|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN
THỨ SÁU
-
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
- Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM PHÁT THÚ THỨ HAI MƯƠI
Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề: "Ông hỏi thế nào là
đại Bồ-Tát đại thừa phát thú?
Này Tu Bồ-Ðề!
Nếu đại Bồ-Tát lúc thật hành sáu ba la mật, từ một Ðịa đến một
Ðịa, đây gọi là đại Bồ-Tát đại thừa phát thú.
Ngài Tu Bồ Ðề
thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là đại Bồ-Tát từ một Ðịa đến một
Ðịa?
Ðức Phật nói:
"Ðại Bồ-Tát biết tất cả pháp không có tướng lai khứ, cũng không có
pháp hoặc lai khứ hoặc đến chẳng đến, vì các pháp tướng bất diệt
vậy.
Ðại Bồ-Tát đối
với các Ðịa chẳng niệm chẳng tư duy mà tu tập trị địa nghiệp, cũng
chẳng thấy Ðịa.
Những gì là
trị địa nghiệp?
Lúc an trụ bực
sơ địa, đại Bồ-Tát thật hành mười việc.
Một là thâm
tâm kiên cố, vì dụng vô sở đắc vậy.
Hai là đối với
tất cả chúng sanh tâm bình đẳng, vì chúng sanh bất khả đắc vậy.
Ba là bố thí
cho người, vì thọ giả bất khả đắc vậy.
Bốn là thân
cận thiện trí thức, cũng chẳng tự cao vậy.
Năm là cầu
pháp, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Sáu là thường
xuất gia, vì gia bất khả đắc vậy.
Bảy là mến
thích Phật thân, vì tướng hảo bất khả đắc vậy.
Tám là diễn
nói giáo pháp xuất thế, vì các pháp phân biệt bất khả đắc vậy.
Chín là phá
kiêu mạn,vì pháp sanh huệ bất khả đắc vậy.
Mười là thiệt
ngữ, vì ngữ ngôn bất khả đắc vậy.
Trên đây là
mười sự trị địa nghiệp của đại Bồ-Tát an trụ trong bực sơ địa tu
tập.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực nhị địa thường niệm tám pháp.
Những gì là
tám?
Một là giới
thanh tịnh. Hai là biết ơn và báo ơn. Ba là an trụ nhẫn nhục lực.
Bốn là thọ hoan hỉ. Năm là chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh. Sáu là
nhập đại bi tâm. Bảy là tin kính và thưa hỏi nơi thầy. Tám là cần
cầu các môn ba la mật.
Ðây là đại
Bồ-Tát an trụ trong bực nhị địa đầy đủ tám pháp.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực tam địa thật hành năm pháp.
Những gì là
năm?
Một là học vấn
nhiều không nhàm đủ. Hai là thanh tịnh pháp thí cũng chẳng tự cao.
Ba là thanh tịnh Phật độ cũng chẳng tự cao. Bốn là nhận chịu vô
lượng sự cần khổ thế gian mà vẫn chẳng nhàm. Năm là an trụ trong
tàm quý.
Ðây là năm
pháp mà đại Bồ-Tát an trụ trong bực tam địa phải đầy đủ.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực tứ địa phải thọ hành chẳng bỏ đầy đủ
mười pháp.
Những gì là
mười?
Một là chẳng
bỏ chỗ ở A Lan Nhã. Hai là thiểu dục. Ba là tri túc. Bốn là chẳng
bỏ công đức đầu đà. Năm là chẳng bỏ giới. Sáu là trách ghét các
dục nhiễm. Bảy là nhàm tâm thế gian, thuận tâm Niết Bàn. Tám là xả
bỏ tất cả sở hữu. Chín là tâm chẳng trầm một. Mười là chẳng tiếc
tất cả vật.
Ðây là mười
pháp mà đại Bồ-Tát an trụ trong bực tứ địa chẳng bỏ.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực ngũ địa xa rời mười hai pháp.
Những gì là
mười hai?
Một là xa lìa
sự thân cận hàng bạch y. Hai là xa lìa hàng Tỳ kheo ni. Ba là xa
lìa sự tham tiếc nhà người khác. Bốn là xa lìa sự đàm thuyết vô
ích. Năm là xa lìa sự giận hờn. Sáu là xa lìa sự tự tôn đại. Bảy
là xa lìa sự khinh miệt người khác. Tám là xa lìa mười nghiệp đạo
bất thiện. Chín là xa lìa đại mạn. Mười là xa lìa tự dụng. Mười
một là xa lìa điên đảo. Mười hai là xa lìa tham sân si.
Ðây là mười
hai điều mà đại Bồ-Tát an trụ trong bực ngũ địa xa lìa.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực lục địa nên đầy đủ sáu pháp, chính là
sáu ba la mật.
Bực lục địa
lại có sáu pháp chẳng nên làm. Những gì là sáu? Một là chẳng móng
tâm Thanh Văn Bích Chi Phật. Hai là chẳng có ý lo ngại khi bố thí.
Ba là bị đòi hỏi cầu xin, không có lòng trốn tránh. Bốn là những
vật sở hữu đều đem bố thí. Năm là sau khi bố thí xong, không có
lòng hối tiếc. Sáu là chẳng nghi ngờ pháp thâm diệu.
Ðây là sáu
pháp phải đầy đủ và sáu pháp phải xa lìa của đại Bồ-Tát an trụ
trong bực lục địa.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực thất địa phải xa lìa hai mươi pháp
chẳng nên chẳng phải.
Những gì là
hai mươi?
Một là chẳng
chấp ngã. Hai là chẳng chấp chúng sanh. Ba là chẳng chấp thọ giả.
Bốn là chẳng chấp chúng sanh số nhẫn đến tri giả kiến giả. Năm là
chẳng chấp đoạn kiến. Sáu là chẳng chấp thường kiến. Bảy là chẳng
nên k hởi tướng dạng. Tám là chẳng nên khởi nhơn duyên kiến. Chín
là chẳng chấp danh sắc. Mười là chẳng chấp ngũ ấm. Mười một là
chẳng chấp thập nhị nhập. Mười hai là chẳng chấp thập bát giới.
Mười ba là chẳng chấp tam giới. Mười bốn là chẳng khởi tâm chấp
trước. Mười lăm là chẳng khởi chỗ mong cầu. Mười sáu là chẳng khởi
chỗ y chỉ. Mười bảy là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương
nơi Phật. Mười tám là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương
nơi Pháp. Mười chín là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương
nơi Tăng. Hai mươi là chẳng chấp trước nơi sự thấy là phải nương
nơi giới. Ðây là hai mươi điều chẳng nên chấp trước.
Lại có hai
mươi pháp mà bực thất địa phải đầy đủ.
Những gì là
hai mươi?
Một là đầy đủ
không. Hai là chứng vô tướng. Ba là biết vô tác. Bốn là ba phần
thanh tịnh. Năm là ở trong chúng sanh đầy đủ trí từ bi. Sáu là
chẳng niệm tưởng tất cả chúng sanh. Bảy là bình đẳng xem tất cả
pháp, nơi trong đây cũng chẳng chấp trước. Tám là biết thiệt tướng
của các pháp, cũng chẳng niệm tưởng sự này. Chín là vô sanh pháp
nhẫn. Mười là vô sanh trí. Mười một là tuyên thuyết các pháp nhứt
tướng. Mười hai là phá tướng phân biệt. Mười ba là chuyển ức
tưởng. Mười bốn là chuyển kiến. Mười lăm là chuyển phiền não. Mười
sáu là đồng huệ đồng đẳng. mười bảy là điều ý. Mười tám là tâm
tịch diệt. Mười chín là vô ngại trí. Hai mươi là chẳng nhiễm ái.
Trên đây là
hai mươi điều chẳng nên chấp trước và hai mươi điều phải đầy đủ
của bực thất địa đại Bồ-Tát.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bát địa phải đầy đủ năm pháp.
Những gì là
năm?
Một là thuận
nhập vào tâm chúng sanh. Hai là du hí các thần thông. Ba là thấy
các Phật quốc. Bốn là tự trang nghiêm quốc độ mình như Phật quốc
đã thấy. Năm là quán thân Phật như thiệt, tự trang nghiêm Phật
thân.
Lại phải đầy
đủ năm điều. Một là biết các tánh căn thượng hạ. Hai là thanh tịnh
Phật độ. Ba là nhập như huyễn tam muội. Bốn là thường nhập tam
muội. Năm tùy theo thiện căn mà chúng sanh đáng được để thọ thân.
Trên đây là
năm pháp và năm điều mà đại Bồ-Tát bát địa đầy đủ.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong cửu địa phải đầy đủ mười hai pháp. Một là
nhiếp thọ vô biên thế giới mà phần mình hóa độ. Hai la Bồ-Tát được
như chỗ nguyện cầu. Ba là biết tiếng nói của các Thiên long Càn
thát bà để thuyết pháp cho họ. Bốn là thành tựu thai sanh. Năm là
thành tựu nhà. Sáu là thành tựu chỗ sanh. Bảy là thành tựu họ. Tám
là thành tựu quyến thuộc. Chín là thành tựu xuất sanh. Mười là
thành tựu xuất gia. Mười một là thành tựu bồ đề thọ trang nghiêm.
Mười hai là thành tựu đầy đủ tất cả những công đức lành.
Trên đây là
mười hai pháp mà bực cửu địa đại Bồ-Tát phải đầy đủ.
Này Tu Bồ Ðề!
Phải biết bực thập địa đại Bồ-Tát thời là như đức Phật.
Ngài Tu Bồ Ðề
thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là thâm tâm nhẫn đến thế nào là
thiệt ngữ?
Ðức Phật nói:
"Nếu đại Bồ-Tát đúng với tâm nhứt thiết trí tích tập tất cả thiện
căn đây gọi là thâm tâm trị địa nghiệp. Nếu sanh khởi tứ vô lượng
tâm là từ, bi, hỉ và xả, đây gọi là tâm bình đẳng ở trong tất cả
chúng sanh. Nếu bố thí cho tất cả chúng sanh mà không phân biệt,
đây gọi là tu bố thí. Nếu thân cận học hỏi cung kính cúng dường
các bực có thể giáo hóa người an trụ trong nhứt thiết trí, đây gọi
là thân cận thiện trí thức. Nếu cầu pháp đúng với tâm nhứt thiết
trí không sa vào hàng Thanh Văn Bích Chi Phật, đây gọi là cầu
pháp. Nếu đời đời chẳng rời tâm xuất gia, luôn xuất gia trong Phật
pháp không ai ngăn trở được, đây gọi là thường xuất gia trị địa
nghiệp. Nếu thấy thân tướng của Phật, nhẫn đến khi thành vô thượng
bồ đề trọn chẳng rời niệm Phật, đây gọi là ái lạc Phật thân. Hoặc
Phật hiện tại hoặc Phật đã nhập diệt, nếu vì chúng sanh mà thuyết
pháp sơ trung hậu đều thiện, diệu nghĩa hảo ngữ trong sạch tinh
thuần hoàn cụ cả mười hai bộ kinh từ tu đa la đến luận nghị, đây
gọi là diễn nói giáo pháp xuất thế trị địa nghiệp. Vì phá kiêu
mạng nênÕ trọn chẳng thọ sanh nhà hạ tiện, đây gọi là phá kiêu
mạng trị địa nghiệp. Ðúng như lời mà thật hành, đây gọi là thiệt
ngữ trị địa nghiệp.
Trên đây là
mười sự trị địa nghiệp của đại Bồ-Tát an trụ trong bực sơ địa tu
hành.
Thế nào là
giới thanh tịnh nhẫn đến cần cầu các ba la mật?
Này Tu Bồ Ðề!
Nếu đại Bồ-Tát chẳng có tâm niệm xu hướng Thanh Văn Bích Chi Phật
và những sự phá giới chướng ngại Phật đạo, đây gọi là giới thanh
tịnh. Nếu thật hành Bồ-Tát hạnh, cho đến một chút ơn nhỏ còn chẳng
quên huống là nhiều, đây gọi là biết ơn báo ơn. Nếu đối với tất cả
chúng sanh không giận hờn không làm não hại, đây gọi là an trụ
sức nhẫn nhục. Lấy sự thành tựu chúng sanh làm niềm vui, đây gọi
là thọ hoan hỷ. Nghĩ nhớ muốn cứu tất cả chúng sanh, đây gọi là
chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Nếu nghĩ như vậy: tôi vì mỗi mỗi chúng
sanh mà chịu cần khổ trong địa ngục đến hằng sa kiếp chừng nào
chúng sanh ấy thành Phật nhập Niết Bàn, đây là vì tất cả chúng
sanh mười phương mà nhẫn thọ sự khổ nhạc nê gọi là nhập đại bi
tâm. Nếu đối với bực sư trưởng xem như Phật, đây gọi là tin tưởng
cung kính học hỏi nơi thầy. Nếu nhứt tâm siêng cầu các môn ba la
mật mà không cầu sự khác, đây gọi là cần cầu các ba la mật.
Trên đây gọi
là tám pháp đầy đủ của đại Bồ-Tát an trụ trong bực nhị địa.
Thế nào là học
vấn nhiều không nhàm đủ nhẫn đến an trụ trong tàm quý?
Này Tu Bồ Ðề!
Hoặc trong thế giới này hay ở thế giới mười phương có bao nhiêu
chánh pháp của chư Phật tuyên thuyết thời đều muốn được nghe nhớ
thọ trì cả, đây gọi là học vấn nhiều không nhàm đủ. Có bao nhiêu
pháp thí vẫn không mong cầu, cho đến còn chẳng cầu vô thượng bồ đề
huống là những sự khác, đây gọi là pháp thí chẳng cầu danh lợi,
cũng gọi là thanh tịnh pháp thí. Ðem tất cả thiện căn hồi hướng
thanh tịnh Phật độ, đây gọi là tịnh Phật quốc độ. Vì đầy đủ thiện
căn nên có thể thành tựu chúng sanh cũng trang nghiêm Phật độ cho
đến đầy đủ nhứt thiết trí trọn không mỏi nhàm, đây gọi là chịu lấy
vô lượng sự cần khổ mà chẳng nhàm. Hổ thẹn nơi tâm Thanh Văn, Bích
Chi Phật, đây gọi là an trụ nơi tàm quý.
Trên đây là
đại Bồ-Tát an trụ bực tam địa đầy đủ năm pháp.
Thế nào là
chẳng bỏ chỗ ở a-lan-nhã nhẫn đến chẳng tiếc tất cả vật?
Này Tu Bồ-Ðề!
Bồ-Tát có thể hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật, đây gọi là chẳng
bỏ chỗ ở A Lan Nhã. Còn không có niệm mong muốn vô thượng bồ đề
huống là những sự mong muốn khác, đây gọi là thiểu dục, được nhứt
thiết chủng trí, đây gọi là tri túc. Quán sát các thâm pháp nhẫn,
đây gọi là chẳng bỏ đầu đà công đức. Chẳng chấp lấy giới tướng,
đây gọi là chẳng bỏ giới. Vì dục tâm chẳng phát sanh, đây gọi là
trách ghét các dục nhiễm. Vì biết tất cả pháp chẳng tạo tác, đây
gọi là nhàm tâm thế gian mà thuận tâm Niết Bàn. Chẳng tiếc tất cả
nội pháp ngoại pháp, đây gọi là xả bỏ tất cả sở hữu. Tâm chẳng
sanh khởi nơi hai thứ thức xứ, đây gọi là tâm chẳng trầm một. Ðối
với tất cả vật chẳng chấp trước chẳng nghĩ nhớ, đây gọi là chẳng
tiếc tất cả vật.
Trên đây là
mười pháp chẳng bỏ của đại Bồ-Tát an trụ trong bực tứ địa.
Thế nào là xa
lìa gần gũi hàng bạch y nhẫn đến xa lìa tham sân si?
Này Tu Bồ Ðề!
Bồ-tát sanh nơi đâu cũng đều xuất gia, từ một phật quốc đến m ột
Phật quốc thường xuất gia cạo đầu mặc cà sa, đây gọi là xa lìa gần
gũi hàng bạch y. Chẳng ở chung chỗ với tỳ kheo ni, nhẫn đến chẳng
nghĩ tưởng dầu là khoản đàn chỉ, đây gọi là xa lìa tỳ kheo ni.
Bồ-Tát phải suy nghĩ như vầy tôi phải an lạc chúng sanh nay họ
giúp tôi anlạc thời đâu nên sanh lòng lẫn tiếc, đây gọi là xa lìa
sự lẫn tiếc nhà người khác. Nếu có chỗo nào luận đàm có thể phát
sanh tâm Thanh văn Bích Chi Phật thời tôi phải xa lìa, đây gọi là
xa lìa chỗ luận đàm vô ích. Chẳng để tâm giận hờn tâm não hại, tâm
đấu tranh xen vào, đây gọi là xa lìa tâm sân. Chẳng thấy có nội
pháp, đây gọi là xa lìa sự tự tôn đại. Chẳng thấy có ngoại pháp,
đây gọi là xa lìa sự khi dễ người. Mười nghiệp đạo bất thiện còn
là chướng ngại bát thánh đạo huống là vô thượng bồ đề, đây gọi là
xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện. Chẳng thấy có pháp gì có thể làm
đại mạn, đây gọi là xa lìa đại mạn. Chẳng thấy có pháp gì có thể
tự dùng được, đây gọi là xa lìa tự dụng. Chỗ điên đảo bất khả đắc,
đây gọi là xa lìa điên đảo. Chẳng thấy được chỗ tham sân si, đây
gọi là xa lìa tham sân si.
Trên đây là
đại Bồ-Tát an trụ trong bực ngũ địa xa lìa mười hai pháp.
Thế nào là đầy
đủ sáu pháp? An trụ trong sáu ba la mật có thể vượt đến bờ kia,
đây gọi là đầy đủ sáu pháp.
Thế nào là
chẳng móng tâm Thanh Văn Bích Chi Phật nhẫn đến chẳng nghi ngờ
pháp thâm diệu?
Này Tu Bồ Ðề!
Bồ-Tát nghĩ rằng tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng phải đạo vô
thượng bồ đề, đây gọi là chẳng móng tâm Thanh Văn Bích Chi Phật.
Bồ-Tát nghĩ rằng bố thí có lòng lo ngại thời là chẳng phải đạo vô
thượng bồ đề, đây gọi là bố thí chẳng sanh lòng lo sợ. Bồ-Tát
nghĩ rằng thấy người cầu xin mà có tâm trốn tránh thời chẳng phải
đạo vô thượng bồ đề, đây gọi là chẳng có lòng trốn tránh khi bị
cầu xin. Lúc bố thí chẳng nói cái này cho được cái này chẳng cho
được, đây gọi là những vật sở hữu đều đem bố thí. Vì sức từ bi nên
sau khi bố thí chẳng ăn năn. Vì sức tín công đức nên chẳng nghi
ngờ pháp thâm diệu.
Trên đây là
sáu pháp phải đầy đủ và sáu pháp phải xa lìa của đại Bồ-Tát an trụ
bực lục địa.
Thế nào là
chẳng chấp ngã nhẫn đến chẳng chấp nơi sự thấy là phải nương theo
giới?
Này Tu Bồ Ðề!
Vì rốt ráo vô ngã, vì chúng sanh đến tri giả kiến giả đều rốt ráo
bất khả đắc nên chẳng chấp trước những pháp ấy. Không có pháp
đoạn diệt vì các pháp rốt ráo bất sanh nên chẳng chấp đoạn kiến.
Nếu pháp đã chẳng sanh thời cũng chẳng thường nên chẳng chấp
thường kiến. Vì không các phiền não nên chẳng chấp lấy tướng. Vì
chư kiến đều chẳng thể thấy được nên chẳng khởi nhơn duyên kiến.
Vì danh sắc, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, tam giới, tâm
nguyện và y chỉ đều là tánh không nên chẳng chấp trước. Vì khởi sự
thấy là phải nương nơi Phật thời chẳng thấy Phật nên chẳng khởi sự
thấy y chỉ nơi Phật. Vì pháp chẳng thể thấy nên chẳng khởi sự thấy
y chỉ pháp. Vì tăng tướng vô vi chẳng thể nương nên chẳng khởi sự
thấy y chỉ nơi tăng. Vì nơi tội cùng vô tội đều không dính mắc nên
chẳng khởi sự thấy y chỉ nơi giới.
Trên đây là
hai mươi pháp chẳng nên chấp trước của đại Bồ-Tát an trụ trong bực
thất địa.
Thế nào là đầy
đủ không nhẫn đến chẳng nhiễm ái?
Này Tu Bồ Ðề!
Ðầy đủ tự tướng không của các pháp, đây là đầy đủ không. Chẳng
tưởng nhớ các tướng, đây là chứng vô tướng. Chẳng tạo tác trong
tam giới, đây là biết vô tác. Ðầy đủ mười nghiệp đạo lành, đây là
ba phần thanh tịnh. Vì được đại bi nên đầy đủ trí từ bi. Vì đầy đủ
thanh tịnh Phật độ nên chẳng niệm tưởng tất cả chúng sanh. Vì
chẳng tổn ích đối với tất cả pháp nên bình đẳng quán sát tất cả
pháp. Vì các pháp thiệt tướng là vô tri nên Bồ-Tát biết thiệt
tướng của các pháp. Vì các pháp bất sanh bất diệt nên Bồ-Tát được
vô sanh pháp nhẫn. Vì biết danh sắc bất sanh nên được vô sanh trí.
Vì tâm chẳng hiện hành hai tướng nên tuyên nói các pháp nhứt
tướng. Vì tất cả pháp chẳng phân biệt nên phá tướng phân biệt. Vì
vô lượng tưởng niệm lớn nhỏ chuyển nên Bồ-Tát chuyển nhớ tưởng. Vì
kiến chấp Thanh Văn Bích Chi Phật chuyển nên chuyển kiến. Vì dứt
trừ những phiền não nên chuyển phiền não. Vì được nhứt thiết chủng
trí nên định huệ đồng đẳng. Vì bất động đối với tam giới nên ý
được điều. Vì chế ngự sáu căn nên tâm tịch diệt. Vì được Phật nhãn
nên trí vô ngại. Vì xả bỏ sáu trần nên chẳng nhiễm ái.
Trên đây là
hai mươi pháp phải đầy đủ của đại Bồ-Tát an trụ trong bực thất
địa.
Thế nào là đại
Bồ-Tát thuận nhập tâm chúng sanh nhẫn đến tự trang nghiêm Phật
thân?
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát dùng một tâm biết rõ tâm và tâm sở của tất cả chúng
sanh, đây là thuậnnhập tâm chúng sanh. Dùng thần thông từ một Phật
quốc đến một Phật quốc, cũng không có tưởng niệm Phật quốc, đây là
du hí các thần thông. Từ ở cõi mình mà thấy vô lượng Phật quốc,
cũng không có tưởng Phật quốc, đây là xem thấy các Phật quốc. Trụ
ngôi chuyển luân thánh vương đi khắp đại thiên thế giới để tự
trang nghiêm nước của mình, đây là tự trang nghiêm nước mình như
Phật quốc đã được thấy. Vì như thiệt quán pháp thân nên là như
thiệt quán Phật thân.
Trên đây là
đại Bồ-Tát an trụ trong bực bát địa đầy đủ năm pháp.
Thế nào là
biết các căn tánh thượng hạ nhẫn đến thế nào là tùy theo thiện căn
để thọ thân?
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong Phật thập lực biết những căn tánh thượng
hạ của tất cả chúng sanh. Vì tịnh chúng sanh nên Phật độ tịnh. Trụ
trong như huyễn tam muội tời có thể thành tựu tất cả sự, cũng
chẳng phát sanh tâm tướng. Vì được báo sanh tam muội nên thường
nhập tam muội. Vì thành tựu chúng sanh nên tùy theo thiện căn mà
chúng sanh đáng được để thọ thân hầu giáo hóa họ.
Trên đây là
năm điều mà đại Bồ-Tát trụ bực bát địa được đầy đủ.
Thế nào là đại
Bồ-Tát nhiếp thọ vô biên thế giới mà phần mình hóa độ nhẫn đến
công đức thành tựu đầy đủ?
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát hóa độ chúng sanh trong vô biên thế giới đúng như chỗ
đáng được độ của Phật pháp, đây là nhiếp thọ vô biên thế giới mà
phần mình hóa độ. Ðược đầy đủ sáu ba la mật, đây là được như chỗ
nguyện cầu. Do từ vô ngại biện lực nên biết tiếng nói của chư
thiên long càn thát bà. Vì đời đời thường hoá sanh nên thai sanh
được thành tựu. Vì thường sanh trong nhà vọng tộc nên nhà được
thành tựu. Vì sanh nơi dòng sát đế lợi hoặc bà la môn nên chỗ sanh
được thành tựu. Như họ của Bồ-Tát quá khứ sanh mà sanh trong đó
nên họ được thành tựu. Vì thuần dùng hàng đại Bồ-Tát làm quyến
thuộc nên quyến thuộc được thành tựu. Vì lúc sanh ra quang minh
của Bồ-Tát chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới cũng chẳng chấp
lấy tướng quang minh nên xuất sanh được thành tựu. Vì khi xuất gia
có vô lượng chư thiên theo hầu hạ và quyết định đưa chúng sanh đến
quả tam thừa nên xuất gia thành tựu. Cây Bồ Ðề dùng hoàng kim làm
gốc, bảy báu làm thân nhánh lá, chiếu sáng khắp vô lượng vô số thế
giới mười phương, đây là trang nghiêm Phật thọ thành tựu. Chúng
sanh dược thanh tịnh Phật độ cũng thanh tịnh đây là tất cả công
đức lành thành tựu đầy đủ.
Trên đây là
mười hai pháp của bực cửu địa đại Bồ-Tát thành tựu đầy đủ.
Thế nào là đại
Bồ-Tát an trụ trong bực thập địa phải biết như Phật?
Này Tu Bồ Ðề!
Nếu đại Bồ-Tát đầy đủ sáu ba la mật, tứ niệm xứ nhẫn đến đầy đủ
mười tám pháp bất cộng và nhứt thiết chủng trí dứt tất cả phiền
não và tập khí, thời gọi là đại Bồ-Tát an trụ trong bực thập địa
phải biết là chư Phật.
Này Tu Bồ Ðề!
Ðại Bồ-Tát an trụ trong bực thập địa này dùng sức phương tiện để
thật hành sáu ba la mật, tứ niệm xứ nhẫn đến thật hành mười tám
pháp bất cộng, vượt qua bực càn huệ địa, bực tánh địa, bực bát
nhơn địa, bực kiến địa, bực bạc địa, bực ly dục địa, bực dĩ tác
địa, bực Bích Chi Phật địa, bực Bồ-Tát địa. Vượt qua chín bực trên
mà an trụ nơi Phật địa, đây là Bồ Tát thập địa.
Ðây gọi là đại
Bồ-Tát đại thừa phát thú.
|
|