|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa Thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
16
-
-
Ý NGHĨA LỄ VU LAN
-
-
Mỗi năm đến ngày rằm
tháng bảy Âm lịch, toàn thể Phật tử Việt Nam chúng ta và Phật tử
khắp năm châu đều tổ chức long trọng lễ Vu Lan, cúng dường Phật
và chúng Tăng, dựa vào uy lực và giới đức của đức Phật và chúng
Tăng, cầu nguyện cho cha mẹ đang còn sống được an lạc và cha mẹ
đã quá cố được siêu thăng cõi Tịnh Độ.
-
Vu Lan là gọi tắt,
nếu nói đầy đủ là Vu Lan Bồn. Vu Lan Bồn là cứu tội bị treo
ngược, từ Sanskrit là Ulambana, hay là Avalamba nghĩa là "treo
ngược". Có tác giả nói từ Bồn là từ Trung Quốc nghĩa là chậu,
nghĩa là chậu đựng các thứ cúng dường đức Phật và chư Tăng.
-
Tôn giả Mục-kiền-liên
là một đệ tử lớn của đức Phật, và được suy tôn là bậc thần thông
đệ nhất. Sau khi chứng quả A-la-hán. Ngài dùng thiên nhãn quan
sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn đói khát dày
vò trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn cầm bát cơm xuống cõi quỷ
đói đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa
thành than hồng cháy đỏ không tài nào ăn được. Tôn giả
Mục-kiền-liên không biết làm sao được, bèn trở về xin Phật ra
tay cứu giúp. Đức Phật nói: "Mẹ ông bao nhiêu đời sống xan tham
keo kiệt, nên phải chịu khổ báo là quỷ đói, một mình ông không
thể cứu nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày rằm tháng bảy tổ chức cúng
dường đức Phật và chúng Thánh Tăng mười phương nhờ vào sức mạnh
chú nguyện của đức Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới
có thể siêu thóat được".
-
Tôn giả Mục-kiền-liên
vâng lời đức Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ ra
hạ của chư Tăng, đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa... đặt vào
chậu lớn, cúng dường trai Tăng. Bà mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên
nương nhờ vào uy lực của giới đức và phước đức của chư Tăng mười
phương, và cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành
của Tôn giả Mục-kiền-liên, mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ
đói, nỗi khổ ví như nỗi khổ của người bị treo ngược, siêu thăng
lên các cõi lành.
-
Nhân đó, đức Phật
Thích Ca có lời dạy Tôn giả Mục-kiền-liên rằng: "Làm người đệ tử
Phật có đức hiếu thuận, phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công
ơn cha mẹ đời này cho đến bảy đời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng
bảy, hãy nên làm lễ Vu Lan Bồn, cúng dường đức Phật và chúng
Tăng, để báo ơn sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ, cầu cho cha mẹ
sống lâu trăm tuổi và sau khi mạng chung được sanh vào các cõi
lành".
-
Kinh Vu Lan Bồn chủ
yếu được lưu hành rộng rãi ở các nước Phật giáo Á Châu, là nơi
có truyền thống hiếu kính cha mẹ và thờ phụng tổ tiên rất sâu
đậm. Ngày lễ Vu Lan được nhân dân các xứ này tổ chức như một lễ
lớn trong năm và trong cả nước, ngày lễ báo ơn báo hiếu đối với
cha mẹ, ông bà, sư trưởng, cũng như đối với tất cả những người
xứng đáng được tri ân, nhưng trước hết là công ơn cha mẹ và ông
bà cho tới bảy đời.
-
Ở Việt Nam, Trung
Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và nhiều nước khác ở Đông Nam Á, ngày
lễ Vu Lan được quần chúng hưởng ứng rất rộng rãi. Có thể nói là
mọi người kể cả những người không theo đạo Phật, những gia đình
theo Nho giáo hay theo Lão giáo cũng đều làm lễ Vu Lan, nhân
ngày lễ đó tưởng nhớ ông bà, cha mẹ đến bảy đời, công ơn thầy
dạy, công ơn quốc gia cũng như công ơn của tất cả chúng sinh.
-
Trong kinh tạng Pàli
của Phật giáo Nguyên thuỷ, chúng ta có thể đọc được những lời
đức Phật dạy về chữ Hiếu thật là đầy đủ, sinh động và cụ thể,
những lời mà chỉ có đức Phật là bậc đại trí tuệ mới có thể nói
ra được.
-
"Này các Tỷ-kheo, có
hai hạng người, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Đó
là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm
như vậy suốt một trăm năm cho đến khi cha mẹ trăm tuổi. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn cho mẹ và cha. Nếu
đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi
đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm
đủ để trả ơn mẹ và cha... (Tăng Chi I, 75).
-
Các kinh Bắc tông nói
về đạo hiếu cũng rất nhiều, ngoài Kinh Vu Lan Bồn ra, có thể kể
các kinh khác như: Nhẫn Nhục Kinh, Đại Tập Kinh, Tứ Thập Nhị
Chương Kinh... lời lẽ trong các kinh này cũng thống thiết, sinh
động như trong các kinh Nguyên thuỷ vậy. Như Kinh Nhẫn Nhục nói:
"Thiện cùng cực, không có gì hơn hiếu; ác cùng cực; không gì hơn
bất hiếu". Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: "Phàm người phụng thờ
quỷ thần, không bằng phụng thờ cha mẹ. Cha mẹ là vị thần tối
thượng". Kinh Đại Tập nói: "Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo
phụng thờ cha mẹ. Khéo phụ thờ cha mẹ cũng giống như khéo phụng
thờ Phật".
-
Như vậy kinh điển của
Phật giáo Nam Tông cũng như Bắc Tông đều nói đến đạo hiếu và rất
coi trọng đạo hiếu. Trước đây và hiện nay vẫn còn có một số
người chưa hiểu hết giáo lý giải thoát của nhà Phật, cho rằng
các vị đi tu không có vợ con nên không có con nối dõi tông
đường, họ cho là bất hiếu. Vì họ hiểu sai về lý tưởng xuất gia
của đạo Phật. Xuất gia không phải là từ bỏ cha mẹ và người thân.
Xuất gia chỉ có nghĩa là từ bỏ danh lợi thế gian, từ bỏ mọi tình
cảm hẹp hòi vị kỷ, từ bỏ ba độc tham-sân-si. Sách Phật thường
nói về sự xuất gia và lý xuất gia. Cạo tóc, mặc áo
cà sa vào chùa ở chỉ mới là sự xuất gia. Từ bỏ được ân ái hẹp
hòi, từ bỏ được danh lợi thế gian tầm thường, từ bỏ được mọi
tham muốn thấp hèn về ăn uống, tiền tài danh sắc, ngủ nghỉ, từ
bỏ được tham sân mới gọi là xuất gia.
-
Người tu sĩ sau khi
xuất gia, chấp nhận tất cả chúng sinh, tất cả mọi người trong xã
hội đều là cha mẹ, anh em, con cái của mình, và thương yêu với
một tình thương không phân biệt. Đức Phật Thích Ca được tôn xưng
là đấng Từ phụ, tức là cha lành, vì Ngài thương yêu tất cả chúng
sinh như con một của mình. Mọi người xuất gia cũng vậy, noi
gương đức cha lành, cũng xem mọi người trong xã hội đều như cha
mẹ anh em, bà con ruột thịt của mình.
-
Hơn nữa người xuất
gia làm tròn đạo hiếu của mình bằng một cách khác. Tức là bằng
cách xây dựng đức tin cho cha mẹ thiếu đức tin, khuyến khích cha
mẹ bỏ ác làm lành, khuyến khích cha mẹ bố thí và tu học chánh
pháp, đạt tới trí tuệ chơn chánh. Và làm như vậy, theo như lời
đức Phật nói, chính là báo hiếu cha mẹ một cách đầy đủ trọn vẹn
nhất.
-
Chữ báo hiếu không có
nghĩa cha mẹ làm gì mình cũng tán thành, dù rằng làm ác, làm
điều bất thiện. Ngay báo hiếu cũng phải có trí tuệ. Đạo Phật nói
đến chữ Nhân và chữ Hiếu như đạo Nho, nhưng với một nội dung
rộng lớn hơn nhiều, như có thể thấy qua câu mở đầu toát yếu toàn
bộ ý tứ trong tập truyện thơ dân gian "Nam Hải Quan Âm", rất
được ưa chuộng của dân chúng Việt Nam:
-
"Chơn như đạo Phật
rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài.
...
Trên thời hiếu báo sanh thành,
Dưới thời nhân cứu chúng sinh Ta bà".
-
Độ thoát cha mẹ khỏi
vòng sống chết luân hồi là cách thức báo hiếu cha mẹ đầy đủ
nhất, hoàn hảo nhất, nhưng không phải ai cũng làm được. Bởi vì
mình có tu hành chứng quả, độ thoát được mình, mới có thể độ
thoát cho cha mẹ được. Đó là việc làm đức Phật bà Quan Âm Diệu
Thiện trong truyện Nam Hai Quan Âm.
-
Thế nhưng tất cả
chúng ta, dù xuất gia hay tại gia đều có thể trả ơn đầy đủ cho
cha mẹ, nếu chúng ta học tập và thực hành theo lời đức Phật dạy
trong Tăng Chi bộ Kinh Tập I trang 75;
-
"Những ai đền ơn bằng
cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với của cải vật chất, tiền
bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các
Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, thì khuyến khích
cha mẹ an trú vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, thì
khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào thiện giới; đối với cha
mẹ xan tham, khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào bố thí;
đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, thì khuyến khích cha mẹ an trú
vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo tức là làm đủ và
trả ơn đủ cho cha và mẹ".
-
Những lời dạy của đức
Phật, tất cả Phật tử chúng ta đều có thể thực hành được.
-
Chúng ta đều là đệ tử
Phật, là con Phật. Chúng ta đều thọ Tam quy: quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng. Nếu cha mẹ chúng ta chưa tin Tam Bảo, thì
chúng ta khéo léo hướng dẫn, khuyến khích cha mẹ đặt niềm tin ở
Tam Bảo, và tiến dần tới Tam quy y. Phép quy y cũng có sự quy y
và lý quy y. Làm lễ quy y Tam Bảo mới chỉ là sự quy y. Chúng ta
còn phải giảng giải cho cha mẹ rõ thế nào là Phật, Pháp, Tăng và
quy y Phật, Pháp, Tăng có lợi ích như thế nào. Nếu cha mẹ có làm
những điều ác bất thiện nơi thân hay nơi lời nói như sát, đạo,
dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói ác, nói lời vô nghĩa, thì chúng
ta phải khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, khuyến khích cha mẹ phóng
sanh, thay vì sát sanh; bố thí thay vì lấy của không cho; sống
chánh hạnh thay vì tà hạnh; nói lời thật thay vì nói dối; nói
lời đoàn kết thay vì nói chia rẽ; nói lời dịu hiền thay vì nói
ác độc; nói lời có ý nghĩa thay vì nói vô nghĩa... Những lời dạy
của đức Phật, mặc dù nói ra cách đây hơn hai ngàn rưỡi năm,
nhưng vẫn mang tính thời sự nóng bỏng đối với xã hội chúng ta
hiện nay. Những lời nói đó xứng đáng là khuôn vàng thước ngọc
cho đời sống chúng ta, cho mọi cung cách ứng xử của chúng ta
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tất cả chúng ta hãy sống
theo lời dạy của đức Phật, tức khắc chúng ta sẽ được an lạc và
hạnh phúc. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ bất hạnh và đau khổ.
-
Vì lợi lạc của mọi
người, của số đông, chúng ta hãy phổ biến rộng rãi những lời dạy
vàng ngọc đó của đức Phật. Mỗi chúng ta, chứ không gì riêng Tăng
sĩ, đều phải nói pháp, khéo nói pháp, có như vậy bánh xe pháp
mới thường chuyển, ngọn đèn pháp mới ngày đêm sáng tỏ.
-
Đức Phật đã từng dạy
rằng: "Trong tất cả hình thức bố thí, thì bố thí pháp là đệ
nhất".
-
Cho nên tất cả chúng
ta phải học nói pháp, biết nói pháp, khéo nói pháp. Đừng nên
nghĩ rằng nói pháp phải là đăng đàn thuyết pháp, nói hai ba giờ
liền và dẫn chứng nhiều kinh điển mới là thuyết pháp. Trong Kinh
Pháp Cú, đức Phật đã từng răn dạy rằng: "Nói trăm ngàn lời cũng
không bằng nói một lời làm cho tâm người nghe được an tịnh".
-
Học pháp là học những
lời đức Phật dạy để biết rõ đâu là thiện, đâu là bất thiện; đâu
là gốc rễ của thiện, của bất thiện. Không sát sanh, không lấy
của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không
nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm,
không tham, không sân, có chánh kiến là thiện. Ngược lại là bất
thiện. Tham sân si là gốc rễ của bất thiện. Ngược lại là thiện.
Học rồi đem sở học ấy áp dụng vào nếp sống hàng ngày của chính
mình và khuyến khích người khác áp dụng thì gọi là hành pháp.
-
Học pháp là hành pháp
là nếp sống tu học song đôi của người Phật tử. Nếp sống ấy vừa
phù hợp với đạo lý tu nhân tích đức của người Việt Nam, vừa nói
lên ý nghĩa đúng đắn của một người Phật biết sống vì mình vì
người. Đó là cách báo hiếu báo ân tốt đẹp nhất của mỗi người
Phật tử chúng ta.
-
(Bài thuyết giảng Đại
Lễ Vu Lan PL 2540)
--o0o--
|
|