|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
CHÁNH PHÁP & HẠNH PHÚC
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo-2001
H. T. Thích
Minh
Châu
---o0o---
-
11. SỐNG THEO LÝ TƯỞNG BỒ TÁT
-
-
Trong đạo Phật có hai tư trào, hai xu thế tựa hồ như mâu thuẫn
nhau, nhưng thật ra thì bổ sung hỗ trợ cho nhau; cả hai tư trào
đó đều có ý nghĩa đối với cuộc sống của con người hiện đại.
-
Thứ nhất là tư trào hướng nội, quay trở về cái mà đạo
Phật thường gọi là bộ mặt thật xưa nay của chính mình, con người
thật của mình.
-
Thứ hai là tư trào hướng ngoại, mà sách Phật thường gọi
là lợi hạnh độ sanh. Lợi hạnh là làm tất cả mọi điều lợi ích cho
tất cả mọi loài hữu tình. Độ sanh là giải thoát mọi loài hữu
tình khỏi mọi nỗi bất hạnh, đặc biệt là nỗi bất hạnh lớn lao
nhất là sống chết luân hồi. Thực chất của tự trào hướng ngoại
này là đồng nhất cá nhân mình với toàn thể mọi người, mọi chúng
sinh trong thế giới vũ trụ.
-
Cả hai xu hướng nói trên tiêu biểu cho hai hạnh lớn của đạo Phật
là trí tuệ và từ bi, và đức Phật là bậc Thánh được Phật
tử toàn thế giới ca ngợi, tôn sùng như là thể hiện một cách hoàn
hảo nhất hai đức hạnh trí tuệ và từ bi đó.
-
Tôi xin lần lượt phân tích cặn kẻ hơn hai xu thế của đạo Phật,
mà tôi tin rằng có một giá trị hiện sinh lớn (great
exitstential dimension) đối với thời đại hiện nay của chúng
ta.
-
1. Xu thế hướng nội: Quay về con người thật của chính mình.
-
Chúng ta có thể suy nghĩ gì về cuộc sống thác loạn, chạy theo
lạc thú vật chất đang là đặc trưng nổi bật của những xã hội có
trình độ văn minh vật chất cao, và cả của những xã hội đang phát
triển, nhưng bị nền văn minh đó làm cho mê hoặc và chói lòa? Có
sức mạnh sâu kín gì nằm ở đằng sau những tệ nạn xã hội như ma
túy, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và
bạo dâm, đồng tính luyến ái, bệnh tâm thần, nạn tự sát cá nhân
hay tập thể v.v ... ? ở đằng sau tất cả nếp sống thác loạn đó là
xu thế của con người bất hạnh muốn thoát khỏi cái ta hạn hẹp và
vị kỷ, muốn thoát khỏi một tâm trạng bất an và ưu tư dai dẳng,
thường trực mà tiếng Anh gọi bằng danh từ chung là anxiety.
Nhưng vì sao lại có tâm trạng bất an và ưu tư thường trực đó mà
con người hiện đại muốn tìm sự lãng quên trong nếp sống thác
loạn, đôi khi mất cả tính người.
-
Phải chăng là con người tưởng rằng, vì nội tâm đầy ưu tư và buồn
chán, cho nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc thú vật chất?
Phải chăng con người tưởng rằng càng chiếm hữu nhiều của cải và
tiện nghi vật chất, con người sẽ càng được thêm hạnh phúc, mọi
nỗi ưu tư trong nội tâm sẽ được xóa bỏ.
-
Ảo tưởng này đâu có mới mẻ mà có tính muôn thuở ở ấn Độ cổ đại,
đã từng có triết phái Duy vật (Carvaka) chủ trương như thế. Và ở
thành phố Athène thời Socrates, có những triết gia thuộc phái
ngụy biện (Sophistes) cũng đã từng bênh vực cho một lối sống
khoái lạc vật chất tối đa như là một lối sống lý tưởng, xứng
đáng được con người mơ ước.
-
Đạo Phật nói đó là ảo tưởng của những người khát nước mà còn ăn
mặn, và càng ăn mặn càng bị khát. Đạo Phật vạch ra rằng, nỗi bất
an và ưu tư nội tâm chỉ có thể giải quyết ở trong nội tâm, chứ
không thể giải quyết ở bên ngoài. Phương pháp tu Thiền của đạo
Phật – mà người phương Tây quen gọi là đạo Phật Thiền (Zen
Buddhism) chính là phương pháp giúp cho con người trở về với nội
tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu tư và bất an
của nội tâm. Nội tâm chúng ta không khác gì mặt nước hồ, bị
những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại cảnh làm cho nổi sóng và
vẩn đục. Chúng ta ưu tư chúng ta bất an chính vì chúng ta hằng
ngày sống với cái nội tâm nổi sóng đó, trong khi cả lớp nước hồ
sâu thẳm, trong lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ, không
phải của mình.
-
Mục đích của Thiền không ở ngoài việc chỉ bày cho chúng ta những
phương pháp thích hợp để làm cho bề mặt của nội tâm ta không còn
nổi sóng, không còn dao động, để có thể nhìn sâu vào những lớp
nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn là cái tâm thật của chúng ta,
chân tâm của chúng ta.
-
Nội tâm con người, từ bề mặt cho đến những bề sâu, một khi được
làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như gương, sẽ là nguồn an
lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý là ánh sáng, là Niết Bàn. Phương
pháp tu Thiền rất nhiều vì bản tính con người muôn vàn sai biệt,
người thì độn căn, người lợi căn, có người nặng về tham, có
người lại sân và si nhiều; hay là ngược lại. Thế nhưng mục đích
cuối cùng phải đạt tới của mọi phương pháp tu Thiền là an tịnh
nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội tâm từ
dao động trở thành yên tịnh, từ mê mở trở thành sáng suốt. Tâm
sáng suốt, đó chính là trí tuệ Bát-nhã, chính là cái mà sách Anh
ngữ thường gọi là trí tuệ siêu việt Transcendental wisdom. Có
được trí tuệ Bát-nhã, thì tức là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy
tất cả biết hết tất cả (Omnicient).
-
Một ông vua mà giới sử học quốc tế thường biết đến như là một
anh hùng đã lãnh đạo quân dân Việt Nam hai lần chiến thắng đội
quân xâm lược Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, đội quân đã từng làm
mưa làm gió trên các chiến trường châu âu, và Châu Á thời bấy
giờ. Ông vua đó Trần Nhân Tông. Ông vua đó, sau khi đánh bại
quân Nguyên Mông đã không chịu ở lại ngôi vua để tận hưởng vinh
quang của chiến thắng, mà đã nhường ngôi cho con, xuất gia theo
đạo Phật, trở thành vị Thiền sư lỗi lạc, lập ra phái Thiền Trúc
Lâm Yên Tử. Những tác phẩm Phật học của ông, toát lên nhiều tư
tưởng kỳ đặc. Một trong những tư tưởng đó là theo nguyên văn lời
ông.
-
"Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa,
Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt,
Cốc mới hay chính Phật là ta".
(Cư Trần Lạc Đạo Phú - hội 5)
-
Nghĩa là theo Trần Nhân Tông, con người thật của chúng ta chính
là Phật, và chính vì chúng ta quên mất cái bổn, cái gốc đó cho
nên chúng ta mới là chúng sinh, có trí óc mê muội và thân tâm
đau khổ bất hạnh. Niềm ưu tư, bất an có thường trực trong nội
tâm của chúng ta chính là bắt nguồn từ ở chỗ chúng ta quên mất
con người thật của chúng ta là Phật, sống với con người giả của
chúng ta là chúng sinh. Đạo Phật của Trần Nhân Tông cũng như của
đời Trần nói chung là một đạo Phật hướng nội rất rõ nét, rất
sinh động. Trên từ vua cho đến các quan lại, tướng lãnh, binh
sĩ, dân thường nếu mọi người đều tin rằng mình là những vị Phật
sẽ thành, do đó ngay trong hiện tại phải sống xứng đáng với vị
Phật ở trong mình, sống với những đức hạnh của Phật như là từ
bi, trí tuệ, dũng khí, vô úy... thì hãy hỏi có
giặc ngoại xâm nào, kể cả quân đội Nguyên Mông thiện chiến, có
thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không bị đánh bại.
-
Cổ đức có câu:
-
"Khổ hải vô biên,
Hồi đầu thị ngạn".
-
Nghĩa là:
-
"Biển khổ mênh mông,
Nhưng quay đầu lại thì sẽ thấy bờ ngay".
-
Quay đầu lại hướng về nội tâm, quay đầu lại sống với con người
thật của mình, và con người thật đó chính là Phật với đầy đủ hai
đức hạnh trí tuệ và từ bi. Đó chính là phương thuốc mà đạo Phật
có thể cống hiến cho con người hiện đại, con người hiện nay đang
lãng đãng như khách phong trần trên khắp các nẻo đường, tìm kiếm
sự thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm đó là vô vọng.
Đạo Phật nói: Thôi hãy đừng tìm kiếm đâu xa nữa? Hãy trở về với
chính mình, với con người thật của mình.
-
Trần Nhân Tông, nhà vua–Thiền sư mà tôi đã giới thiệu trên đây
có hai câu thơ chữ Hán:
-
"Gia trung hửu bán hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền".
-
Nghĩa là:
-
"Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền".
-
Trong nhà có sẵn ngọc, không cần tìm kiếm đâu xa nữa, cũng như
nói chính mình là Phật rồi, thôi đừng cầu Phật, tìm Phật ở đâu
xa nữa. Và vì đã là Phật, cho nên ngoại cảnh dù có biến đổi, hấp
dẫn như thế nào cũng không thể ảnh hưởng chi phối. Nội tâm con
người vẫn bình lặng. Đã bình lặng thì sáng suốt, không gì không
thấy, không biết. Và đó chính là Thiền rồi, cũng không cần học
hỏi Thiền làm gì.
-
2. Xu thế hướng ngoại: Một cuộc sống hoàn toàn vô ngã, vị tha,
tích cực, năng động, phong phú.
-
Con người, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết quả,
cuối cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy cái gọi mình
là ta thực ra không tồn tại. Cả thân và tâm chỉ là một dòng, một
chuỗi hiện tượng tâm và sinh lý biến chuyển liên tục trong từng
sát na một và ở bên trong hay là ở đằng sau dòng chảy liên tục
đó, không có một cái gì gọi là linh hồn hay là cái ta vĩnh cửu.
-
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Suragama) một bộ kinh Đại thừa quan trọng
đã minh họa thuyết Vô ngã của đạo Phật bằng một ảnh dụ rất sinh
động và cụ thể: "Cũng như trăm ngàn biển cả trong lặng mênh
mông, mà bỏ đi tất cả rồi chấp nhặt một bọt nước làm mình...".
Chấp thân tâm này là ta, cũng như biển cả quên mình là biển cả
rồi chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.
-
Con người giác ngộ lý vô ngã của nhà Phật, phát hiện thấy mình
không phải là cái bọt nước, mà là cả đại dương rộng lớn, mình là
đồng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sinh, mọi loài hữu
tình, và từ nhận thức đầy trí tuệ này, con người phát ra một
lòng từ rộng lớn, lòng bi rộng lớn, nguyện làm tất cả những gì
có thể làm được vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, của tất cả mọi
loài. Sống như vậy, đạo Phật gọi là sống theo lý tưởng Bồ-tát
(Bodhisattva ideal). Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi người,
mọi chúng sinh, đúng theo nguyên lý mọi người, mọi chúng sinh
đều bình đẳng, cùng một thể.
-
Tôi tin rằng lý tưởng Bồ-tát, như được trình bày trên đây, là
một lý tưởng có giá trị hiện thực lớn đối với thế giới hiện đại,
vì các tôn giáo lớn trên thế giới đều có thể chấp nhận và thực
hiện lý tưởng Bồ-tát của đạo Phật trên những mức độ khác nhau,
và với những tên gọi khác nhau.
-
Đạo Gia-tô nói: “Hãy thương người như thể thương mình". Đạo Hồi
nói: “Người Hồi giáo trong bốn biển đều là anh em". Đạo Phật
nói: “Hãy yêu thương tất cả chúng sinh như người mẹ yêu thương
đứa con một của mình".
-
Tất cả những lời lẽ khác nhau đó đều nói lên một nội dung thống
nhất là tình thương rộng lớn, bao trùm lên mọi người không phân
biệt chủng tộc và dân tộc, màu da và giới tính v.v...
Tình thương rộng lớn đó phải là nét đặc trưng nổi bật nhất của
một trật tự đạo đức mới, rất cần thiết cho xã hội và thế giới
hiện đại, ở phương Tây cũng như phương Đông.
-
Đạo Phật khuyến cáo mọi người hãy quay về với người thật của
mình, thế nhưng con người thật của chúng ta lại là vô ngã. Nó
không hạn chế trong cái thân và tâm vô thường hạn hẹp này, nó là
cũng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sinh và mọi loài
hữu tình khác. Và sống hòa nhập với mọi người, mọi chúng sinh
chính là lối sống vô ngã vị tha theo lý tưởng Bồ-tát.
-
Nói tóm lại, hướng nội để tìm con người thật của chính mình.
Nhưng sau khi phát hiện con người thật của mình lại không có
mình không có ta, lại là vô ngã, đồng nhất thể với tất cả mọi
người, mọi chúng sinh khác, cho nên đạo Phật lại chủ trương một
cuộc sống năng động tích cực, hướng ngoại không phải là để tìm
và hưởng thụ những lạc thú vật chất tầm thường và phi đạo đức,
mà là để mưu lợi ích và đem lại an lạc cho mọi người, mọi loài
Trong cả hai xu thế hướng nội và hướng ngoại này, nổi bật lên
chủ thuyết Vô ngã của đạo Phật, nó không khác gì sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ giáo lý, đạo đức và thực tiễn tu hành của đạo
Phật.
-
Khi đức Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài đã nhập diệt, tại
bất cứ nơi nào đạo Phật có mặt thì lý tưởng vô ngã vị tha bao
giờ cũng là chuẩn mức bất di dịch của nếp sống đạo đức Phật
giáo, đối với người xuất gia cũng như người tại gia. Lý tưởng đó
chói sáng Phật giáo Nguyên thủy cũng như Phật giáo phát triển,
Phật giáo Nam tông cũng như Phật giáo Bắc tông, hồi Phật còn tại
thế cũng như mãi mãi về sau này. Bất cứ mọi người nào mà chối bỏ
lý tường đó, sống ngược lại với lý tưởng đó, thời không thể được
xem như là người Phật tử chân chính, chứ đừng nói gì đến bậc
A-la-hán. Ấy thế mà vẫn có người viết sách phê phán, lý tưởng
của A-la-hán là vị kỷ hẹp hòi. Họ không hiểu rằng muốn thành
A-la-hán, điều kiện tiên quyết là phải diệt trừ mọi tư tưởng về
cái ta, phải giác ngộ về lý vô ngã vị tha.
-
Chúng ta hãy nghe lại lời đức Phật khuyến dụ lớp học trò đầu
tiên của Ngài:
-
"Này các Tỳ kheo, các người cần phải tu hành, vì an lạc cho số
đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
hạnh phúc của chư Thiên và loài Người..."
(Mahavagga, 19)
-
Cần nhắc lại rằng, sớm từ năm 300 trước Công nguyên, vào một
thời mà đạo Phật Đại thừa chưa hưng khởi thì Hoàng đế Asoka ở Ấn
Độ đã phái nhiều đoàn truyền giáo mang thông điệp của đức Phật
Thích-ca đến tận các xứ Xiri, Hy Lạp, Ai Cập và Bắc Phi và nhiều
vùng xa xôi khác trên thế giới. Theo truyền thuyết, một phái
đoàn truyền giáo của Asoka đã đến tận nước Việt Nam, và có xây
một bảo tháp ở đây. Truyền giáo ở đất nước xa xôi, bất chấp
những trở ngại về ngôn ngữ, phong tục tập quán v.v... là
một hành động không những vị tha mà còn dũng cảm nữa. Và đã có
biết bao nhiêu người đi mà không trở về trong sự nghiệp truyền
giáo của các tôn giáo lớn trên thế giới.
-
Thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là đã đánh mất con người
thật của chính mình, mà chạy theo cái Ta giả với những khao khát
thèm muốn không bao giờ có thể thỏa mãn. Con người hiện đại ở xã
hội văn minh phương Tây, có thể sống một đời sống tiện nghi vật
chất thật đầy đủ, nhưng chỉ thiếu một cái là hạnh phúc, là sự an
ổn nội tâm để thật sự thụ hưởng tất cả mọi của cải và tiện nghi
vật chất đó.
-
Đúng như vậy, của cải và tiện nghi vật chất, lạc thú vật chất
không thể là mục đích tự nó, và cứu cánh được Bởi vì, tối thiểu,
con người phải có sự bình tĩnh và thanh thản của tâm hồn mới có
thể tận hưởng những lạc thú vật chất hay tinh thần. Thế nhưng từ
lâu, do cuộc sống thác loạn và hướng ngoại, mất hài hòa với bản
thân, với thiên nhiên và xã hội, con người của xã hội văn minh
phương Tây đã đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản đó của tâm
hồn, là điều kiện tiên quyết và cơ bản của một hạnh phúc chân
chính và thật sự.
-
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, Socrates đã vạch ra tất cả sự vô
nghĩa lý của một lối sống tôn thờ khoái lạc vật chất như là độc
nhất và tối thượng. Chúng ta có thể đọc lời phê phán sắc sảo đó
của Socrates trong bài đối ngoại Phillebus của Plato. Trong cuộc
đàm thoại, Socrates đã dẫn đối phương của mình là Protarchus đến
kết luận vô lý này là con người chỉ cần hưởng lạc thú tối đa,
ngoài ra thì không cần gì hết, kể cả lý trí, sự thông minh, trí
nhớ, kiến thức và quan niệm đúng đắn. Nghĩa là theo Protarchus,
con người miễn là được hưởng lạc thú tối đa, còn thì không cần
gì nữa hết, kể cả sự thông minh, lý trí, trí nhớ v.v...
-
Socrates nói: "Như vậy thì không có trí nhớ làm sao ông nhớ được
ông đã được hưởng lạc thú: bởi lẽ ngay sau khi hưởng lạc thú,
ông không còn còn nhớ gì được hết, và hơn nữa, vì ông cũng không
có quan niệm đúng đắn, ông cũng không nghĩ được rằng ông đã được
hưởng lạc thú, và bởi vì ông cũng thiếu khả năng lý trí, ông
cũng mất khả năng nhận thức được rằng ông sẽ còn được hưởng lạc
thú trong tương lai. Ông phải sống cuộc sống của con sò hay là
của những con vật sống nào khác mà trú xứ là đáy biển mà linh
hồn bị dấu kín ở trong vỏ cứng. Có phải tất cả là như thế chăng,
hay là chúng ta có thể nghĩ một cái gì khác?"
-
Protarchus: "Chúng ta không thể nghĩ khác được”.
-
Socrates: "Nếu vậy thì phải chăng chúng ta có thể nghĩ rằng một
lối sống như thế là đáng mong ước?”
-
Protarchus: "Này Socrates, lập luận của ông làm tôi điếc cả tai
..."
-
Tôi dẫn chứng cuộc đàm thoại của Socrates để nói rằng con người
hiện đại, sống một cuộc sống văn minh vật chất cao ở cuối thế kỷ
XX này vẫn có thể tiếp tục suy nghĩ ấu trĩ như Protarchus ở
Athenes cách đây hai mươi lăm thế kỷ.
-
Tất nhiên, đạo Phật một mặt lên án cuộc sống chạy theo những dục
vọng vật chất thấp hèn, mặc khác cũng không phải đề cao cuộc
sống nghèo đói, kham khổ, đạo Phật lại càng phê phán lối tu hành
hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ làm cho thân người bệnh hoạn
và đầu óc con người u mê. Đức Phật khuyến chúng ta tránh cả hai
cực đoan chạy theo dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh. Đức
Phật khuyến cáo học trò mình cũng như tất cả mọi người sống nếp
sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói sáng đạo đức, giới
hạnh và trí tuệ, một nếp sống mà tất cả mọi người giàu hay
nghèo, xuất gia hay tại gia, ở phương Đông hay phương Tây đều có
thể sống hay hướng đến. Một nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình
tĩnh nội tâm sự sáng suốt của trí tuệ, giúp cho con người có thể
thấy được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà con người có thể sống
hài hòa với bản thân và làm chủ bản thân, sống hài hòa với xã
hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp sống hài hòa đó, với bản
thân, với xã hội và thiên nhiên, con người mới tìm thấy hạnh
phúc thật sự.
-
Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận và sống nếp sống như vậy, thì
cả thế giới chiến tranh và bất ổn này sẽ sớm trở thành một thế
giới hòa bình và hạnh phúc, kỷ nguyên XXI sắp tới đây sẽ trở
thành kỷ nguyên của con người, kỷ nguyên trong đó các giá trị
nhân bản là thước đo, là chuẩn mức của mọi giá trị, đường ranh
giới phân biệt thật hay giả, thành công hay thất bại, chánh kiến
hay tà kiến. Một kỷ nguyên trong đó con người trở thành vị quan
tòa tối thượng, đánh giá mọi hệ thống chính trị xã hội, xem hệ
thống nào ưu việt, đầy sức sống, hệ thống nào lỗi thời, phải
cương quyết tự cải tổ lại hay là rút lui khỏi vũ đài lịch sử.
-
Xu thế hướng nội, quay về với con người thật của chính mình
không thể bị hiểu nhầm, là tiêu cực, tự thu mình trong tháp ngà.
Trên đây, tôi có nói đến một xu thế khác của đạo Phật, xu thế
hướng ngoại dẫn tới một cuộc sống vị tha tích cực, vì lợi lạc
của tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Trong kinh điển của Phật
giáo Nguyên thủy, có ghi những lời dạy của đức Phật, khuyến cáo
các đệ tử của mình hãy tích cực hoằng hóa độ sanh, và nhất là
thực hành Bốn nhiếp pháp để gần gũi chúng sinh, mưu lợi lạc cho
chúng sinh, gần gũi mọi người, đem lợi lạc cho mọi người.
-
Bốn nhiếp pháp đó là ái ngữ tức là lời nói dịu hiền, dễ nghe; bố
thí tức là giúp đỡ chúng sinh trên các mặt cung cấp của cải vật
chất, giảng giải đạo lý, giáo pháp của đức Phật, che chở, bảo vệ
chúng sinh nếu cần thiết, và tùy hỷ với tất cả mọi điều lợi lạc
cho chúng sinh; lợi hành và cuối cùng là đồng sự tức là cùng làm
việc với chúng sinh v.v... Bốn nhiếp pháp, ái ngữ, bố thí, lợi
hành, đồng sự là như vậy, chúng thể hiện nếp sống vị tha tích
cực của đạo Phật. (Xem Tăng Chi I, 387). Cùng với Bốn nhiếp
pháp, người Phật tử giác ngộ về thuyết vô ngã còn ra sức tu tập,
thực hành Bốn vô lượng tâm, tức là mở rộng lòng từ lòng bi, lòng
hỉ, lòng xả, bao trùm tất cả chúng sinh khắp mười phương. Đồng
thời cũng tu tập thực hành sáu hạnh ba la mật, tức là bố thí,
giới hạnh, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định, trí tuệ. Sáu hạnh
này được tu tập và thực hành đến chỗ hoàn hảo, triệt để sẽ giúp
cho những người sống theo lý tưởng Bồ-tát, có thể vứt bỏ hoàn
toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa nhập vào tất cả chúng sinh,
tất cả mọi người.
-
Đó là nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý Vô ngã của
đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là tiêu cực thụ động. Trái
lại, nó rất tích cực, năng động và phong phú, đa dạng. Mong rằng
nó tỏ ra hấp dẫn đối với con người hiện đại, đối với xã hội hiện
đại.
--o0o--
|
|