bị rắn mổ, xe
cán chết tại chỗ. Ngài không dạy phải nhắm hai con mắt lại, hay hãy quán bộ
xương, bởi vì mắt nhắm thì mất tự nhiên và nhiều khi nhắm mắt còn thấy rõ hơn
là mở mắt do trí tưởng tượng. Còn quán bộ xương thì phải đạt tới An chỉ mới
thấy xương chứ chưa đắc định thì vẫn thấy đẹp và vẫn mê như thường.
-
Bởi thế chính niệm là phương pháp tốt nhất để đối cảnh mà tâm không
sinh. Chính niệm có nghĩa là vẫn nhìn, vẫn nói chuyện nhưng không quên
thấy đó là bất tịnh, vô thường, khổ, vô ngã, gọi là bốn niệm xứ mà đức
Phật gọi là “đường đi” (hành xứ) là quê hương của người tu hành. Quên
nó dù chỉ trong chốc lát cũng có thể gây tai hại vong thân tán mạng. Như đi
lạc đường, quẹo sai hướng một chút thì ngày càng lạc.
-
Chính niệm tỉnh giác trong 4 uy nghi gọi là thân hành niệm. Nó có nghĩa là,
khi thân xác được sử dụng cách nào, tâm đều có ý thức chứ không phải vô ý
thức. Dùng DANH (tâm) để quán SẮC (thân xác) trong bất cứ động tác nào như đi,
đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi tay, ngước lên, cúi xuống... Tự ý thức mình đang
làm bộ làm tịch, đang làm ra vẻ quan trọng, đang kênh kiệu, đạo mạo, tiu
nghỉu, hấp tấp, hay bất cứ trong tư thái nào. Vừa khi ý thức được thắp sáng,
ta sẽ tự cười cho thái độ của mình: “Tại sao phải bước nhanh thế nhỉ? Hãy chậm
lại. Có cần phải to tiếng chăng? Nói vừa đủ nghe được rồi”. Cứ thế ta điều
chỉnh lại những căng thẳng khởi lên nơi thân và tâm, để thấy chúng sinh rồi
diệt, như những cảm giác ngứa, tê, nóng, lạnh... Tập tỉnh giác như thế gọi là
niệm thân hành. Pháp này sẽ đưa đến tuệ giác vô thường vô ngã.
Khi thân ngồi xuống đứng lên rồi đi, tâm nhận thức rằng thân xác đang ngồi
xuống, đang đứng dậy, đang bước đi. Và cái thân xác khi ngồi khác với với thân
xác lúc đứng, thân xác lúc đứng khác với thân xác lúc bước đi, không phải là
một cái “tôi” duy nhất, vì nó vô thường. Cái tâm nhìn ngắm thuộc về DANH, cái
thân xác đang đi, đứng, nằm, ngồi thuộc về SẮC, cả hai không có cái nào là cái
TA thực sự, vì cả hai đang biến đổi luôn luôn. Sau một thời gian, nếu thực
hành đến chỗ thuần thục, hành giả cảm thấy DANH và SẮC tách biệt hẳn nhau, như
là có hai con người, một người coi kịch (DANH), một người đóng kịch (SẮC). Như
trong đoạn cuối cuốn Tây du ký, Đường Tăng Tam Tạng nhìn thấy xác mình
trôi trên dòng sông khi tới đất Phật. Thân hành niệm hay tỉnh giác trong 4 uy
nghi là pháp môn tu tập không gây phản tác dụng như quán bất tịnh hay quán bộ
xương trong lúc đang tu. Dù chưa chứng đắc cái gì, mỗi giờ có chính niệm tỉnh
giác là một giờ ta được an lạc, vì khi có ánh sáng ý thức rọi vào từng động
tác, thì không có sự quên lãng, sơ ý, nguyên nhân gây tai nạn bất ngờ. Pháp
môn này còn giúp người tu tập có một phong độ khoan thai, từ tốn, phát sinh từ
cái tâm an lạc tỉnh giác. Chúng ta thường thấy những người trong lúc bồn chồn
lo lắng thì đứng ngồi không yên, làm gì cũng hấp tấp, quên trước quên sau và
chỉ sực nhớ ra khi đã quá muộn, như bài thơ của Bùi Giáng mô tả:
-
Chèo ghe ra biển ghé vai
-
Hỏi thăm cá biển, 1, 2,
3 điều
-
Nửa chừng quên bẵng 4 điều
-
Cuối cùng sực nhớ 5 điều đã quên
-
Con người thường sống bỏ quên hiện tại, xem hiện tại như một cây cầu, một
trung gian cần phải vượt qua cho mau để đi đến một tương lai mà không hề ý
thức rằng tương lai ấy cũng sẽ trở thành một hiện tại đầy những thúc bách như
hiện tại. Thức dậy phải rửa mặt, thay áo thật nhanh để đi làm, làm mọi việc
cho thật nhanh để đi về, đi về cho thật nhanh để coi Tivi, coi tivi mau để đi
ngủ, ngủ để còn dậy, dậy để đi làm... Đời sống trở thành một cái máy cho đến
khi xuống huyệt. Trước cái chết, giấc ngủ cuối cùng không “để mà làm” gì nữa,
thì ta lại khóc than tuyệt vọng, chỉ vì ta chưa bao giờ thực sống. Sống
thực sự là thở. Xác sống xác chết chỉ khác nhau một hơi thở. Vậy mà ta có bao
giờ ý thức đến hơi thở của mình đâu, chỉ xem nó như một trung gian để
làm điều này điều nọ. Bởi thế, Pháp niệm thân hành gắn liền với niệm
hơi thớ, cả hai được gọi là sự sống an lạc ngay trong hiện tại, hiện
pháp lạc trú. Đó cũng là đời sống tỉnh thức được thắp sáng bằng ngọn đuốc
chính pháp, không bằng cái gì khác, đời sống tự quay về nương tựa mình, không
nương tựa gì khác, chính niệm tỉnh giác để trừ khử những tham luyến, ưu tư
trên đời.
-
Quên mất hơi thở ìà quên mất mình, mất tự chủ, sống như một cái xác không hồn,
như một người máy. Khổng Tử nói: “Khi tâm không có mặt thì nhìn mà không thấy,
lắng tai mà không nghe, ăn mà không biết mùi vị của món ăn” (Tâm bất tại
yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị)
-
Thân hành niệm kéo ta trở về thực tại, sống trọn vẹn phút giây hiện tại, sống
không xem hiện tại như một cây cầu phải vượt qua cho mau. Bởi thế, khi hít vô
một hơi thở dài, ta ý thức trọn vẹn luồng không khí đi vào. Khi thở ra một hơi
dài, ta cảm giác hoàn toàn hơi thở đang đi ra. Thở vô một hơi ngắn, ta biết
hơi thở đang đi vào một khoảng ngắn, chỉ chạm tới lỗ mũi. Khi thở ra một hơi
ngắn, ta cảm giác trọn vẹn hơi thở ngắn đang đi ra.
-
Khi đã luyện tập sự chú tâm trên hơi thở ra vào đến chỗ thuần thục, (lúc đầu
cần ngồi kiết già lưng thẳng ở chỗ vắng vẻ thoáng khí), ta có thể chú tâm đến
các động tác của thân thể như co tay, duỗi tay, ngó tới, ngó lui, cúi xuống,
ngẩng lên, đi, đứng, nằm ngồi... gọi là chính niệm tỉnh giác trong bốn uy
nghi, hay thân hành niệm. “Quán tính sinh khởi trên thân, quán tính
diệt trên thân, chính niệm tỉnh giác để gột rửa tham ưu ở đời”. Tính sinh
khởi, tính diệt tận trên thân gọi tắt là thân hành. “Hành” có đặc tính
là sinh rồi diệt, nên Phật dạy “chư hành vô thường, thị sinh diệt Pháp” (các
hành là vô thường, là pháp sinh diệt). Các uy nghi hay thân hành cần
phải thay đổi luôn luôn, mỗi lần thay đổi là một lần sinh diệt. Như đã nói ở
trên, thân thể khi ngồi khác với khi đứng, sự khác nhau rất vi tế khó nhận ra,
mà Phật gọi là sát na sinh diệt. Có sinh diệt từng sát na như vậy mới đi đến
già và chết. Chẳng những các uy nghi (thân hành) là vô thường mà chúng
còn là khổ, vì ngồi mãi một chỗ ta sẽ mỏi mệt và buộc lòng phải đứng
lên, nhưng đứng hoài cũng không khá gì, lại phải ngồi xuống hoặc nằm xuống.
Nằm mà không ngồi dậy được tức là bịnh bại liệt thì lại là một cái khổ rõ rệt.
Như vậy, đi, đứng, nằm, ngồi (các uy nghi hay thân hành) không có gì
vui mà chính là khổ. Sở dĩ ta không thấy khổ trong đó, là nhờ có thay
đổi luôn luôn, nhưng chỉ là “thay đổi kiểu đau khổ” cho đến khi xuống mồ.
Chết, sự chấm dứt các hành, gọi là hoại khổ, còn Sống với
các uy nghi đi, đứng nằm, ngồi thay đổi luôn luôn thì gọi là hành khổ,
cái khổ vi tế mà chỉ có đấng Giác Ngộ mới thấy rõ.
-
Khi đã ý thức được mọi hành đều đang dẫn đến cái chết, thì không cần gì phải
hấp tấp, cứ an nhiên mà thường thức từng hơi thở vào thở ra, quan sát các uy
nghi đang còn điều hòa, nghe ngóng các cảm giác, ý nghĩ đang sinh khởi và biến
mất trong thân, tâm (chính niệm tỉnh giác để gột rửa tham ưu ở đời). Người
sống được như vậy gọi là người yêu mến hạnh độc cư, người sống độc lập
tự chủ. Hạnh độc cư này đựơc Phật tán dương trong nhiều kinh Trung bộ, như
kinh Nhất dạ Hiền Giả v.v..
-
Quá khứ không truy tầm
-
Tương lai không ước vọng.
-
Quá khứ đã đoạn tận
-
Tương lai còn chưa đến...
-
“Không trở về với quá khứ, cũng không ước vọng tương lai” mà dùng tuệ soi
chiếu hiện tại, để thấy nó đang biến dịch không ngừng. Người sống như vậy được
gọi là kẻ yêu mến hạnh độc cư, dù ở giữa đám đông, giữa thành thị, bởi
người ấy không ờ chung với một pháp thứ hai như sự nuối tiếc quá khứ
hay mơ tưởng về tương lai, làm cho hiện tại bị quên lãng.
-
Thông thường, chúng ta ưa nghe về quá khứ vàng son để tự hào hoặc buồn tủi.
Quá khứ như một bóng ma ám ảnh làm hỏng luôn cả hiện tại, quá khứ không còn
nữa nhưng những phiền não do nó gây nên khi ta “truy tầm” nó, lại có tác dụng
rất tai hại đối với việc làm hiện tại của ta. Tương lai cũng vậy, nếu ta ước
vọng về nó quá nhiều cũng tai hại không kém. Tương lai chưa đến, song những dự
tính, hy vọng viễn vông về tương lai có thể làm ta đánh mất những gì đang hiện
hữu, như truyện ngụ ngôn: Cô Pérette đang đội sữa đi bán mà cứ tưởng đến khi
bán xong sữa sẽ mua về một con bò, thừa tiền mua thêm con bê, dắt bê di chơi,
cho nó nhảy tung tăng. . . Say sưa với viễn ảnh đó, cô tung mình nhảy
theo con bê tưởng tượng, làm cho bao nhiêu sữa đang đội đều đổ xuống đất. Nếu
ta chính niệm tỉnh giác, sống trọn phút giây hiện tại như lời Phật dạy thì
đồng thời ta cũng gột rửa được “tham ưu” do những suy tưởng về tương lai, quá
khứ đem lại. Trong hiện tại đã bao hàm quá khứ và vị lai, nếu ta tập sống trọn
vẹn phút giây bây giờ thì tương lai là một chuỗi những “bây giờ” an lạc và
tỉnh giác, không có gì phải tiếc nuối.
-
Đào luyện chính niệm tỉnh giác cũng là đào luyện mềm yêu thương đối với sự
sống, mà thuật ngữ gọi là TỪ TÂM GIẢI THOÁT. Khi tỉnh thức, ta nhìn mọi sự vật
trong một nhãn quan mới mẻ như mới thấy lần đầu, vì ý thức được mọi sự đang
đổi khác và chính mình cũng khác, không còn là một, như lời Ni sư Tổng Trì đáp
tổ Đạt Ma: “Theo con, đạo ví như cái nhìn của A nan vào cõi Phật A Súc thấy
một lần là không bao giờ trở lại”. Một văn sĩ người Pháp nói: “Aimez ce que
jamais on ne verra deux fois” (Hãy yêu mến những gì ta sẽ không thấy đến hai
lần): đó là những gì đang ở trước mắt ta trong thoáng chốc, mà thi sĩ cảm nhận
rõ nhất:
-
Một phút nữa thôi
-
Và
màu sẽ mất
-
Suối sẽ xa đồi
-
Như mây xa đất
-
(Mưa nguồn –Bùi Giáng)
-
Từ
bi luôn sóng đôi với tuệ giác, nên chú tiểu khi học tập sự tỉnh thức đồng thời
cũng tập trải rộng lòng từ bi như Phật, luôn nghĩ đến tất cả mọi người trong
từng động tác hành vi. Quyển sách của người mới vào chùa tập sự là quyển Tỳ
ni nhật dụng thiết yếu, dạy họ chú tâm vào mọi việc đang làm, đồng thời
khai triển lòng từ, nghĩ tới chúng sinh:
-
Thấy giòng nước chảy
-
Nguyện cho chúng sinh
-
Vào giòng chân lý
-
Vào biển trí Phật.
-
Đi
đường, qua cầu
-
Mong cho chúng sinh
-
Có
lòng quảng đại
-
Như đường như cầu.
-
Tóm lại NIỆM HƠI THỞ và THÂN HÀNH NIỆM là hai pháp tu liên kết chặt chẽ với
nhau để đào luyện chính niệm tỉnh giác, lại vừa đào luyện định, tuệ và
từ bi. Lợi lạc ngay trước mắt là hiện pháp lạc trú, tăng cường sức khỏe
thân tâm; và lợi lạc về sau là chứng ngộ Minh kiến và Giải thoát, đạt Niết bàn
như Phật Thế tôn.
-
KẾT LUẬN
-
Khi Phật dạy: “Có một pháp môn này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn,
được biến thành cỗ xe, thành căn cứ địa, thì sẽ đưa hành giả vượt khỏi các khổ
ách. Pháp môn đó chính là thân hành niệm”, Ngài cho ta thấy cái thân là nguồn
gốc của mọi đau khổ, nhưng đồng thời nó cũng là phương tiện để thoát mọi khổ
ách và đạt đến Niết bàn an vui, nếu biết sử dụng nó để tu tập. Ai cũng có
thân, có thân là có khổ, nhưng đồng thời cũng có phương pháp tuyệt diệu để đạt
Niết Bàn. Thân là cỗ xe đưa đến giác ngộ an vui nếu biết tận dụng nó. Nếu dùng
sai, nghĩa là sống trong bất giác vô minh, thì thân lại là nguồn gốc của mọi
đau khổ. Vậy cốt ở cách dùng. Cũng như với người biết lái xe, thì chiếc
xe là phương tiện rất tốt, nhưng ở trong tay người lái dở thì xe cũng là cái
đưa người lái đến tai họa. Không biết lái xe thì chiếc xe lại trở thành gánh
nặng cho người lái. Khổ cũng vậy, có khổ, song nếu ta biết vận dụng nó, thì nó
lại đưa ta đến an lạc Niết bàn.
--o0o--
|
|