|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Ba
-
-
I.
DẪN NHẬP
-
Chữ Pháp trong đạo Phật có rất nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp thì “Pháp” là tất
cả kinh, luật, luận gọi là “ba tạng” ghi lại những lời Phật dạy trong 45 năm
Ngài còn ở đời giáo hóa; theo nghĩa rộng nhất thì “Pháp” chỉ tất cả sự vật hữu
hình vô hình, thuộc vật chất hay tâm linh, cụ thể hay trừu tượng, có thực hay
bịa đặt như lông rùa, sừng thỏ. Pháp còn ám chỉ niết bàn Phật chứng, chân lý
tối hậu hay “tri kiến Phật” mà Phật đã đạt, như trong từ ngữ “pháp nhãn ly
trần vô cấu” hay con mắt pháp thanh tịnh. Pháp cũng còn có nghĩa là phép tắc
lý đương nhiên của sự vật, tương tự chữ “đạo” mà ngài Huệ Năng dùng “Sắc loại
tự hữu đạo, cácbất tương phòng não” nghĩa là mỗi loài tự có cái đạo hay cái
lý, cái pháp của nó, như ong kiến biết làm tổ, hoa biết nở, chim bay cá ìội,
cò trắng quạ đen vân vân không thể đổi khác. Nhưng còn một nghĩa nữa cũng rất
quan trọng của danh từ “pháp”, đó là nghĩa “phương pháp”.
-
Hôm nay chúng ta sẽ chú trọng đến ý nghĩa này của Pháp, đó là Phương pháp học
Phật, hay cách tu hành, cách chuyển hóa cuộc đời đau khổ thành an vui, đó mới
là vai trò quan trọng nhất của Pháp. Nếu Pháp chỉ là ba tạng giáo điển Phật
dạy, thì người không tin Phật sẽ không đếm xỉa. Hoặc dù có tin nhưng không
biết chữ, bận làm ăn buôn bán cũng không đọc được. Nếu Pháp chỉ là Niết bàn
Phật chứng, là chân lý tối hậu, thì phàm phu chúng ta đang còn lăn lộn giữa
bụi trần cũng vô phương mó tới. Còn nếu Pháp là cál lý đương nhiên của mọi sự
vật thì ta sẽ nghĩ rằng lý đương nhiên của con người sống giữa đời là phải bon
chen, ăn miếng trả miếng, cái nghiệp của ta đã là như vậy thì tu hành nào có
lợi ích gì. Nhưng khi nói Pháp là phương pháp, là cái chìa khóa mở cửa hạnh
phúc, chuyển đau khổ thành an vui, luyện cát ra vàng ròng, thì bất luận là
người theo đạo nào, muốn hết khổ được vui, đều cần phải có nó.
-
II. NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG SAI CHÌA KHÓA PHẬT PHÁP
-
Khi đã xác định ý nghĩa chữ Pháp là chìa khóa, ta mới thấy có nhiều lốí hành
xử như sau.
-
1.
Liệng mất chìa khóa
-
Có
khi giảng sư nói thẳng chân lý Phật dạy trong kinh điển, như nói hết thảy pháp
không sinh không diệt không dơ không sạch. Hoặc về giới sát sinh, thì nói
không được giết hại từ người cho đến sinh vật nhỏ nhít như muỗi mòng sâu kiến.
Một số Phật tử nghe không hiểu nên đâm chán, ngủ gục; một số khác thấy Phật
Pháp quá cao siêu mà mình quá tệ, đã lỡ sát sinh quá nhiều đâm ra mặc cảm bỏ
cuộc.
-
Đó
là thái độ liệng xâu chìa khóa vì thấy vô dụng đối với mình.
-
2.
Dùng không đúng cách
-
a.
Pháp không hợp trình độ:
-
Khi định nghĩa Pháp là phương pháp thì có rất nhiều, tùy thời, tùy người, tùy
việc mà vận dụng. Nhiều khi một phương pháp thích hợp với giảng sư lại không
hợp với Phật tử trình độ tu hành còn thấp kém, ví dụ câu “Dâm phòng tửu tứ vô
phi thanh tịnh đạo tràng” rất thích hợp để đem nói cho một vị tu hành đã hết
lầm lỗi, nhưng quá chấp trước vào sự thanh tịnh, không màng đến chuyện xuống
núi lợi sinh hành đạo. Nhưng nếu nói cho một bợm nhậu nghe thì không còn sửa
đổi gì y được nữa. Bởi thế, Phật pháp còn gọi là pháp bất định, cũng như thuốc
trị bệnh có nhiều thứ và liều lượng khác nhau, dùng không đúng bệnh và đúng
lượng thì chẳng những bệnh không khỏi mà còn thêm hại.
-
b.
Người nghe cố chấp:
-
Có
nhiều Phật tử nghe Pháp rồi chấp chặt vào pháp ấy xem như chân lý duy nhất
đúng, mà không xét đúng cho hạng người nào, đối tượng nào. Lỗi không ở giảng
sư mà ở người nghe. Có một gia đình nọ cha mẹ không biết gì đến Phật
pháp nhưng cô con gái lại thường theo bạn bè đi chùa nghe pháp. Sau một thời
gian nhờ thấm nhuần Pháp, cô tha thiết xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ lúc đầu
không cho, nhưng cô gái một mực năn nỉ, cuối cùng ông bà phải xiêu lòng cho
con xuất gia. Vào chùa xong, cô gái lại còn dụ được cha mẹ đi nghe pháp. Rủi
thay trong thời pháp mà ông bà được nghe lần đầu tiên đó, có một câu làm cho
họ đắc ý: “ở đâu tu cũng được, không cần phải vào chùa”. Họ bèn lôi cổ cô con
về lại nhà.
-
Lại có giảng sư dạy rằng không phải cứ ăn chay, niệm Phật mới là tu. Dĩ nhiên
giảng sư nói không sai, nhưng cũng không đúng hẳn. Thế mà có một Phật tử ăn
chay trường ba mươi năm, nghe thế bèn về ngã mặn.
-
Như thế dấy là sự tai hại của việc nói pháp cho công chúng khi có quá nhiều
trình độ, nhiều chấp trước bất đồng. Cho nên trong kinh Kim Cang, sau khi đã
dạy rất nhiều, Phật dạy: “Như Lai không có nói gì cả”. Để chúng ta đừng bám
vào lời Ngài, xem là chân lý duy nhất đúng, mà không xét lời Ngài đang nói
nhắm vào hạng người nào, cốt trị căn bệnh gì. “Tin ta mà không hiểu ta chính
là phỉ báng ta đó”. Phật đã từng dạy.
-
Thái độ trên đây là “thực hành theo Pháp mình đã nghe một cách vội vàng, không
suy xét”. Đó là thái độ của người kém trí tuệ, có lòng tin mù quáng thành ra
tự hại mình và còn làm cho thầy mang tiếng xúi bậy. Khi tu hành không được kết
quả thì lại mất lòng tin một cách oan uổng. Chẳng khác nào Phật đưa cho cái
chìa khóa, mà không mở được cửa vì xoay chìa không đúng cách. Hoặc có khi xoay
chìa đúng, cửa sẵn sàng mở nhưng thay vì đẩy ra, ta lại kéo vào thì cũng không
xong!
-
3.
Ngã chấp
-
Còn một thái độ thứ ba cũng không kém tác hại, là bác bỏ ngay lời giảng dạy vì
không hợp gu của mình. Đây là thái độ nóng nảy của người muốn chóng có kết
quả, xem phương pháp tu của Phật dạy thật quá lâu lắc không thiết thực, rồi đi
theo những thầy tà bạn ác để mau đắc thần thông. Khi biết mình bị lừa thì đã
quá muộn.
-
4.
Thờ chìa khóa
-
Một thái độ thứ tư là người nghe pháp xem như một bùa chú linh nghiệm, cất kỹ
để hộ thân thay vì xem Pháp như những chỉ giáo để sống trên đời. Chẳng khác
nào kẻ đang bị giam giữ, được cái chìa khóa để mở cửa nhà giam, nhưng lại lầm
cho đó là bùa chú để hộ thân, bèn suốt ngày săm soi, đặt lên bàn thờ, lâm râm
tụng niệm “Nam mô chìa khóa, nam mô chìa khóa...” Nhờ lòng tin tưởng ấy, người
tù cũng cảm thấy đỡ khổ khá nhiều nhưng sao bì được với việc sử dụng chìa khóa
để mở cửa nhà tù mà ung dung bước ra.
-
III. VĂN TU TU
-
Biết pháp còn phải biết cách vận dụng pháp thì mới thực sự có lợi ích, cũng
như có chìa khóa còn phải biết cách mở. Chúng ta học Pháp là học chân lý Phật
dạy, nhưng còn phải biết những phương pháp để thực hành chân lý ấy tùy từng
giai đoạn và nơi chốn. Trong sự học Pháp, Phật đã dạy ba phương pháp học là
VĂN, TƯ và TU.
-
VĂN là nghe giảng, đọc sách, thảo luận với bạn đạo để hiểu cho thấu đáo và
rộng rãi lời Phật dạy. Nhưng nghe không cũng chưa đủ. Có người đi nghe giảng
suốt đời, thuộc lòng Phật pháp và đọc tụng những kinh điển cao siêu nhưng vẫn
chứng nào tật ấy, chẳng có gì tiến bộ trong đời sống hàng ngày, lại còn mắc
thêm chứng kiêu mạn cho ta đây kinh gì cũng biết. Đấy là hạng Phật tử làm sưu
tập chìa khóa mà không sử dụng, chất chìa khóa đầy nhà thì chỉ thêm choán
chỗ.
-
TƯ
là suy nghĩ cân nhắc đắn đo về những pháp mình đã nghe, đi sâu vào Pháp bằng
tâm ý của mình chứ không chỉ bằng lỗ tai và cái miệng. Có tư duy thiền định
mới thấm được những lợi ích sâu xa của Pháp ngoài các lợi ích nhỏ nhoi như cứu
bệnh, tăng thêm tài lộc, thăng quan tiến chức... Có một nhóm quân nhân Phật tử
thường họp nhau thảo luận Phật pháp mỗi tuần một đề tài. Hôm ấy đề tài là “Tại
sao anh tin Phật?”. Rất nhiều ý kiến được đưa ra, đa số thuộc về những linh
ứng mà bản thân đương sự đã được hưởng mỗi khi gặp gian nguy trong đời, đại
loại như, “Tôi tin Phật vì một dạo gia đình chạy giặc nửa đêm đến một khúc
sông lớn, giặc đuổi sau lưng; cả gia đình thành tâm niệm Bồ tát Quan âm thì
bỗng xuất hiện một chiếc thuyền trên đó có ông già mặc áo trắng râu bạc ghé
vào bờ đưa tất cả qua sông. Vừa lên bờ nhìn xuống toan tìm ông già để trả tiền
thì không thấy gì nữa, cả thuyền và người đều biến mất...”
-
Thực cũng khá hấp dẫn, người nghe có người cảm động có kẻ không tin. Nhưng có
một lời phát biểu làm cho mọi người phá lên cười là của một Phật tử: “Tôi tin
Phật vì ngài bảo đừng tin Ngài”. Đấy là một người thực sự có suy tư về Pháp và
thấm nhuần được những lợi ích sâu xa của Pháp. Phật dạy đừng vội tin lời Ngài,
mà nghe xong phải suy nghĩ cho chín chắn coi đúng không cái đã. Có những Pháp
không đúng trong lúc này mà lại đúng vào lúc khác, nên người học cần phải có
sự sáng suốt nhận định theo hai chiều: khế lý và khế cơ. Pháp mình nghe được
phải đúng chân lý đã đành nhưng còn trình độ của mình nên thực hành như thế
nào cũng cần xét đến. Ví dụ với người đang hành nghề đồ tể hay đánh cá khi
nghe giới “không được sát sinh”, thì cần trước hết tìm xem điều ấy có đúng
không. Khi đã thấy là đúng, nhưng mình chưa bỏ được thì nên thực hành theo
từng giai đoạn, như đầu tiên làm “diệu hạnh” nghĩa là kiêng sát sinh vào những
ngày vía Phật, ngày rằm, vân vân rồi từ từ giảm việc sát sinh khi không phải
vì mưu sinh mà vì muốn làm giàu. Và cuối cùng, có thể đổi sang nghề khác. Đó
là cách tu tuần tự. Tất cả các giới pháp khác cũng vậy, phải xét trình độ mình
có thể theo Pháp đến mức nào, và cố thực hành dù ở mức thấp nhất. Như thế là
biết cách xoay xở để sử dụng cái chìa khóa Phật pháp để dần dần thoát vòng
nghiệp chướng. Trong kinh Bách Dụ, Phật có kể chuyện một người khát nước gần
chết nhưng khi gặp một con sông thì lại không chịu uống, bảo rằng nước nhiều
quá làm sao tôi uống cho hết được, và cuối cùng phải chết khát bên dòng sông.
Đấy là thái độ người nghe Pháp thật nhiều mà không thực hành, vì cứ nghĩ Pháp
Phật quá sâu rộng cao xa mà mình quá kém cỏi.
-
Một khía cạnh thứ ba của việc học Pháp là TU TUỆ, nghĩa là áp dựng Pháp vào
đời sống hàng ngày sau khi chọn lựa những gì thích hợp cho trình độ mình. Đôi
khi thầy dạy một điều rất cao mình phải biết là mình chưa đạt tới trình độ ấy,
chưa áp dụng được, nhưng đừng vội phủ nhận vì một thời gian sau, nếu tinh tiến
tu hành sẽ có lúc mình đạt đến chỗ ấy. Ngày xưa ở Tây Tạng có một ông vua rất
hâm mộ Phật pháp, mời một pháp sư nổi tiếng về kinh đô giảng cho cả triều
đình. Pháp sư này tu Bát nhã đã chứng Tính không nên giảng toàn về Không, tứ
đại ngũ uẩn giai không, phàm thánh giai không, sinh tử niết bàn cũng giai
không, tội phúc cũng giai không... Vị vua nghe Pháp sư giảng xong rất thích
thú nhưng đồng thời cũng thấy thật nguy hiểm để cho ông này sống, vì ông nói
quá hay, nếu để ông giảng cái Không ấy cho thần dân thì không còn ai tu hành
gì nữa... Và vua cũng muốn thí nghiệm coi pháp sư có thực chứng Tứ đại giai
không không hay chỉ nói nơi lỗ miệng. Bèn đem pháp sư ra xử trảm.
-
Pháp sư quả đã thực chứng tính không nên trước cái chết ông không biến sắc.
Sau đó vua thỉnh một vị thầy khác về kinh đô giảng Pháp, vị này lúc đầu nói về
nhân quả nghiệp báo, làm lành gặp lành làm ác gặp dữ, bởi thế cần phải làm
lành lánh dữ, nếu muốn gặp lành không muốn gặp dữ. Ai cũng muốn lành thế mà
lại làm ác, không ai muốn gặp dữ thế mà ít ai chịu làm điều lành, vì mâu thuẫn
như thế nên thế gian này đầy những rối ren đau khổ. Muốn làm lành lánh dữ cần
phải có trí tuệ phân biệt cho đúng cái gì thực là lành, cái gì thực là dữ. ông
vua nghe pháp này rất lấy làm hài lòng, bèn hỏi: “Thế thì tính không có phải
là Phật pháp hay không? Hay đó là chủ thuyết tà ngụy?”. Vị pháp sư này tâu:
“Tâu bệ hạ, tính không mới là cốt tủy của Phật pháp. Sau khi đã thuần thục
trong việc bỏ ác làm lành, vua phải an trú tâm vắng lặng không vướng bận quả
báo, thì mới là điều lành tối thượng. Nếu còn vướng một điều lành nào thì cũng
chưa thực sự giải thoát, vì sẽ ham hưởng quả báo ở cõi trời, nghĩa là vẫn còn
quanh quẩn trong tam giới”. Sau một thời gian tu tập vua mới thấm ý nghĩa Tính
không này, và vô cùng ân hận vì đã lỡ giết mất một bậc minh sư.
-
Đấy là tai hại của việc nghe pháp mà không tư duy tu tập và vội vàng kết luận
về pháp mình đã nghe, không suy xét trình độ bản thân mình.
-
IV. KẾT LUẬN
-
Khi nghe Pháp tối thượng về Tính không, ta nên cẩn thận suy xét lời giảng sư
nói, rồi chiêm nghiệm coi mình tu hành đã đến trình độ đó hay chưa. Nếu chưa,
thì khoan làm theo nhưng phải thấy được đấy là pháp tối thượng để không mất
hướng mục tiêu giải thoát. Vì Pháp chung quy chỉ là ĐƯỜNG LỐI GIẢI THOÁT. Giải
thoát là hết chấp trước. Nhưng có nhiều cách chấp. Khi còn phàm phu ta chấp
vào ăn mặc ở, vào sắc thanh hương vị xúc, nên khởi sự ta phải tu hạnh từ bỏ,
thiểu dục tri túc, nghĩa là tu GIỚI. Đó là chặng đầu của giải thoát. Khi giới
hạnh thanh tịnh, cảm thấy tâm yên ổn không có gì ân hận, tâm được định tĩnh,
mới thấy rõ cái gì là thiện cần làm cái gì là ác cần tránh. Đó là chặng gíữa
của con đường giải thoát. Nhưng còn vướng bận về thiện ác, còn ôm giữ quả báo
nghĩa là còn ngã chấp thì cũng chưa thực sự giải thoát, nên cần phải buông xả,
đạt đến VÔ NIỆM VÔ TRÚ VÔ TƯỚNG như lời dạy của tổ Huệ năng thì mới là giải
thoát thực sự, tức là khai mở tri kiến Phật để thấy được Tính không:
-
“Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhá trần ai?”
-
Nghe như vậy, có người khởi lên ý nghĩ “tôi cần phải buông xả” thì lại là một
sự trói buộc khác. Cho nên, cứ theo nguyên tắc là tất cả ác nên tránh, tất cả
lành nên làm, rồi tùy khả năng mà làm lành lánh dữ nhưng trong tâm không nghĩ
đến quả báo. Khi nào đúng thời tiết nhân duyên, thì giải thoát tự đến, như cứ
chăm sóc cây cối thì đúng kỳ sẽ có hoa trái, chứ không phải muốn mà được Nhưng
việc tu tâm có hơi khác ở chỗ, ta có thể thấy được tiền vị của Niết bàn, trong
khi tu nhân ta đã thấy được cái quả lấp ló. Muốn thực nghiệm, hãy buông bỏ mọi
mong cầu, ngay cả mong cầu giải thoát, không nghĩ thiện không nghĩ ác, để tâm
hoàn toàn vắng lặng mà vẫn tỉnh táo. Trạng thái VÔ NIỆM ấy là tin tức về bản
lai diện mục, về niết bàn. Nhưng một niệm sau đó muốn kéo dài giây phút ấy ra
tức là đã lọt vào tam đồ lục đạo.
--o0o--
|
|