TỦ SÁCH PHẬT HỌC
- HÃY ĐẾN ĐỂ
THẤY
Phật Giáo, Con
Đường Đưa Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Ni Sư Ayya Khema
Việt Dịch: Chơn Minh Nguyễn Văn Phú,
- Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường &
Diệu Liên Lý Thu Linh
- Come And See For Yourself The
Buddhist Path To Happiness 2006
Nguyên tác Đức ngữ
‘Komm Und Sieh Selbst’ @ Jhana Verlag 1998
Bản Anh ngữ ‘Come And See For Yourself’ @ Windhorse Publications 2002
ISBN 1 899579 45
Việt dịch từ Anh
ngữ và ấn tống với sự đồng ý của Buddha Haus e..V./Jhana Verlag,
Germany
-
CHƯƠNG MỘT
Hiểu Biết Về Vô Thường Dẫn Đến Hạnh
Phúc
-
- Người luôn
luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.
Kinh Pháp Cú - Câu 374 (1)
Dhammapada stanza 374
-
Từ Pali Dhammapada có thể được dịch là ‘Những bước trên con đường giáo
pháp’. Tác phẩm nổi tiếng nầy được chia làm nhiều phần, mỗi phần
có nhiều đoạn kệ: là những câu kệ được Đức Phật nói ra vào những dịp
khác nhau, nhằm giáo huấn về các đề tài khác nhau. Tuy nhiên, những
lời dạy nầy thật xúc tích, cô đọng nên mỗi đoạn kệ tự nó là một bài
tiểu luận.
-
Để diễn giải đoạn kinh được trích dẫn ở trên, tôi (Ni Sư Ayya Khema)
muốn trước hết phân tích nghĩa của một số từ trong câu đó. Đức
Phật nói về khả năng đạt được an vui hạnh phúc của chúng ta và đó là
điều mà tất cả chúng ta đều muốn đạt được. Nhân loại tìm cầu
hạnh phúc bằng nhiều cách, qua nhiều thứ khác nhau, thường là ở các
đối tượng bên ngoài. Chúng ta cố gắng, bằng đủ mọi cách, để đạt
được hạnh phúc, và khi có rồi thì ta muốn giữ chặt lấy nó. Ta
nghĩ rằng mình sẽ luôn được hạnh phúc nếu có thể giữ chặt một cái gì
đó, một người nào đó hoặc một sự kiện gì mà đã có lần đem lại cho ta
hạnh phúc. Thế nên ta thường cố tìm hạnh phúc trong của cải vật
chất, hay làm một việc gì đó mà ta nghĩ sẽ làm mình thỏa mãn.
Nhưng từ thuở khai thiên lập địa, chưa ai là người có thể giữ được
hạnh phúc luôn bên mình.
-
Đức Phật dạy là để tìm được hạnh phúc chúng ta phải tu tập. Ta
có thể nói nghề nghiệp đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng dù cố gắng tự
nhủ mình đến mấy là ta cảm thấy mãn nguyện vì đã làm được nhiều việc
ích lợi cho đời, nhưng khi nhìn kỹ lại ta thấy thứ hạnh phúc nầy không
trường cửu và trong thâm tâm ta vẫn bồn chồn, bất ổn. Khi mang
tâm trạng buồn chán như thế, người ta lại thường nghĩ rằng có gì đó
không ổn ở bên ngoài - họ không nhận ra được rằng điều mà họ đang cảm
nhận đến từ nội tâm của mình.
-
(1) Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Hòa Thượng
Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn Giáo – Hà Nội 2000
-
Cách suy nghĩ thông thường của ta luôn là muốn được một cái gì đó.
Ngay cả khi cái mà chúng ta muốn là một điều lành mạnh, tốt đẹp, ta
cũng thấy là dù có cố gắng cách mấy, ta không thể lúc nào cũng an vui,
do đó ta lại muốn một cái gì mới hơn, khác hơn. Đức Phật chỉ cho
chúng ta một phương cách khác hẳn. Ngài muốn dạy ta những cách
suy nghĩ mới, chỉ cho ta bước lên một tầng cao hơn, dựa trên thực tế
chứ không phải ở sự mong cầu. Thí dụ như nếu ta đã thử đủ mọi
cách và nhận ra rằng của cải vật chất không làm ta hạnh phúc, chính
kiến thức đó cũng mang đến cho ta đôi chút hạnh phúc rồi. Trong
đoạn kinh nầy, Đức Phật dạy:
-
Người thường suy gẫm trong tâm
Sự sanh
diệt của các uẩn, . . .
-
Uẩn là các thành phần của cái ta. Trước nhất là thân, cái
mà ta tự đồng hóa khi ta nghĩ "Đây là ta". Sau đó là tâm,
cái mà Đức Phật chia làm bốn phần: Trước tiên, thức – mà chúng ta cảm
nhận được qua tiếp xúc với các giác quan của cái nhìn, nghe, ngửi,
nếm, hay xúc; thứ hai là thọ, hoặc vui hoặc buồn, phát sinh dựa vào sự
xúc chạm của các giác quan, kể cả các tình cảm; thứ ba, tưởng theo sau
các cảm giác; thứ tư, hành là phản ứng đối với tưởng -cũng được gọi là
tâm hành.
-
Chúng ta có thể phân tích tâm sâu hơn, để bao gồm, thí dụ, ý chí như
là một trong những thành phần của tâm. Tuy nhiên, chúng ta
thường chỉ chú tâm vào bốn phần nầy: thức, thọ, tưởng và hành.
-
Chúng ta cần chú ý đến năm uẩn, ít nhất là đến sự phân chia của tâm và
thân, bốn phần kia là những phương tiện qua đó chúng ta có thể giải
đáp câu hỏi tâm thực sự là gì. Ta có thể kiểm nghiệm việc này
ngay tức khắc: giờ phút này những cái bạn đang cảm nhận được gồm có
thấy, xúc chạm và nghe. Bạn có thể không nếm hay ngửi cái gì
ngay lúc nầy, nhưng ba trong năm giác quan của bạn đang có sự tiếp xúc
với thế giới bên ngoài và qua đó chúng để lại một cảm thọ mà ta sẽ
không nhận biết được nếu ta không thực tập chánh niệm. Cái cảm
giác ban sơ rất vi tế, nên thay vào đó chúng ta thường vướng vào các
phản ứng, mạnh mẽ hơn nhiều. Giữa hai cảm nhận này (thọ và
hành) là tưởng, và điều này thì cũng tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Mặc
dầu hai người có thể cùng nhìn một vật, mỗi người có thể cảm nhận khác
nhau và phản ứng tùy theo đó; khi một người nhìn cái gì đó thấy đẹp,
người khác có thể cảm thấy dửng dưng hoặc cho là nó xấu xí là đằng
khác. Đây là lý do tại sao ít khi chúng ta để ý đến cảm giác
hoặc nhận thức của mình. Khi nghe ai nói điều gì, ta có thể tự
nhủ ‘thật vô lý,’ hoặc ‘thật là hay,’ hoặc ‘tôi không cần biết,’
hay ‘tôi đã biết rồi.’ Ta quá bận rộn với những phản ứng của
mình nên khó mà thấy được giữa sự xúc chạm và phản ứng còn có những
cảm giác và nhận thức. Do đó, trước hết ta phải kiểm nghiệm thật
kỹ các cảm quan của mình cũng như những phản ứng phát sinh từ đó.
Ta có thể dễ dàng nhận ra các phản ứng nầy và quá trình nhận thức đó
sẽ giúp ta làm quen với sự có mặt của các uẩn.
-
Thông thường thì chúng ta hành động theo các phản ứng của mình và tìm
cách hoàn thiện chúng bằng cách chuyển hóa các cảm quan của mình.
Ta tìm cách nghe, nếm, ngửi, hoặc xúc chạm thứ gì khác hơn những cái
thường làm, nhưng ta luôn bị các thói quen đã huân tập đưa vào đường
cũ. Thật ra ta phải thấy ngay rằng đây là một phương cách
không hiệu quả và chẳng lâu bền. Thế nhưng ta vẫn tiếp tục tìm
đủ mọi cơ hội để thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm những thứ mới lạ
khác. Tuy nhiên, ta có thể đi theo một con đường mới. Trên
con đường nầy, thay vì đồng hóa với các phản ứng của bản thân thì ta
có thể quán sát chúng.
-
Điều này nói thì dễ nhưng khó làm. Và chắc chắn là cần có sự
thực tập vì chúng ta thường theo cách suy nghĩ cho các phản ứng là ta
và xem đó là đúng. Vì xét cho cùng, đó là các phản ứng của ta.
Nếu ta xem các tư tưởng của mình, ngay cả những tư tưởng tiêu cực là
chính xác, chỉ vì chúng là của mình, thì lẽ tự nhiên ta sẽ tiếp tục
chờ đợi hạnh phúc đến từ thế giới bên ngoài. Và vì thế, ta tránh
né những gì có thể đem lại cho ta những phản ứng khó chịu, rồi tiếp
tục đi tìm những gì mà ta cho rằng sẽ đem lại cho mình lạc thú.
Lẽ đương nhiên là, dù có cố gắng đến đâu, ta cũng không thể có được
một cuộc đời chỉ toàn là lạc thọ, nhưng vì quá mải mê theo đuổi con
đường nầy mà ta chẳng nhận ra được là ta cũng có thể tìm được hạnh
phúc bằng một con đường hoàn toàn khác. Dù không kiếm tìm chúng
ta cũng có lúc có lạc thọ. Một trong những lợi lạc của kiếp sống
con người là sẽ không thiếu những cơ hội để ta được hưởng những hạnh
phúc đó. Hầu hết chúng ta đều có đồ ăn và thức uống thích hợp,
hưởng thời tiết tốt, được xem hoa nở và có người để trò chuyện.
Những điều này tự chúng không có gì là xấu, song nếu ta bám theo các
cảm thọ nầy và dốc hết sức lực để đuổi theo các lạc thọ, ta sẽ đi từ
thất vọng này đến thất vọng khác. Ta sẽ chẳng bao giờ tìm được
hạnh phúc cho tâm hồn mình bằng con đường đó. Chính vì lẽ này mà
trong đoạn kệ nói trên, Đức Phật dạy chúng ta hãy quán sát sự sinh
diệt của các uẩn, xem chúng đến và đi như thế nào. Điều nầy có
thể được thực hiện một cách đơn giản bằng sự chú ý quan sát bản thân.
Vì quá để ý đến người khác, ta quên mất một điều là trước khi hiểu
được người, ta phải biết rõ chính mình. Cái mà chúng ta nhận ra
được ở người khác chỉ là cái mà chúng ta đã tự khám phá ra ở ngay nơi
mình.
-
Ta có thể quán sát sự sinh diệt của các ý nghĩ, các cảm thọ; chúng đến
và đi như thế nào thật rõ ràng và rành mạch; điều này không có gì khó.
Thế nhưng vì quá đắm chìm trong các cảm thọ của mình, mà ta không nhận
thấy chúng biến đi nhanh thế nào. Một ý nghĩ thường biến mất
ngay khi nó vừa khởi sinh, trừ trường hợp một ý tuởng mới lại phát
sinh dựa vào nó trong một chuỗi tư tưởng – ngay chính như thế ý nghĩ
ban đầu cũng đã biến mất. Hiển nhiên là ta có thể ghi chép lại ý
tưởng nầy ngay khi nó phát khởi, song vì dòng tư tưởng thay đổi không
ngừng nên chưa chắc là nó có ích lợi gì cho ta.
-
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ
đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì
ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật nầy, vì tất cả chúng ta ai
cũng có thể chứng nghiệm được điều đó ngay bản thân. Tính phù du nầy
là một thách đố cho cái nhìn của ta về bản ngã, khiến nó trở nên bớt
cụ thể, nền tảng của nó bớt vững chắc, và như thế là ta phải đối mặt
với một vấn đề trọng đại, đó là việc ta tự xem mình như một thực thể
vững chắc, bất biến trong cái ta gọi là con người với những quan điểm,
ý kiến cá nhân tạo thành một ‘bản ngã’. Cái nhìn của ta về bản
thân, và ngã tưởng bị lung lay khi ta nhận ra rằng các quan điểm, ý
tưởng và cảm nhận của mình, kỳ thật luôn đến và đi trong từng giây
phút.
-
Càng ít chấp ngã thì ta càng dễ có hạnh phúc. Ta không nhất
thiết phải đồng ý ngay với câu nầy, song cũng không có một lý do gì để
phủ nhận nó ngay, bởi ta có thể tự kiểm nghiệm nó. Càng muốn
chứng tỏ cho mọi người biết ta là một ‘ai đó’ với một số quan điểm,
một hệ thống niềm tin riêng của mình và một cương vị đặc biệt thì ta
lại càng phải bám chặt vào những thứ khiến chúng ta trở thành con
người đó, cố gắng biến tất cả trở thành vững bền. Tuy nhiên, vì
mọi sự luôn luôn sinh diệt đổi thay, nên chúng ta phải đối mặt với một
nhiệm vụ gần như không thể thực hiện. Đây là lý do tại sao
con người không có hạnh phúc.
-
Tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng khó xử này. Một khi ta
còn cố gắng để khẳng định mình, và bám víu vào người hay vật mà ta gắn
bó, thì ta không thể có tự do và hạnh phúc. Bởi lẽ đó - cho dù
ta đang bận rộn hoặc hoàn toàn rảnh rỗi - ta luôn cảm thấy bức xúc,
cái mà ngày nay chúng ta gọi là căng thẳng thần kinh (stress).
Kỳ thực thì nỗi bức xúc mà ta tự tạo cho mình, lúc nào cũng đã có mặt,
vì nó hỗ trợ cho cái cảm nhận về ngã, và nhu cầu muốn tự khẳng định là
lý do khiến nó phát sinh trước hết. Ta muốn tự nhủ rằng ta là
những con người có thực thể và bền vững với những cá tính riêng biệt,
nên ta thường nói những câu như "Xin lỗi tôi đến trễ, nhưng tính tôi
quen vậy rồi" hoặc "Những phim buồn làm tôi phải khóc – tôi là vậy
đó".
-
Những câu nói như vậy không có nghĩa gì cả vì không có một vật thể hay
cá tính nào mà không thể thay đổi được. Từng ý nghĩ, từng cảm
giác đến rồi đi. Ta chỉ cần nghĩ lại xem các ý nghĩ hay cảm giác
mình đã có trong ngày hôm nay có còn ở với ta hay không. Khi
nhìn lại, ta thấy là những ý nghĩ ta vừa có cách đây vài phút đã biến
mất hẳn rồi. Thật ra không có gì - kể cả cuộc đời ta- mà ta có
thể cầm chắc trong tay. Mặc dù ta già đi trong từng phút giây,
nhưng vẫn có nhiều người không thể chấp nhận được điều nầy. Tệ
hơn nữa, họ còn không biết là họ không thể chấp nhận được sự thực đó.
Ta giữ mãi những ký ức về chính mình đến nỗi ta không thể để ý thấy là
mình đang già đi, và tất cả những ký ức ta có về mình tạo thành một
cái ta ảo tưởng. Bằng cách này chúng ta đã tạo dựng cho mình một ý
niệm càng vững chắc hơn về bản ngã.
-
Những bằng chứng phủ nhận cách suy nghĩ của ta về thực tại cuộc sống
có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi. Giả thử như trời đang mưa: mỗi
giọt nước rơi xuống và thấm vào lòng đất rồi biến mất hẳn. Ta
cũng thế. Ta cũng như những giọt mưa, nhưng ta muốn quên đi định
luật về sinh và diệt nầy.
-
Ta không bắt buộc phải tin những điều Đức Phật thuyết, song ít nhất ta
cũng không quay lưng với Ngài và đồng ý kiểm nghiệm sự thật của định
luật này. Luôn ghi nhớ đến nó trong tâm để có thể thấu triệt nó và đạt
được an lạc, hạnh phúc là một nỗ lực lớn. Chúng ta có thể đạt
được niềm an lạc trong thiền định, nhưng cái hạnh phúc nội tại mà mỗi
chúng ta luôn cố gắng kiếm tìm phải đến từ trí tuệ. Trí tuệ có
thể phát khởi qua cuộc sống thiền và tỉnh thức, nhưng ngay cả thiền
định cũng vô thường: ngay khi ta vừa rời khỏi chiếu thiền thì
trạng thái thiền định dễ chịu cũng đã biến mất.
-
Trước khi giác ngộ, Đức Phật đã là một thiền giả tinh tấn. Ngài
rất tinh thông tám tầng thiền định và qua đó chứng nghiệm được cảm
giác khinh an, hạnh phúc, thanh tịnh vô biên. Tuy nhiên, sau khi
đạt được những cảm giác an lạc đó Ngài lại cảm thấy bất như ý vì muốn
giữ lại những lạc thọ đó. Vì thế, Ngài muốn giữ vững tâm trí của mình
như thế nào để cho hoàn cảnh bên ngoài không thể quấy nhiễu mình nữa.
Nói tóm lại, con đường tâm linh phải là con đường làm phát triển hạnh
phúc nội tâm của ta cho đến khi nó trở thành hoàn toàn độc lập và
không còn bị chi phối bởi những hoàn cảnh bên ngoài.
-
Con đường còn dài trước mắt. Tuy nhiên cuộc hành trình dài nhất
cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Còn nhiều bước chân phải
đi, nhưng tiên quyết là bước đầu tiên, mà ở đây là tâm thực tập quán
tưởng về vô thường. Ta không chỉ quan tâm về tính vô thường của
những của cải vật chất. (Ở những xã hội dư thừa, ít ai bận tâm
đến điều này; khi vật dụng bị hư gãy, họ mua ngay cái khác).
Chúng ta cũng phải quán về sự vô thường của bản thân. Ta có thể
thực tập điều nầy bằng cách quán về các uẩn -sắc, thọ, tưởng, hành,
thức- và nhận diện sự sinh diệt của chúng. Ta phải nhận rõ sự lệ
thuộc của mình vào các cảm nhận bên ngoài - như nếu nghe thấy điều gì
trái tai có thể làm ta bực dọc cả ngày, hoặc nếu không được như ý thì
ta sẽ cảm thấy thất vọng, bực tức. Chẳng có ai lại không
muốn tránh các cảm giác khó chịu ấy, song nếu chỉ nghe những điều ta
muốn nghe, thấy những gì ta muốn thấy, được những gì ta muốn được, thì
mới có hạnh phúc thì thật là kỳ quặc, một việc làm hoàn toàn vô vọng.
Phương cách hợp lý duy nhất để nhận diện và đối phó với vấn đề nầy là
quán tưởng về sự vô thường của vạn vật.
-
Tất cả chúng ta đều có thể nhớ về thời thơ ấu của mình cùng với một số
sự kiện trong giai đoạn đó. Dường như nó chỉ mới đây. Thế
nhưng đã bao nhiêu nước chảy qua cầu. Và vì sao bây giờ ta phản
ứng thật khác với hồi ấy? Ta muốn nghĩ rằng mình vẫn như xưa,
nhưng không có gì trong ta còn nguyên vẹn. Tất cả các ý nghĩ,
các cảm giác của ta đều đã thay đổi về bản chất, cùng với những thay
đổi rõ ràng về diện mạo. Cho dù một số dấu vết của thời xa xưa
vẫn còn trong ta, nhưng những gì tạo ra ta của thời đó đã hoàn toàn
khác xa với cái tạo ra ta của ngày hôm nay.
-
Sự chuyển hóa này thực sự xảy ra từ ngày này qua ngày khác - nói chính
xác hơn thì nó xảy ra trong từng giây phút. Ta không thể bám víu
vào bất cứ cảm nhận nào của ta, và nếu ta cố gắng giữ lại một người
hay sự việc nào đó chắc chắn ta sẽ bị thất vọng bởi đây là một việc
không thể nào làm được. Sự thật đơn giản và chắc chắn là ta
không thể níu giữ được đời mình, cũng như ý nghĩ và cảm nhận của mình;
các xúc chạm giác quan của ta cũng thay đổi từng giây phút một.
Ta có thể thành công đôi chút trong việc giữ lại bản thảo của ý nghĩ
hay cảm nhận của mình qua sách vở hay băng ghi âm - song đó không phải
là những ý nghĩ ban đầu của ta. Bạn có thể quán sát đời mình
ngay bây giờ và thấy nó đang trôi qua như thế nào. Nếu biết cách
nhìn, bạn sẽ dễ dàng làm được việc nầy. Khi quán sát đời mình
trải ra trước mắt, bạn sẽ thấy nó không ngừng thay đổi.
-
Bản chất con người không thích nhìn thấy sự thay đổi và hoại diệt này,
vì thế ta tạo ra thói quen: ta chủ tâm làm cùng một việc vào những giờ
nhất định trong ngày. Càng có nhiều thói quen, chúng ta càng ảo tưởng
về một sự cố định, một cái gì bền chắc, và kèm theo đó là sự đảm bảo
an toàn trong việc thường xuyên lập lại chúng. Tuy nhiên, đây là một
ước đoán hết sức bấp bênh, vì thói quen chỉ là thói quen, không thể
nào thay thế cho một ‘cái tôi’ bền chắc độc lập. Ta tìm kiếm không
ngừng các cảm giác vững chắc để phù hợp với cái khung mà chúng ta đã
dựng lên qua các thói quen của mình. Tuy nhiên, bất cứ thứ gì mà
chúng ta tìm được trong cái khung hạn hẹp đó, cũng không thể giúp ta
tìm được thứ hạnh phúc mà ta hằng mong mỏi, là hạnh phúc nội tại không
phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.
-
Các yếu tố bên ngoài thường không ở trong tầm kiểm soát của ta.
Thường thì chúng thình lình ập đến trước khi ta có thể trở tay.
Tuy nhiên, chúng ta không thích chấp nhận sự thật đắng cay nầy.
Chúng ta muốn làm chủ cuộc đời mình, cũng như hưởng một hạnh phúc nội
tâm, độc lập với các hoàn cảnh bên ngoài, nhưng điều này thật vô vọng.
Ta ở trong cùng một hoàn cảnh như anh chàng "Hans in Luck" trong câu
chuyện cổ tích cùng tên của anh em nhà Grimm. Anh chàng này, sau
nhiều năm phục vụ đắc lực được chủ thưởng cho một thỏi vàng và trên
đường về thăm mẹ, anh ghé vào một nơi để đổi vàng lấy những thứ thực
dụng hơn, rồi về đến nhà mang theo trong túi một thỏi khác: một hòn đá
vô giá trị. Sau cùng, anh liệng hòn đá ấy đi và cảm thấy như
thoát một gánh nặng lớn. Đó cũng là những điều xảy ra cho
chúng ta trên cuộc hành trình tâm linh. Trong khi đi tìm kiếm
một thứ không có trên đời nầy, giải pháp duy nhất là phải vứt bỏ đi
những thứ ta vẫn luôn mang theo bên mình. Hòn đá mà chúng ta
hằng mang, gánh nặng trên vai bấy lâu nay là ngã chấp, sự đồng hóa của
ta với những gì mà ta coi là bền vững, bất biến, là cái mà ta gọi là
‘ngã’ hay ‘cái tôi’, đã hiển nhiên là sự ăn sâu, bám rễ của hành động
và tư tưởng của ta vào một cái gì bền vững, mạch lạc. Nhưng các
thành quả của ta sẽ kéo dài được bao lâu? Chúng chỉ hiện hữu
trong quá khứ xa vời. Bây giờ ta chỉ sống với kết quả của các
hành động ấy. Mọi việc chỉ đến rồi đi - không có gì trong sự hiện hữu
của ta là lâu bền.
-
Thế giới, và ngay cả vũ trụ nầy, cũng chẳng bao giờ làm thỏa mãn được
ước vọng sâu xa nhất của ta. Sự thỏa mãn không bao giờ đến từ
bất cứ thứ gì ở bên ngoài –nó từ nội tâm ta. Đây là sự khác biệt
chính yếu giữa đời sống tâm linh và cuộc sống đời thường: sự tự tại ở
ngay trong ta. Khi ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên
ngoài để quay về nhìn sâu trong thiền định, ta sẽ khám phá ra là mình
vốn sẵn có tất cả những điều kiện hạnh phúc mà xưa nay mình bôn ba
kiếm tìm. Ta chỉ cần học cách chú tâm - một điều không khó như
ta tưởng - và ta có đủ phương tiện để liên hệ với đời sống nội tâm bất
cứ lúc nào. Vấn đề chỉ là ngồi xuống và thực tập hằng ngày.
Giống như mỗi ngày ta nuôi dưỡng thân thế nào, thì ta cũng cần chăm
sóc cho sức khỏe tinh thần của ta thế ấy. Không ai thắc mắc vì
sao ta cần nuôi thân, tuy thế ta phải nhấn mạnh là mình cũng cần nuôi
dưỡng tâm y hệt như thế. Khi ngồi thiền, tâm ngưng chú ý đến
những gì xảy ra chung quanh. Nhờ đó, nó trở nên lắng đọng, kết
quả là, các khía cạnh của những kinh nghiệm đã có sẵn trong ta ở một
trạng thái thô sơ nay có cơ hội hiển bày. Thoạt tiên, ta có thể
thấy thoải mái, yếu tố báo hiệu tầng thiền đầu tiên. Cảm giác dễ
chịu nầy ai cũng có thể đạt được, song nó thường bị tư tưởng của ta
che khuất, vì vậy ta cần phải ngưng dòng tư tưởng bằng cách tập trung
tâm trí trong thiền quán. Nếu tiếp tục hành thiền như thế, sẽ có
lúc ta nhận ra là tâm có thể ngừng suy nghĩ lăng xăng.
-
Khi ta đã có thể bước vào đời sống tâm linh bằng cách nầy, khi đã
chứng nghiệm được tầng thiền thứ nhất, ta biết chắc chắn là thế giới
nội tâm không thể nào thấy được ở ngoài ta mà chỉ có thể thấy qua
thiền tập. Ta thấy rõ là có một con đường có thể đưa ta đến điều
mà xưa nay ta vẫn đi tìm, điều mà thế giới bên ngoài không thể cho ta.
Từ nay hạnh phúc của ta sẽ tùy thuộc vào các phản ứng của ta đối với
mọi việc, bởi chúng luôn đến và đi, nhưng nằm ngay trong cái đến và đi
ấy.
-
Nói một cách tổng quát, con người chúng ta luôn chìm đắm trong các
phản ứng của mình đối với sự việc, và ta đôn đáo tìm khắp nơi cho một
hoàn cảnh lý tưởng trong đó các phản ứng nầy sẽ được hoàn hảo theo ý
mình. Song một khi đã kinh nghiệm được sự an lạc trong thiền, ta
sẽ không mải mê tìm lạc thú cuộc đời nữa bởi ta biết -không mảy may
nghi ngờ gì nữa - là chỉ cần hướng về nội tâm là ta sẽ tìm được những
thứ mà ta vẫn thường tưởng chỉ có ở bên ngoài. Lúc đó ta sẽ sẵn
sàng chú tâm hơn đến sự sinh diệt của các sự kiện, thay vì chỉ chú tâm
đến các phản ứng của ta về chúng.
-
Khi bắt đầu thực tập, ta thường đánh mất chánh niệm về vô thường; mọi
thứ khác dường như quan trọng hơn nhiều và sự vật không thay đổi gì
nhiều. Phải cần nhiều cố gắng mới có thể hiểu đúng tính vô
thường của vạn vật. Tâm cần được khuyến khích để chấp nhận
nguyên lý nầy không chỉ về mặt tri thức -trên phương diện nầy chắc ta
đủ sức hiểu rõ nó - mà còn về mặt tình cảm. Lúc ấy đột nhiên ta
thấy mình nhìn sự vật như sự vật đang biến mất dần.
-
Khi ta thực sự cảm thấy là mọi vật luôn không ngừng thay đổi, ta sẽ
không còn chống lại sự thật đó nữa. Khi thấy được mọi vật như
chúng là, tức là vạn vật luôn thay đổi, ta không còn mơ ước chúng có
thể khác bản chất của chúng. Ta cũng sẽ mất cái cảm giác bực tức
khi gặp phải những điều bất như ý hay không muốn trải qua, và cảm giác
hối hận hay luyến ái đối với những gì ta muốn kinh qua. Lúc đó,
khi những xung đột nội tâm dừng lại, ta sẽ ngưng không đi tìm hạnh
phúc ở bên ngoài, và nhận thức rõ ràng là ta đã là chủ của kho báu mà
ta kiếm tìm.
-
Có rất nhiều những câu chuyện cổ tích từ nhiều truyền thống văn hóa
khác nhau về một người đi tìm vàng, đôn đáo khắp nơi để tìm đúng chỗ
đào vàng. Sau cùng người ấy được một nhà hiền triết dạy rằng
-thể theo cổ tích Do Thái – ‘Con hãy về nhà, kho tàng ở ngay dưới bàn
trong bếp nhà con.’ Người ấy về nhà và sửa soạn đào dưới bàn ăn
trong bếp song chợt hiểu ra rằng: ‘Báu vật ấy ở ngay trong tâm ta, có
đâu ở dưới cái bàn nầy! Ta chỉ cần ngồi ung dung để chân dưới
bàn là kiếm được nó ngay’. Ta ruổi rong tìm kiếm khắp nơi, có
ngờ đâu bảo vật ở ngay nơi mình.
-
Tất nhiên đây là điều mà mỗi chúng ta sẽ phải tự tìm ra cho mình.
Chỉ muốn khám phá ra những kho tàng tâm linh thôi không đủ; ta phải
thực sự bắt tay vào việc. Nếu ta vẫn sống theo các thói quen cũ
và không cố gắng gì để thay đổi, ta vẫn tùy thuộc vào con người cũ của
mình, vẫn đồng hóa với những phản ứng nhất thời của mình đối với sự
việc.
-
Một điều mà Đức Phật đã dạy là nếu chúng ta có thể đạt được sự nhận
thức rõ ràng, sâu sắc về sự đến và đi của năm uẩn, thì chúng ta có thể
tự quan sát bản thân cũng như thế - như một chuỗi nhân và quả liên
tục. Khi đã hiểu mình như những hiện tượng nhân quả, cái ngã sẽ chấm
dứt, vì chúng ta là nhân mà cũng là quả và cả hai đều có gốc rễ trong
sự chấp ngã không dừng dứt của ta.
-
Nếu, trong lúc thiền tọa, ta cảm nhận rõ ràng được sự đến và đi của
các uẩn qua từng giây phút, không dừng dứt, ngay lúc đó, trở lại quán
tưởng về vô thường, ta sẽ vào được cõi vô diệt. Đây là lời hứa
của Đức Phật.
-
Câu cuối cùng của đoạn kinh nói: ‘Người mà biết gọi đó là cõi vô
diệt’. Thay vì cụm từ ‘người mà biết’ ta có thể nói ‘người trí tuệ’.
Xét cho cùng, chỉ biết thôi chưa đủ, ta phải đưa cái biết đó vào thực
hành. Hiểu biết về một điều gì đó và có thể thực hành nó là hai
điều hoàn toàn khác nhau. Nói là mọi vật đều vô thường thì chẳng
có gì là mới mẻ cả -biết vô thường không thành vấn đề đối với chúng
ta. Nhưng để là đòi hỏi trí tuệ hiện hữu -phải thực sự là cái ta biết.
Đây là điểm khác biệt chính yếu giữa nhà học giả và hành giả.
Nhà học giả biết tất cả mọi thứ về vô thường, song chỉ có hành giả là
kẻ sẽ có ngày đạt được nó. ‘Người mà biết’ do đó là người trí tuệ và
điều mà người trí tuệ biết là ‘cõi vô diệt’, một từ đồng nghĩa với
niết bàn.
-
Niết bàn là một ý niệm khó hiểu và khó thể được diễn tả chính xác.
Thí dụ ta có thể cho nó là sự thể hiện của thượng đế ở trong ta -không
phải là một thượng đế dưới hình dạng nào, nhưng là một nền tảng căn
bản cho tất cả những gì đang hiện hữu. Điều đó, ta có thể gọi, là niết
bàn. Điều đáng tiếc là ý nghĩa của từ ‘thượng đế’ quá phức tạp
nên mỗi người sẽ nghĩ về một thứ khác nhau khi nói đến từ này -do đó
nó không còn ý nghĩa gì mấy. Cũng thế, có rất nhiều sự ngộ nhận
về từ ‘niết bàn’.
-
T ốt nhất là ta nên tránh tạo
những khái niệm liên hệ với từ ‘niết bàn.’ Tuy nhiên, tôi muốn
đưa ra vài khái niệm về ý nghĩa của nó để người đọc có thể hiểu cụm từ
‘cõi vô diệt’ (deathless realm) muốn diễn tả gì. ‘Vô diệt’ có nghĩa là
không có gì tịch diệt -nhưng trước khi có vô diệt thì phải có vô sinh.
Căn bản rốt ráo của mọi hiện hữu không có sinh cũng không có diệt.
-
Để chứng ngộ được sự thật nầy, ta phải tiếp cận nó một cách hết sức từ
tốn. Nó không liên hệ gì đến niềm tin vào một thực tại bên
ngoài, những nghi thức bên ngoài, hay những ảnh hưởng bên ngoài nào
đối với ta. Nếu ta tương đối may mắn sống ở một nơi thoải mái,
có đủ ăn, đủ mặc,có nơi tránh gió mưa bão táp, có thuốc men khi ốm
đau, ta đã có đủ mọi thứ ta cần từ thế giới bên ngoài. Tất cả
chúng ta đều có thể chứng ngộ sự thật tối thượng vì nó ở ngay trong
ta. Từ trong tiềm thức, ta biết rằng đây chính là điều mà ta
hằng tìm kiếm, nhưng người ta chẳng bao giờ bàn về điều nầy và cũng
không muốn tự thú nhận điều đó. Sự thật này không nhất thiết
phải có một cái tên, dù đó là ‘niết bàn’, ‘cõi vô diệt’ hay là ‘thượng
đế’. Có một thực tại ở đó ta có thể tìm được sự nghỉ ngơi, an
tịnh, nhưng ta chỉ có thể tìm được nó trong nội tâm ta. Tiếng
nói của nội tâm cũng cho ta lời khuyên. Vậy mà ta mãi kiếm tìm ở
những chỗ đâu đâu.
-
Trạng thái nghỉ ngơi này là gì? Có phải là khi ta về hưu? Hầu
hết những người về hưu không nghỉ ngơi mà trái lại còn bận rộn hơn bao
giờ hết, nếu không họ sẽ thấy buồn chán. Nghỉ ngơi của đời
thường chỉ có nghĩa là thay đổi công việc làm chúng ta bận rộn.
Tìm được sự nghỉ ngơi nghĩa là tìm được bản chất của ta, căn bản của
hiện hữu, và chứng ngộ nó. Căn bản nầy có mặt ở trong mỗi chúng
ta. Nó đem ta vào đời, giữ ta sinh tồn và đem ta về cõi chết.
Chứng ngộ nó có nghĩa là buông xả hết tất cả những bám víu, mong cầu
được hiện hữu, hay được là ‘một ai đó’. Do đó, chỉ khi nào chúng
ta thôi không bám víu, khát khao hiện hữu và khẳng định bản ngã, thì
ta mới thực sự tìm được sự nghỉ ngơi. Ở đây không nói là ta phải
khinh rẻ hoặc ruồng bỏ bản thân -vì điều này cũng tệ chẳng khác sự
luyến ái cái ngã. Mà đúng ra là, qua thiền định ta sẽ dần nhận
ra sự hình thành của bản ngã như thế nào bên trong ta.
-
Ngay khi chúng ta có thể ngưng các vọng niệm, ta sẽ có cơ hội để cảm
nghiệm một tầng thức mới của cuộc sống nội tại -có nghĩa là cuộc sống
nội tại mà chúng ta đang theo đuổi là một chứng nghiệm sống chứ không
phải là một quá trình tư duy. Việc ngưng các vọng niệm là bước
đầu tiên, chỉ cho ta nơi đâu để tìm ra được sự thật sâu xa hơn.
Đồng thời ta cũng có thể chuẩn bị cho sự chứng nghiệm đó bằng cách
hướng dẫn tư tưởng của ta đến sự thật là tất cả những gì đang xảy ra
cho ta và quanh ta đều vô thường. Bằng cách kiên trì tự nhủ mình
như vậy, dần dà ta có thể cảm nghiệm được sự đến và đi của mọi việc.
-
Để nhớ những gì ta biết thì cũng đơn giản thôi. Nhưng làm chủ được nó
có nghĩa là ta phải kinh qua những gì ta biết, thì không đơn giản như
thế -dù là trên đời luôn có một số người có khả năng siêu việt này.
Ta không cần phải chuyên tâm vào một niềm tin, một tôn giáo, triết lý
hay tâm lý nào, ta chỉ cần để ý chính mình thôi. Có gì đơn giản
hơn thế phải không? Tưởng là như vậy song thực ra đây lại là một
điều rất khó làm. Còn gì thú vị hơn là tự quan sát mình phải
không? Nhưng phần đông đều thích dòm ngó người khác. Nếu
ta xem những gì ta quán sát được như đang xem một cuốn phim thì việc
quan sát chính mình chắc chắn là một cuốn phim đáng xem hơn là lấy máy
ảnh ghi lại những sự kiện bên ngoài một cách không ý thức.
-
Như vậy ta đã có lới hứa khả của Đức Phật là ta sẽ đạt được hạnh phúc
nội tâm, bất kể hoàn cảnh bên ngoài. Ta cũng có những quy luật
riêng cho con đường ta phải theo để tự chứng nghiệm được hạnh phúc đó.
Sự lợi ích và quan trọng vô cùng của giáo lý của Đức Phật không chỉ
nằm trong những lời hứa, mà còn ở chỗ nó chỉ cho ta cách chứng nghiệm
sự thật và những gì ta có thể chờ đợi trên con đường tu tập.
--o0o--
|