TỦ SÁCH PHẬT HỌC
- HÃY ĐẾN ĐỂ
THẤY
Phật Giáo, Con
Đường Đưa Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Ni Sư Ayya Khema
Việt Dịch: Chơn Minh Nguyễn Văn Phú,
- Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường &
Diệu Liên Lý Thu Linh
- Come And See For Yourself The
Buddhist Path To Happiness 2006
Nguyên tác Đức ngữ
‘Komm Und Sieh Selbst’ @ Jhana Verlag 1998
Bản Anh ngữ ‘Come And See For Yourself’ @ Windhorse Publications 2002
ISBN 1 899579 45
Việt dịch từ Anh
ngữ và ấn tống với sự đồng ý của Buddha Haus e..V./Jhana Verlag,
Germany
- CHƯƠNG MƯỜI HAI
Trí
Tuệ Bát Nhã
-
-
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi vào trí tuệ cùng
tột sâu thẳm, soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt khỏi mọi khổ ách.
-
Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
-
Này Xá-lợi tử, tướng không của các pháp không sinh không diệt, không
sạch không nhơ, không thêm không bớt. Cho nên trong tánh không, không
có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
không có sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến
không có ý thức giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho
đến không có già chết cũng không có già chết hết; không khổ, tập,
diệt, đạo, không trí cũng không đắc, vì không sở đắc.
-
Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại; vì không ngăn
ngại, nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết- bàn.
-
Chư Phật ba đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
-
Thế nên biết trí tuệ cùng tột là thần chú lớn, là thần chú sáng
lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng, dứt
trừ hết thảy khổ ách, chân thật không hư, cho nên nói câu thần chú trí
tuệ cùng tột; liền nói thần chú rằng:
-
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
-
(Phật Ở Trong Lòng, H.T. Thích
Thiện Siêu NXB Tôn Giáo 2003, trang 392)
-
Kinh Hrdaya Prajnaparamita là một bản kinh nổi tiếng, đặc biệt được
tôn trọng trong truyền thống thiền Phật giáo ở Triều Tiên và Nhật Bản,
và đã có mặt khoảng hơn 1000 năm. Tựa bản kinh trong tiếng
Sanskrit: Hrdaya có nghĩa là trái tim, prajna là trí tuệ,
paramita giới hạnh và sutra là bản kinh (hadaya, panna, parami và
sutta là những từ tương đương trong tiếng Pali, nhưng ở đây chúng ta
sẽ dùng từ Sanskrit vì chúng ta bàn về một bản văn tiếng Sanskrit).
Bản kinh này có thể dịch sát nghĩa là ‘Bài thuyết pháp về giá trị của
trí tuệ.’ Tuy nhiên, nó thường được dịch là ‘Tâm Trí tuệ bát
nhã’ hay đơn giản là ‘Kinh Trái Tim’.
-
Kinh do một vị đại sư thiền soạn thảo (10). Kinh giải thích vắn
tắt về những yếu tố cuối cùng trong chuỗi duyên sanh siêu việt, bắt
đầu với sự giải thoát khỏi những tình cảm tiêu cực và tiến dần đến
hoàn toàn giải thoát. Dầu kinh chỉ có thể được hiểu từ cái nhìn
của sự thật tuyệt đối, mà tâm phàm phu không thể nào liên tưởng đến,
nó vẫn là một bài kinh nổi tiếng và thường được trích dẫn. Kinh
được bắt đầu như sau:
-
Bồ Tát Quán Tự Tại khi đi sâu vào trí tuệ cùng tột.
-
Avalokitesvara xuất phát từ hình ảnh các vị thần thánh ở Ấn Độ khoảng
cùng thời với lúc giáo lý của Đức Phật được truyền bá khắp lục địa
này. Ngài thường được mô tả với nhiều tay, biểu tượng của lòng
hoan hỷ vô thượng, khả năng hành thiện và che chở bảo vệ bao chúng
sanh, Ngài do đó đại diện cho lòng bi mẫn dưới hình tướng người nam.
Quan Âm (Kwan Yin) là hình tướng người nữ của cùng một biểu tượng
trong truyền thống Trung Hoa.
-
Bồ Tát (bodhisattva) là người toàn tâm toàn trí tìm kiếm giác ngộ.
Đức Phật do đó là một Bồ Tát trước khi chứng đắc thành Phật.
Bodhi có nghĩa ‘giác ngộ’ và sattva là ‘người’, vì thế từ này có
nghĩa là ‘người giác ngộ’, nhưng nó cũng có thể được dùng để ám chỉ
‘người đang đi tìm giác ngộ và nguyện làm tất cả để đạt được mục đích
đó.’
-
(10)
Ở đây có lẽ Ni Sư Ayya Khema muốn nói đến Luận sư Long Thọ, là người
có công hệ thống hóa các tư tưởng được nêu lên trong Bát Nhã Ba La Mật
Đa Tâm Kinh.
-
Khi đi sâu vào trí tuệ cùng tột, ngài nhận thấy rằng tất cả mọi thứ
trên thế giới đều là không.
-
Ở đây chúng ta có Bồ Tát Avalokitesvara chìm sâu trong quán tưởng và
nhận ra rằng tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm trên thế gian, hoặc
về thân, về thọ, tưởng, hành, hay thức, trong thực tế tất cả chỉ là
không. Năm phân loại được nhắc đến ở đây là năm uẩn (skandhas),
thường được dịch như là ‘những thành tố của sự hiện hữu’ hay ‘tổng
hợp’, và chúng phân biệt các kinh nghiệm của ta bao gồm những gì.
Trong phần diễn tả chuỗi liên hoàn của duyên sanh thế tục có hình ảnh
một con quỷ, thân che phủ da cọp, tay cầm một bánh xe tượng trưng cho
vòng tròn này, và đầu đội một vòng nguyệt quế với năm sọ người, tượng
trưng cho năm uẩn (skandhas).
-
Trên tất cả, năm thành tố này mà từ đó con người được tạo thành –thân,
thọ, tưởng, hành và thức- là không, là trống rỗng. Nhưng chúng
trống rỗng về cái gì? Chúng trống rỗng hình tướng. Đó là,
chúng rỗng vắng về tất cả những gì có thể mang đến cho chúng một ý
nghĩa nào. Ở đây chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi cố gắng
hiểu được khái niệm này. Thật vậy, có thể có một sự hiểu lầm khá
tai hại. Sự rỗng vắng không có nghĩa là tất cả đều không có mặt
trong thế giới này –không thể nghi ngờ gì về sự có mặt của một thế
giới đầy biến động. Nhưng tất cả mọi thứ trong đó, bản chất của
chúng là vô thường. Không có bất cứ thứ gì có thể được coi là
ngoại lệ đối với định luật này, mà nó cũng có thể được diễn tả như là
một quy tắc chủ đạo rằng không có gì tự hiện hữu. Vì thế các
pháp đối với chúng ta là bền vững, trong thực tế chỉ là bề ngoài, vì
chúng luôn thay đổi không ngừng. Không có gì ở trong chúng mà có
thể sở hữu hay lưu giữ được. Trong ý nghĩ đó thì chúng là rỗng
vắng.
-
Và tất cả mọi khổ ách được Ngài xóa bỏ bằng cách nói,
-
‘Này Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc.’
-
Xóa bỏ mọi khổ ách có nghĩa là chấm dứt mọi đau khổ (dukkha). Xá
Lợi Phất là cánh tay phải của Đức Phật lịch sử và là vị đệ tử đệ nhất
trí tuệ, vì thế những người muốn bày tỏ sự chứng ngộ của mình thường
tìm gặp Đức Phật hay Xá Lợi Phất. Và đây chính là những gì mà
Avalokitesvara đang làm. Avalokitesvara chứng ngộ được sự đoạn diệt
hoàn toàn của tất cả những cay đắng, khổ đau ở bên trong, ngài đã tự
chứng được thực tế đó. Ngài nhận thức được rằng thế giới hình
tướng là rỗng không và rỗng không chẳng gì hơn là thế giới hình tướng.
Rỗng không có nghĩa là thiếu vắng hình tướng, rằng không có một bản
thể nhất định nào đối với vật gì; người cũng như thú, cùng tất cả vũ
trụ thiên nhiên, đúng ra là tất cả những đối tượng vật chất, không nắm
giữ điều gì chắc chắn, bền vững bên trong chúng. Sự thật đơn
giản mà ngài đã chứng ngộ được là tánh không có trong tất cả vạn vật.
Tuy nhiên nếu không có kinh nghiệm cá nhân thực sự về những gì mà từ
ngữ đó nói đến thì khó mà hiểu được. Nói một cách khác là tất cả
là không và không là tất cả –nhưng những lời này cũng rất khó
hiểu.
-
Thế giới hình tướng thì trống rỗng –nó không chứa đựng gì cả- và thực
tế này bao trùm vạn vật. Chính là chúng ta đã tạo nên thế giới
nhị nguyên bằng cách phân biệt các sự vật qua cách nói: ‘Đây là người.
Đây là hoa. Đây là thú. Đây là điều tốt, đó là điều xấu.’
Với những sự phân biệt như thế, tâm lăng xăng cũng bắt đầu, và ta luẩn
quẩn trong đó, không thể thoát ra vì luôn phải tìm một cái gì khác nữa
để phán đoán.
-
Dĩ nhiên, trên tất cả là chúng ta tự phán xét mình: ‘Tôi đã làm tốt
việc này’, ‘tôi đã thất bại điều kia,’ ‘tôi muốn làm điều này tốt
hơn,’ ‘tôi đã làm việc đó rồi’,‘tôi rất tốt,’ ‘tôi rất xấu.’
Khuynh hướng phân biệt, phán xét, chọn lựa, khiến cho chúng ta gần như
không thể nhận ra rằng tất cả mọi đối tượng của sự phán xét, đánh giá
của chúng ta không có gì cả, rằng tánh không bao trùm tất cả và rằng
không có sự phân biệt (nhị nguyên) ở trong bất cứ cái gì. Nó chỉ
có vẻ như là mọi thứ đều khác và tách biệt. Thế giới của
chúng ta là một thế giới giả tạm, gọi là maya trong truyền thống Ấn
Độ. Nhưng vì mắt ta thấy hiện tượng, tai nghe tiếng nên ta tin
vào sự giả tạm, coi đó là thật.
-
Sắc tức là không, không tức là sắc.
-
Không gì có bản thể; chỉ có hình tướng bên ngoài. Những gì hiện
ra trước mắt chúng ta như thật, thực sự chỉ giống như bọt nước trên
mặt biển. Các bong bóng nước hoàn toàn quên rằng chúng không thể
tách biệt khỏi đại dương đã tạo ra chúng, để rồi bắt đầu phát khởi đủ
mọi ý nghĩ về bản thân, rồi nói với nhau rằng: ‘Bạn biết không, tôi là
một bong bóng đẹp hơn bạn nhiều,’ hay ‘tôi khá cao còn bạn khá thấp,’
hay ‘tôi thông minh hơn bạn,’ hay ‘hãy nhìn tôi, tôi có thể lộn ngược
hai vòng.’
-
Những ý nghĩ này không thể thay đổi được sự thực là trong thực tế
các bong bóng này chính là nước biển, chúng được hình thành do sự
chuyển động của biển. Những gì mà chúng ta coi như là sắc của
vạn vật cũng là một với không, cũng như bong bóng nước là một với biển
và biển là một với bong bóng nước –tất cả vạn vật đều là một phần của
tổng thể này.
-
Cũng thế đối với thọ, tưởng, hành, thức.
-
Lần nữa, Avalokitesvara nhắc đến năm uẩn (skandhas). Ngài giải
thích với Xá Lợi Phất rằng không có gì trong chúng ta hơn là năm thành
tố này, mà tự chúng cũng là không. Cũng giống như sự ta tự cho
mình là cái gì đó hơn là sự tổng hợp của những thành tố này, là bề
ngoài hơn là sự thực, thì chính chúng (năm uẩn) cũng chỉ là bề ngoài,
không có bản thể nhất định, dầu chúng ta đã coi chúng quan trọng đến
thế nào. Rồi Ngài lập lại:
-
Xá Lợi Phất, tất cả vạn pháp trong thực tế đều là không.
-
Cho đến thời điểm này, chúng ta hình như có được một loại trí tuệ mà
tôi sẽ gọi là ‘giây phút đạt đạo’ -một giây phút không có gì
phát sinh, không có gì đoạn diệt. Trước khi đạt được trí tuệ này
và mô tả nó ở đây, Avalokitesvara đã phải công phu tu tập nó bằng cách
tìm ra một định hướng hoàn toàn mới cho tâm thức. Nhưng giờ
chúng ta được nghe về các quả chứng mà Avalokitesvara đạt được, khi
ngài giải thích về viễn ảnh của một thực tại tuyệt đối phát sinh tiếp
ngay sau khi ngài đạt được trí tuệ.
-
Qua các bài viết của ngài Long Thọ, một trong những vị đại sư
Đại thừa, chúng ta biết rằng không thể hiểu được Pháp trừ khi chúng ta
có thể phân biệt được sự thật tương đối và tuyệt đối. Con đường
mà chúng ta đã chọn trên thế gian này dĩ nhiên là con đường của sự
thật tương đối, ở đó ta nhìn thấy vạn vật bằng con mắt nhị nguyên, và
tất cả các hình tướng đều có ý nghĩa. Nhưng cũng có một con
đường khác mà ta có thể đi, là con đường của sự thật tuyệt đối, nơi
hình tướng không còn là hình tướng, và thực tại thì rỗng không.
Thực tại tuyệt đối này chính là niết bàn (nirvana hay nibbana –Pali).
-
Không sinh, không diệt. Không nhơ, không sạch. Không thêm,
không bớt.
-
Trong thực tại tuyệt đối không có sinh, cũng không có diệt; đó là
không có tử, do đó không có sinh. Tất cả thế giới hình tướng mà
chúng ta coi quá quan trọng đã được trả trở về thực tại mà từ đó chúng
phát sinh. Giống như những bọt bong bóng trên mặt biển của thực
tại tuyệt đối, khi đã nhận thức ra được thực tại tuyệt đối này là
chúng ta tự để mình hòa quyện trở lại với biển. Chúng ta không
còn muốn là những bong bóng nhỏ lăng xăng trồi sụt để khẳng định tánh
bong bóng cá biệt của mình, vì đã nhận thức được rằng một sự tự khẳng
định như thế chỉ mang đến đau khổ. Qua tri kiến này, rồi từ đó
ta hòa nhập trở lại với bản thể ban đầu của chúng sanh, ta nhận thấy
được rằng không có gì phát sinh hay chấm dứt. Ở đó không có gì
sinh ra hay diệt, không có gì tăng hay giảm. Không có cái
hai, không có cái đối nghịch, tách biệt. Đó là một tổng thể,
không có hình tướng của hiện tượng chia rẽ. Thế giới giả tạm
được khôi phục trở lại tính không.
-
Trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
-
Trong tánh không, sự phân loại của năm uẩn không phát sinh; do đó,
cũng không có sự hiện hữu của chúng sanh.
-
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
-
Nếu không có uẩn nào, hoặc là thân hay tâm, thì cũng không có sự xúc
chạm của các căn. Như thế điều này đưa ta đến một hướng ngược
lại với chuỗi duyên sanh thế tục, nơi mà sự phát khởi của tâm thân
được coi như dẫn đến sự xúc chạm giác quan. Ở đây, khi đã nhận
thức được các sự xúc chạm giác quan đã phát khởi từ năm uẩn như thế
nào, ta càng có thể nhận thức sâu hơn rằng trong thực tế các uẩn tự
chúng là giả có, trống rỗng, nên không còn có điều kiện gì để thân và
tâm phải có mặt. Không có các giác quan, thì dĩ nhiên, sẽ không
có các xúc chạm của giác quan, do đó:
-
Không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân hay ý; cũng không có vô minh hay
trí.
-
Vô minh, được coi là động lực chính của chuỗi duyên sanh thế tục, và
do đó của tất cả mọi hiện hữu, cũng không còn ở đó nữa. Không
còn có ai để có thể là vô minh.
-
Dĩ nhiên, điều này không diễn tả được bản chất thực sự của thực tại
tuyệt đối. Bất cứ sự diễn tả nào cũng chỉ có thể là hướng ta đến
một tri kiến như thế. Nó không bao giờ có thể diễn tả được
ý nghĩa thực sự của nó đối với những người chưa từng chứng nghiệm qua.
Điều nó có thể làm là bày tỏ cho ta biết tất cả mọi khổ đau sẽ
được đoạn diệt như thế nào. Không thể tận diệt khổ đau trong thế
giới này, nhưng chắc chắn rằng có thể tận diệt cái ngã và do đó buông
xả được bản chất nhị nguyên. Như thế chúng ta sẽ không còn có
thể coi là thật những sự phân biệt giả tạm cơ bản mà chúng ta đã bày
vẽ ra. Chúng ta nhận ra năm uẩn qua đó sự hiện hữu của ta kết
hợp, tích tụ lại với nhau, cũng là giả có, và không còn coi sự hiện
hữu tương hợp đó là tuyệt đối quan trọng. Ngay giây phút của một
chứng nghiệm như thế, chúng ta hiểu rằng tất cả mọi thứ khác cũng như
thế, và rằng chúng ta chẳng bao giờ cảm thấy cần phải đánh mất sự tiếp
xúc với bản thể nguyên thủy của mình, vì bất cứ khi nào chúng ta làm
thế thì chúng ta sẽ chỉ thấy khổ đau.
-
Không có già chết, cũng không có hết già chết.
-
Già và chết không xảy ra ở đây, vì không có sinh. Trở lại hình
ảnh của đại dương, thì điều này có nghĩa là nếu không có bọt biển trên
mặt biển thì không có sự vỡ tan; nếu một bong bóng biển không được tạo
ra thì nó cũng không phải bị diệt. Thật thế, sự đau khổ của già
và chết chấm dứt khi –và chỉ khi- không còn có khả năng của sinh nữa.
Không có cách gì khác để tránh khỏi sự đau khổ này.
-
Không có khổ đau, cũng không có hết khổ đau, không có hoại diệt, cũng
không có hết hoại diệt.
-
Điều tiên quyết là ta nhận thức được sự khổ đau, một sự nhận thức sâu
sắc, mãnh liệt đến nỗi ta không còn bám víu vào thân và tâm. Sự
buông xả hoàn toàn việc bám víu vào thân -một sự bám víu luôn mang đến
khổ đau, khi nhận thức ra, đã mở ra cánh cửa dẫn đến sự đoạn diệt của
khổ đau. Lúc đó người ta có thể nhận ra bản ngã của mình chỉ có
vẻ như là một cá thể tách biệt, độc lập và không có một yếu tố quan
trọng hay đặc biệt nào có thể gán cho cái ngã vì nó chỉ được xem như
là một hiện tượng giả tạm.
-
Như thế ta có thể sẵn sàng để cho cái ngã được hòa nhập trở lại với
bản thể đầu tiên của chúng sinh, nơi không còn khả năng phân biệt hay
không phân biệt của ngã, của sinh, của sắc, thinh, hương, vị.
Cũng như không còn nữa sự đau khổ hay sự chấm dứt đau khổ, chúng cũng
được nhận ra là không, là giả có. Ở nơi không có gì -nơi chúng
ta hiểu rằng từ ban sơ trong thực tế đã không có gì– không có gì có
thể khổ đau và ở nơi không có khổ đau, thì khổ đau không cần phải được
chế ngự.
-
Thế giới hình tướng khiến ta lầm lạc tin tưởng rằng nó có thể thỏa mãn
chúng ta, vì tâm ta rất dễ chóng quên những khía cạnh đau khổ của sự
vật mà chỉ trụ trên những khía cạnh dễ chịu. Chúng ta có thể gọi
tâm là một nhà ảo thuật: nó có thể biến hóa ra bất cứ thứ gì, nhưng nó
cũng có thể tự hướng đến sự chứng nghiệm về sự thật tuyệt đối.
-
Chúng ta tìm thấy loại chứng nghiệm như thế được diễn tả trong tất cả
các bản văn thần bí và từ đủ loại thần linh. Mặc dầu cách diễn
tả khác nhau, loại kinh nghiệm mà chúng ta nói đến thường rất giống
nhau. Thí dụ, Meister Eckhart, một thầy dòng Đo-mi-ních gốc Đức,
cuối thời trung cổ đã nói, ‘Con người không là gì cả’ –và lập tức bị
kết án về những điều vừa nói.
-
Vì thế giới chúng ta sống đầy khổ đau, nên chúng ta tìm kiếm sự giải
thoát ra khỏi khổ đau. Đôi lúc ta cũng có thể kinh nghiệm được
những sự giải thoát như thế, nhưng chúng luôn vô thường như bất cứ mọi
giây phút khổ đau nào. Tất cả mọi thứ đều tiếp tục đoạn diệt.
Do đó, trong thực tế, không có gì thực sự từng có mặt, khi nhìn lại
hình như mọi thứ đều vuột khỏi tay ta.
-
Chúng ta có thể quán sát quá trình đó xảy ra trên chiếc đồng hồ.
Mỗi giây phút là sự di chuyển đến giây phút kế tiếp. Nếu
nó đứng yên, tất cả quá trình trong đó từng giây phút là một
thành phần phụ thuộc sẽ bị phá vỡ. Bản chất của thời gian là nó
qua đi và kinh nghiệm của chúng ta có thể không thuộc vào tương lai
hay quá khứ. Như thế, sẽ còn lại điều gì? Chỉ là khoảng
khắc của một giây trong tích tắc của giây kim đồng hồ -đó có thể là
một hình ảnh tốt như bất cứ hình ảnh nào để chuyển tải ý niệm của
không. Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến. Chỉ có kim
đồng hồ chuyển động, tất cả mọi thứ khác đều giả tạm.
-
Vì không có khổ đau, nên cũng không có sự chấm dứt khổ đau, cũng không
có con đường đến giải thoát. Bồ Tát Avalokitesvara đã đi trên
con đường giải thoát rồi. Con đường đó chỉ hiện hữu trên thế
giới này và nó trở nên cũ mòn khi ta đã nhìn được mặt thật của thế
giới. Trên bình diện tuyệt đối hoàn toàn không có gì xảy ra, chỉ
hoàn toàn trống không. Cũng không có ai ở đó để tận hưởng nó.
-
Không có trí tuệ, cũng không đắc trí tuệ.
-
Vô minh và trí tuệ cùng có mặt trong thế giới hình tướng thân thuộc
của chúng ta. Trong thế giới này có người khôn, kẻ ngu, người
đang đi trên đường trí tuệ để tìm kiếm phương cách giải thoát và cũng
có kẻ không màng gì đến tất cả những thứ đó. Tuy nhiên ngay khi
chúng ta đang du hành trên con đường của sự tuyệt đối, những sự phân
biệt đều biến mất. Trong bản thể ban sơ của con người không có
gì để biết, hay không biết, không có sự tìm kiếm và cũng không có khám
phá.
-
Ngay cả cụm từ ‘bản thể ban sơ của con người’ cũng phải được xóa bỏ
trước khi ta có thể hiểu nó muốn nói đến điều gì. Chúng chỉ là
những thuật ngữ. Tất cả mọi thuật ngữ đều dùng để nói đến những
thực tại tương đối, ngay cả thuật ngữ ‘thực tại tuyệt đối’. Ở
đây chúng ta đối mặt với vấn đề phải diễn tả những kinh nghiệm siêu
việt với những từ ngữ chỉ có thể dùng để diễn tả những kinh nghiệm tầm
thường. Đó là lý do tại sao những sự diễn tả được dùng thường có
vẻ nghịch lý và không thể hiểu được.
-
Vì Bồ Tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại, không sợ
hãi.
-
Bất cứ ai đã chứng đắc được điều này trong cuộc sống thì tâm họ hoàn
toàn không phiền não. Họ không còn cảm thấy bị ảnh hưởng bởi những gì
mà các bong bóng khác làm, vì họ giờ đã biết rằng trong thực tế các
bong bóng kia chỉ là không khí và chúng sẽ vỡ tan khi thân đã già.
Nhận thức này sẽ tháo gỡ được bao gánh nặng khỏi tâm tư, khiến cho nó
không phiền não và không sợ hãi.
-
Như thế tâm không sợ hãi là cái gì? Là tâm không còn phải lo bảo
vệ một cái ngã, không phải khẳng định một đẳng cấp hay danh dự, không
phải chứng minh một chứng đắc nào. Như thế sẽ không còn chỗ cho
sự tấn công, do đó không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì phát sinh.
Thân không còn là một sở hữu cá nhân. Tâm cũng không tùy thuộc
vào ai. Cả hai chỉ là những tướng trạng của một thế giới hình
tướng duyên hợp rồi chỉ để rã tan lần nữa lúc chết.
-
Tất cả chúng sinh chưa giác ngộ đều có những nỗi sợ hãi, ngay cả khi
đã qua ba giai đoạn đầu của chứng ngộ, khi vẫn còn những dấu vết của
ngã. Trong tâm ta, sợ hãi mang nhiều tên và hình tướng: sợ bóng
tối, sợ người lạ, tuổi già, bịnh tật, khủng bố và chiến tranh.
Trong thế giới hình tướng, chúng ta không ngừng đặt tên cho tất cả mọi
thứ để buộc chúng với hình tướng. Chúng ta giới hạn tất cả mọi
thứ vào trong không gian và thời gian, để có thể nắm bắt và hiểu được
chúng.
-
Sau mọi nỗi sợ hãi đều ẩn giấu sự sợ hãi cái ngã bị tấn công hay bị
tiêu diệt, dầu là thân vật chất, tình cảm hay tâm linh. Bao giờ
còn có một cái ngã thì sẽ còn có những nỗi sợ hãi. Sự chấp ngã
điên rồ càng mạnh thì nỗi sợ hãi càng lớn hơn và cuộc sống của người
đó càng khốn khổ hơn. Giải thoát khỏi sự sợ hãi chỉ đến khi
chúng ta đã được giải thoát, với sự chứng ngộ được tánh không.
-
Ngài xa lìa mọi vọng tưởng điên đảo, chứng đắc niết bàn trong hiện
tại.
-
Chúng ta phác họa ra bao ý nghĩ về niết bàn phải như thế nào.
Chúng ta huyễn hoặc ra bao phương cách để có thể xếp đặt một cuộc sống
huy hoàng cho bản thân. Chúng ta có những quan điểm về người và
bản thân, và chúng ta tưởng tượng ra thiên đường hay cõi trời với các
thiên thần. Nhưng tất cả những sự tưởng tượng này đều không có
căn cứ - một giấc chiêm bao mà ta chỉ có thể thức tỉnh khi đã
chứng ngộ. Tất cả mọi thứ đều là giả tạm, đến rồi đi, cái này
tiếp nối cái kia không dừng dứt. Nếu chúng ta có thể nghĩ về bao
nhiêu người đã từng sống trên trái đất nhỏ bé này, họ đã đến và đi như
thế nào và giờ đến lượt chúng ta- và nếu chúng ta có thể nhớ rằng ta
chỉ ở đây trong chốc lát như thế nào trước khi ta cũng ra đi và nhường
chỗ cho những người khác tiếp nối, và rằng cuối cùng không có ai sẽ
nhớ chúng ta thực sự là như thế nào –ta sẽ thấy rằng ta chỉ là một
phần của thế giới giả tạm, của sự tưởng tượng.
-
Sự chứng ngộ hoàn toàn thanh tịnh -vắng bặt tất cả mọi sự tưởng tượng:
‘Không là tất cả, và tất cả là không.’ Đây là sự chấm dứt của
mọi mộng ảo. Chúng ta có thể kinh nghiệm được niết bàn ngay bây
giờ, trong chính cuộc sống hiện tại; ta có thể sống trong sự giải
thoát. Đức Phật đã giác ngộ ở tuổi ba mươi lăm, và tiếp tục sống
cho đến khi Ngài được tám mươi trong trạng thái hoàn toàn giải thoát,
dùng khả năng của Ngài để giúp người khác thoát ra khỏi thế giới mê
lầm với niềm tin rằng Ngài có thể giúp những người với ‘một ít bụi
trong mắt họ.’
-
Chư Phật trong ba đời –quá khứ, hiện tại và tương lai- đều nương theo
trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
-
‘Buddha’ không phải là tên gọi, đó là một danh hiệu có nghĩa là ‘Đấng
Giác Ngộ’, và đã có những vị Phật trước đó. Siddhartha Gautama,
là vị Phật mà giáo lý của người vẫn còn được truyền đạt đến chúng ta
ngày nay, là vị Phật thứ bảy trong chu kỳ vũ trụ tính theo truyền
thống Nguyên Thủy, (hay thứ hai mươi bốn theo truyền thống Đại thừa).
Tất cả các vị Phật, người này tiếp theo người kia, chứng đắc như nhau.
Thật vậy, tất cả những vị giác ngộ đều đi trên một con đường và đạt
đến cùng một giác ngộ về sự thật tuyệt đối.
-
Đức Phật của thời hiện tại là người mà giáo lý của Ngài chúng ta nói
đến hôm nay. Đức Phật tương lai là người sẽ được gọi là Di Lặc
(Maitreya hay Metteyya trong tiếng Pali), nhưng thời gian xuất hiện
của ngài vẫn còn xa, vì thế chúng ta không nên hy vọng có thể được
sống vào thời của một Đức Phật, vì những thời điểm như thế rất hiếm
hoi. Chúng ta được khuyên tốt hơn là dấn thân thực hiện việc đại
sự của ta ngay bây giờ, và thích nghi với hoàn cảnh hiện tại hơn là
chờ đợi, hy vọng những điều kiện tốt hơn trong tương lai. Sự
giác ngộ không chỉ có thể có khi Đức Phật còn tại thế, mà còn có thể
có được bất cứ lúc nào khi Pháp –những lời dạy còn lưu truyền hậu thế
của Ngài để dẫn dắt chúng ta theo đúng hướng- còn hiện hữu. Pháp
vẫn luôn hiện hữu khi ta còn tìm đến, khám phá ra nó bằng cách đọc hay
nghe Pháp như hôm nay.
-
Tất cả những ai nương theo trí tuệ bát nhã đều đạt được giải thoát
viên mãn.
-
Sau khi đã nói tất cả những điều này, Bồ Tát Avalokitesvara tiếp tục
khuyến khích tất cả hãy tự chứng nghiệm trí tuệ này.
-
Vì thế tất cả chúng ta hãy nương theo trí tuệ tột cùng này.
Đây là thần chú lớn, là thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh
bằng, dứt trừ hết thảy khổ ách, chân thật không dối, khai mở trí tuệ
cùng tột.
-
Ngay ở đó, câu tiếp theo, gần như một thần chú:
-
Hãy đến, tất cả chúng sanh, hãy cùng đi đến sự giải thoát cùng tột
này, sự giải thoát vĩ đại, vô thượng, đến Giác ngộ. Đó là tâm
trí tuệ bát nhã.
-
Câu chú bằng tiếng Phạn như sau:
-
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi, svaha. (Yết đế, yết
đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề sa bà ha).
-
Mà ta có thể dịch sát nghĩa như sau:
-
Hãy đi, hãy đi
Hãy đi
xa hơn nữa,
Hãy
vượt qua chính mình,
Để đến
được Giác ngộ.
-
Những lời này Bồ Tát Avalokitesvara muốn nhắn gửi đến tất cả chúng
sanh; ngài dạy tất cả mọi người hãy cùng nhau đi đến ‘một sự tự do
rộng lớn, một sự tự do vô hạn, đến giác ngộ, đến tâm trí tuệ bát nhã.’
-
Tựa kinh, Hrdaya Prajnaparamita hay ‘tâm trí tuệ bát nhã’ thật khéo
chọn, vì nó muốn nói rằng khi đạt được trí tuệ phải có sự giải thoát
của con tim. Trí tuệ là một chứng đắc, nhưng nó cũng là một cảm
giác, vì thế liên quan đến trái tim. Nếu chúng ta chỉ hiểu ngữ
văn kinh một cách lý trí, thì rất khó hiểu, ý nghĩa kinh sẽ vẫn lạ
lẫm, huyền bí cho đến khi ta có thể thực sự cảm nhận chúng trong trái
tim ta. Chỉ với cả hai bộ phận: lý trí và trái tim, chúng ta mới
có thể mở lòng ra đón nhận sự giải thoát khỏi tất cả mọi phân biệt,
mọi ảo tưởng, mọi chia rẽ. Và cả mọi phiền não, vì một khi đã
đạt được tánh không, không là gì cả, và có thể trụ trong đó, thì không
có gì còn có thể khiến chúng ta phiền não bằng bất cứ cách nào.
Tất cả mọi sự sợ hãi đều đoạn diệt, vì con đường đã được đi qua.
Bất cứ ai đã đi trên con đường này đều thưa cùng Đức Phật hay Xá Lợi
Phất, ‘Con đường đã đi, phận sự đã thành, không còn gì phải làm nữa’.
-
Khi cảm giác rằng không còn gì cần phải làm nữa được mở ra, có nghĩa
là ta đã đạt được sự an bình, thanh tịnh thực sự. Đây không phải
là sự an tịnh vật lý bề ngoài mà là một cuộc sống nội tâm an bình,
tĩnh lặng; chính đấy là tất cả mọi việc đều đã hoàn thành. Kết
luận này bao gồm tất cả mọi mục đích và trọng điểm của thiền.
Nếu chúng ta không soi việc hành thiền và con đường đạo dưới ánh sáng
này, ta sẽ bị dính mắc và khó có tiến bộ trong việc hành thiền.
Trái lại, nếu chúng ta thực sự cố gắng hành thiền, nếu chúng ta tự
nguyện đi theo con đường đạo, chúng ta sẽ trước sau gì cũng đến được
nơi đó. Một sự quán sát tâm sâu sắc sẽ cho ta thấy rằng niềm ước
muốn thầm kín sâu sắc nhất là đạt được được sự thanh tịnh sâu xa, sự
tự tại và hạnh phúc, cùng với sự chấm dứt mọi phiền não - và chỉ trên
con đường đạo, chúng ta mới có thể đạt được những điều này.
-
Kinh Hrdaya Prajnaparamita không phải là kim ngôn của Đức Phật (11),
nhưng Đức Phật đã diễn tả cùng một kinh nghiệm và trí tuệ như thế
trong những lời sau:
-
Có một cõi không có đất hay nước, không có lửa hay không khí (bốn ‘yếu
tố’ căn bản mà từ đó tất cả vạn vật được hình thành). Không có
cõi của không gian vô tận, cũng không có cõi của thức vô biên (định
thứ năm và thứ sáu), không có cõi của không, cũng không có cõi ở đó
chúng ta có thể nói gì về tưởng (định thứ bảy và tám). Thế giới
này cũng không có ở đó, cũng như không có thế giới kia, không có mặt
trời cũng không có mặt trăng. Không có đến, không có đi, không
có thường hằng, không có sinh, cũng không có tử. Niết bàn dựa
trên tánh không, không lay chuyển, vượt trên tất cả mọi tưởng tượng.
Đó là sự đoạn diệt của tất cả mọi khổ đau.’ (Udana viii.1) (12)
-
Niết bàn tối thượng hơn tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng
ra; nó không thể nghĩ bàn. Chúng ta do đó phải buông bỏ mọi suy
nghĩ và để làm được thế chúng ta phải sẵn sàng để buông xả bản thân.
Như thế ta mới có thể chứng nghiệm được một thực tế nơi không có sinh,
cũng không có tử, không đến, cũng không đi. Đó là sự chấm dứt
của mọi khổ đau.
-
(11) Có
lẽ vì tác giả theo Phật giáo Nguyên Thủy nên không coi Bát Nhã Tâm
Kinh là do Phật thuyết.
-
(12) Udana (Ưu-đà-na): Tự thuyết (một phần trong Tiểu Bộ Kinh).
--o0o--
|