|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa Thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
25
-
- KINH
BÁNH MẬT
-
- Bài kinh nêu
rõ mục đích hòa bình của đạo Phật là Kinh Bánh Mật (Xác định rõ
thái độ không tranh chấp với một ai ở đời). Hơn thế nữa, kinh
này lại giới thiệu phương pháp giải quyết các tranh chấp, chấp
trượng, chấp kiếm, đưa đến tiêu diệt các bất thiện pháp, không
còn dư tàn.
- Kinh này có
thể xem là gồm có ba lời tuyên bố: Hai lời đầu là hai lời tuyên
bố của Thế Tôn, nói lên quan điểm không tranh chấp của đức Phật
và phương pháp diệt tận các tranh chấp. Lời tuyên bố thứ ba là
của Tôn giả Mahà Kaccàna, giải thích rộng hơn và rõ hơn lời
tuyên bố thứ hai của Thế Tôn, và trình bày rõ tiến trình đoạn
tận các tranh chấp, các ác, bất thiện pháp.
- 1/ Câu trả
lời thứ nhất: Khi được một ngoại đạo tên là Dandapàni (gậy cầm
tay) hỏi Sa môn Gotama có quan điểm thế nào, giảng thuyết những
gì. Thế Tôn trả lời một cách rõ ràng dứt khoát: "Này Hiền
giả, theo lời dạy của Ta, trong thế giới với chư Thiên, Mara và
Phạm thiên, với các chúng Sa môn, Bà-la-môn, chư môn và loài
người, không có tranh luận với ai ở đời". Đây là một câu trả
lời dứt khoát, lời dạy của Ngài không gây một tranh chấp nào,
cạnh tranh, đấu tranh nào. Rồi Ngài giải thích thêm hạng người
nào có thể thoát ly khỏi sự tranh chấp: Chính là những vị không
bị các tưởng chi phối, sống không bị các dục triền phược, với
mọi nghi ngờ, hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với hữu và
phi hữu. Chính do các tưởng chi phối, các dục triền phược, các
nghi ngờ do dự triển khai, các tà kiến hữu và phi hữu ám ảnh,
nên con người rơi vào các tranh chấp, đấu tranh, cạnh tranh.
- 2/ Câu trả
lời thứ hai: Thế Tôn dạy: "Do bất cứ nhân duyên gì, một số lý
luận vọng tưởng ám ảnh một người, nếu ở nơi đây không có gì đáng
tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn
tận tham tùy miên, mạn tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên,
nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy
miên, sự đoạn tâm của chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh
tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ, chính ở
nơi đây những ác bất thiện pháp này được tiêu diệt không có dư
tàn". Lời khuyên của đức Phật rất rõ ràng: Chớ có hoan hỷ,
chớ có đón mừng, chớ có chấp thủ, các hý luận vọng tưởng ấy,
thời thái độ như vậy sẽ giúp đoạn tận bảy tùy miên, giúp đoạn
tận mọi cạnh tranh, mọi chấp kiếm, chấp trượng, ly gián ngữ, các
bất thiện pháp không còn dư tàn. Tốt nhất là đừng cho khởi lên
các hý luận vọng tưởng; và nếu chúng có khởi lên thời đừng hoan
hỷ, đón mừng, chấp thủ chúng. Có vậy mới đoạn trừ mọi tranh
chấp, chấp trượng, chấp kiếm, ly gián ngữ, vọng ngữ, và mọi bất
thiện pháp đều được đoạn trừ không có dư tàn.
- 3/ Lời tuyên
bố thứ ba: Câu trả lời thứ hai của Thế Tôn không có giải thích
rõ ràng, khiến một số Tỷ-kheo không hiểu rõ ý nghĩa, nên đồng
thanh mời Tôn giả Kaccàna giải thích thêm cho rõ. Ban đầu, Tôn
giả Kaccàna từ chối; trước sự cầu thỉnh nhiệt tình, Tôn giả
Kaccàna mới chấp thuận và giải thích như sau: "Do nhân sáu căn
xúc chạm với sáu trần, sáu thức, khởi lên, sự gặp gỡ của ba pháp
này là xúc. Dó duyên xúc nên cảm thọ, những gì có thọ thời có
tưởng. Những gì có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận này làm
nhân, một số hý luận vọng tưởng hiện hành khởi lên cho một
người, đối với sáu trần, do sáu căn nhận thức, quá khứ, tương
lai, hiện tại... Sự kiện này không xảy ra, khi nào không có sáu
căn, khi nào không có sáu trần, khi nào không có sáu thức thời
không có sự thi thiết của xúc. Khi nào không có sự thi thiết của
xúc, thời sự thi thiết của thọ không được hiển lộ. Khi nào không
có sự thi thiết của thọ, sự thi thiết của tưởng, sự thi thiết
của suy tầm không được hiển lộ. Khi nào không có sự thi thiết
của suy tầm, thời sự thi thiết hiện hành một số hý luận vọng
tưởng không được hiển lộ. Như vậy toàn bộ các pháp hý luận không
được xuất hiện, không thể làm cho khởi lên đấu tranh, luận
tranh, chấp trượng, chấp kiếm, cuối cùng đoạn trừ tất cả bất
thiện pháp, không có dư tàn. Pháp môn này không những loại bỏ
các tranh chấp, hý luận, lại còn loại trừ 7 tùy miên, đoạn tận
các ác, bất thiện pháp, giúp người hành giả được giải thóat khỏi
sanh, già, bệnh, chết một cách hoàn toàn.
- Sau khi nghe
Tôn giả Mahà Kaccàna thuyết giảng, các vị Tỷ-kheo liền đi đến
yết kiến Thế Tôn và trình bày lời giải thích của Tôn giả Mahà
Kaccàna. Thế Tôn tán thán Tôn giả Mahà Kaccàna là bậc Đại tuệ,
là bậc Hiền trí. Ngài nói, nếu các Tỷ-kheo có hỏi Ngài, thời
Ngài cũng trả lời như Tôn giả Mahà Kaccàna đã trả lời.
- Tôn giả
Ananda có mặt trong buổi họp này, dùng ví dụ một người bị đói lả
và mệt mỏi, tìm được một bánh mật và cứ mỗi miếng vị ấy được
nếm, vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Cũng vậy, vị
Tỷ-kheo có tri thức biệt tài, cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa của
pháp môn này với trí tuệ, cứ mỗi phần vị ấy được thưởng thức sự
hoan hỷ, được thưởng thức sự thoải mái tâm trí. Tôn giả Ananda
hỏi Thế Tôn nên đặt tên kinh này là gì, Thế Tôn đáp nên đặt tên
kinh này là bánh mật (mật hoàn) và hãy như vậy mà thọ trì.
- Nếu bánh mật
làm dịu được sự khao khát của con người, thời những lời dạy của
đức Bổn Sư làm dịu đi khát vọng của con người, giải thoát con
người khỏi các tùy miên, loại trừ các đấu tranh, kháng tranh,
đem lại sự hòa đồng, thông cảm cho tất cả mọi người .
- (Trung
Bộ I, số 18)
--o0o--
|
|