|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN
THỨ BẢY
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM THẬP VÔ THỨ HAI MƯƠI LĂM
-
Ngài Tu Bồ Ðề thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Ðại
Bồ-Tát, tiền tế bất khả đắc, hậu tế bất khả đắc, trung tế bất khả
đắc.
Vì sắc thọ
tưởng hành thức vô biên đại Bồ-Tát cũng vô biên.
Sắc thọ tưởng
hành thức là đại Bồ-Tát, đây cũng là bất khả đắc.
Bạch đức
Thế-Tôn! Con sẽ dạy cho đại Bồ-Tát nào về Bát-Nhã ba la mật.
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát chỉ có danh tự. Như nói danh tự ngã, ngã rốt
ráo chẳng sanh. Như ngã các pháp cũng không tự tánh như vậy.
Những sắc gì
rốt ráo chẳng sanh? Những thọ tưởng hành thức rốt ráo gì chẳng
sanh?
Bạch đức
Thế-Tôn! Rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi là sắc. Rốt ráo chẳng
sanh thời chẳng gọi là thọ tưởng hành thức.
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu pháp rốt ráo chẳng sanh sẽ dạy Bát-Nhã ba la mật này
chăng? Rời pháp rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ-Tát thật hành
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu có Bồ-Tát
nghe lời nói này mà tâm chẳng trầm một chẳng ăn năn chẳng kinh hãi
chẳng sợ sệt, phải biết rằng đây là bực đại Bồ-Tát có thể thật
hành Bát-Nhã ba la mật.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi ngài Tu Bồ Ðề: "Nhơn duyên gì mà nói rằng đại Bồ-Tát,
tiền tế bất khả đắc, hậu tế bất khả đắc, trung tế bất khả đắc?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng vì sắc vô biên nên biết Bồ-Tát cũng vô biên. Vì thọ
tưởng hành thức vô biên nên biết Bồ-Tát cũng vô biên?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng sắc là Bồ-Tát đây cũng bất khả đắc; thọ tưởng hành
thức là Bồ-Tát đây cũng bất khả đắc?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng nơi tất cả thứ tất cả chỗ, Bồ-Tát đều bất khả đắc,
thời sẽ dạy những Bồ-Tát nào về Bát-Nhã ba la mật?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng Bồ-Tát chỉ có danh tự?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng như nói danh tự ngã, ngã rốt ráo chẳng sanh. Như ngã,
các pháp cũng không tự tánh như vậy. Những sắc gì rốt ráo chẳng
sanh, những thọ tưởng hành thức gì chẳng sanh?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là sắc, rốt ráo chẳng
sanh chẳng gọi là thọ tưởng hành thức?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng nếu pháp rốt ráo chẳng sanh sẽ dạy Bát-Nhã ba la mật
này chẳng sanh?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng rời pháp rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ-Tát thật
hành vô thượng chánh đẳng chánh giác?
Nhơn duyên gì
mà nói rằng nếu Bồ-Tát nghe lời nói này mà tâm chẳng trầm một
chẳng ăn năn chẳng kinh hãi chẳng sợ sệt thời gọi là bực đại
Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật?
Ngài Tu Bồ Ðề
trả lời ngài Xá Lợi Phất: "Vì chúng sanh vô sở hữu, nên Bồ-Tát
tiền tế bất khả đắc hậu tế bất khả đắc trung tế bất khả đắc. Vì
chúng sanh không, vì chúng snah ly nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì ngũ ấm tánh
vô sở hữu nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc. Vì lục ba la mật vô sở
hữu nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy?
Vì trong tánh không tiền tế bất khả đắc hậu tế bất khả đắc trung
tế bất khả đắc.
Tánh không
chẳng khác Bồ-Tát. Bô-Tát chẳng khác tiền tế.
Tánh không
cùng Bồ-Tát và tiền tế, ba pháp ấy không hai không khác. Vì nhơn
duyên này mà Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Vì sáu ba la mật rỗng không, vì sáu ba la mật rời lìa,
vì sáu ba la mật tánh không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy?
Vì trong tánh không, tiền tế bất khả đắc hậu tế bất kả đắc trung
tế bất khả đắc.
Tánh không
chẳng khác Bồ-Tát. Bồ-Tát chẳng khác tiền tế. Tánh không cùng
Bồ-Tát và tiền tế, ba pháp này không hai không khác. Do đây nên
Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Vì nội không đến vô pháp hữu pháp không là vô sở hữu là
rỗng không là rời lìa là tánh không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả
đắc.
Vì tứ niệm xứ
đến bất cộng pháp là vô sở hữu là rỗng không là rời lìa là tánh
không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy?
Vì trong tánh không tiền tế hậu tế và trung tế bất khả đắc. Tánh
không cùng Bồ-Tát và tiền tế không hai không khác. Do đây nên
Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Vì tất cả tam muội môn tất cả đà la ni môn là vô sở hữu
là rỗng không là rời lìa là tánh không có nên Bồ-Tát tiền tế bất
khả đắc.
Vì pháp tánh
pháp như thiệt tế bất khả tư nghì tánh là vô sở hữu là rỗng không
rời lìa tánh không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Vì Thanh Văn Bích Chi Phật, Phật đà là vô sở hữu rỗng
không rời lìa tánh không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Vì vô thượng
Bồ-Ðề nhứt thiết chủng trí là vô sở hữu rỗng không rời lìa tánh
không có nên Bồ-Tát tiền tế bất khả đắc.
Tại sao vậy?
Vì trong tánh không tiền tế hậu tế trung tế đều bất khả đắc,
Bồ-Tát cũng bất khả đắc.
Không chẳng
khác Bồ-Tát cũng chẳng khác tiền tế. Không cùng Bồ-Tát và tiền tế,
các pháp này không hai không khác. Do đây nên Bồ-Tát tiền tế bất
khả đắc.
Như tiền tế,
hậu tế và trung tế cũng vậy.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Sắc như hư không, thọ tưởng hành thức như hư không.
Tại sao vậy?
Như hư không, biên bờ và trung gian đều bất khả đắc. Vì không có
biên và trung gian nên chỉ gọi tên là hư không.
Cũng vậy, sắc
thọ tưởng hành thức, biên bờ và trung gian đều bất khả đắc. Vì sắc
rỗng không. Trong rỗng không cũng không có biên bờ không có trung
gian. Thọ tưởng hành thức cũng vậy.
Do nhơn duyên
này nên vì sắc vô biên mà biết Bồ-Tát cũng vô biên. Vì thọ tưởng
hành thức vô biên nên biết Bồ-Tát cũng vô biên. Nhẫn đến bất cộng
pháp cũng luận thuyết như vậy.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Sắc sắc tướng rỗng không, nhẫn đến thức thức tướng
rỗng không.
Ðàn na ba la
mật đàn na ba la mật tướng rỗng không, nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật
Bát-Nhã ba la mật tướng rỗng không.
Nội không nội
không tướng rỗng không, nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vô pháp
hữu pháp không tướng rỗng không.
Tứ niệm xứ tứ
niệm xứ tướng rỗng không, nhẫn đến bất cộng pháp bất cộng pháp
tướng rỗng không.
Pháp như pháp
như tướng rỗng không, nhẫn đến bất khả tư nghì tánh bất khả tư
nghì tánh tướng rỗng không.
Tam muội môn
tam muội môn tướng rỗng không, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí nhứt
thiết chủng trí tướng rỗng không.
Thanh Văn thừa
Thanh Văn thừa tướng rỗng không, nhẫn đến Phật tướng rỗng không.
Trong rỗng
không đó, sắc bất khả đắc, thọ tưởngÕ hành thức cũng bất khả đắc.
Do đây nên sắc là Bồ-Tát đây cũng bất khả đắc. Thọ tưởng hành thức
là Bồ-Tát đây cũng bất khả đắc.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Trong sắc, sắc bấtÕ khả đắc. Trong thọ, sắc bất khả
đắc. Trong thọ, thọ bất khả đắc. Trong sắc, thọ bất khả đắc. Trong
tưởng, thọ bất khả đắc. Trong tưởng, tưởng bất khả đắc. Trong sắc,
thọ tưởng bất khả đắc. Trong hành, tưởng bất khả đắc. Trong hành,
hành bất khả đắc.
Trong sắc thọ
tưởng, hành bất khả đắc. Trong thhức, hành bất khả đắc. Trong
thức, thức bất khả đắc. Trong sắc thọ tưởng hành, thức bất khả
đắc.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Trong nhãn, nhãn bất khả đắc. Trong nhĩ, nhãn bất khả
đắc. Trong nhĩ, nhĩ bất khả đắc. Trong nhãn, nhĩ bất khả đắc.
Trong tĩ, nhĩ bất khả đắc. Trong tĩ, tĩ bất khả đắc.
Trong nhãn nhĩ, tĩ bất khả đắc. Trong thiệt, tĩ bất khả đắc. Trong
thiệt, thiệt bất khả đắc. Trong thân, thân bất khả đắc. Trong nhãn
nhĩ tĩ thiệt, thân bất khả đắc. Trong ý, thân bất khả đắc. Trong
ý, ý bất khả đắc. Trong nhãn nhĩ tĩ thiệt thân, ý bất khả đắc.
Như ngũ ấm và
sáu căn, sáu trần sáu thức và sáu xúc cùng sáu xúc nhơn duyên sanh
thọ cũng vậy.
Ðàn na ba la
mật đến Bát-Nhã ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, tất cả tam muội môn đến tất
cả đà la ni môn, tánh pháp đến Bích Chi Phật pháp, sơ địa đến thập
địa, nhứt thiết trí đạo chủng trí và nhứt thiết trí cũng vậy.
Tu Ðà Hoàn đến
Phật cũng như vậy.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Trong Bồ-Tát, Bồ-Tát bất khả đắc. Trong Bát-Nhã ba la
mật, Bồ-Tát bất khả đắc. Trong Bát-Nhã ba la mật, Bát-Nhã ba la
mật bất khả đắc. Trong Bồ-Tát, Bát-Nhã ba la mật bất khả đắc.
Trong Bát-Nhã ba la mật, giáo hoá vô sở hữu bất khả đắc. Trong
giáo hóa, giáo hóa vô sở hữu bất khả đắc. Trong giáo hóa, Bồ-Tát
và Bát-Nhã ba la mật vô sở hữu bất khả đắc.
Tất cả pháp vô
sở hữu bất khả đắc như vậy. Do nhơn duyên này nên trong tất cả thứ
tất cả chỗ, Bồ-Tát bất khả đắc. Thời sẽ dạy những Bồ-Tát nào về
Bát-Nhã ba la mật!
Lại này ngài Xá Lợi Phất! Sắc là giả danh. Thọ tưởng hành thức là
giả danh. Sắc gọi là chẳng phải sắc, nhẫn đến thức gọi là chẳng
phải thức.
Tại sao vậy?
Vì danh danh tướng rỗng không. Nếu rỗng không thời chẳng phải là
Bồ-Tát. Do nhơn duyên này nên Bồ-Tát chỉ có giả danh.
Này ngài Xá
Lợi Phất! Ðàn na ba la mật chỉ có danh tự. Trong danh tự chẳng
phải có đàn na ba la mật. Trong đàn na ba la mật chẳng phải có
danh tự. Do nhơn duyên này nên Bồ-Tát chỉ có giả danh.
Như đàn na ba
la mật, năm ba la mật kia cũng vậy.
Như lục ba la
mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến bất cộng
pháp, tam muội môn đế nđà la ni môn đến nhứt thiết chủng trí cũng
vậy. Do đây nên Bồ-Tát chỉ có giả danh.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Ngã rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh. Nhẫn
đến tri giả kiến giả rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Sắc đến thức
rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Nhãn đến ý xúc
nhơn duyên sanh thọ rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Ðàn na ba la
mật đến Bát-Nhã ba la mật rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có
sanh.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Tam muội môn
đến nhứt thiết chủng trí rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Thanh Văn đến
Phật rốt ráo bất khả đắc thời thế nào có sanh.
Do nhơn duyên
này nên nói rằng như ngã, danh tự ngã cũng rốt ráo chẳng sanh.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Vì các pháp hòa hiệp sanh nên không có tự tánh.
Những gì hòa
hiệp sanh nên không tự tánh?
Sắc hòa hiệp
sanh nên không tự tánh.
Thọ tưởng hành
thức hòa hiệp sanh nên không tự tánh.
Nhãn đến ý xúc
nhơn duyên sanh thọ hòa hiệp sanh nên không tự tánh.
Ðàn na ba la
mật đến Bát-Nhã ba la mật hòa hiệp sanh nên không tự tánh.
Tứ niệm xứ đến
bất cộng pháp hòa hiệp sanh nên không tự tánh.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Tất cả pháp vô thường cũng không mất.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Những pháp nào vô thường cũng không mất?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc vô thường cũng không mất. Thọ tưởng hành thức vô thường
cũng không mất.
Tại sao vậy?
Vì nếu pháp vô thường thời là tướng lay động tướng rỗng không. Do
đây nên tất cả pháp hữu vi vô thường cũng không mất.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu ký
hoặc pháp vô ký, là pháp vô thường cũng không mất.
Tại sao vậy?
Vì nếu pháp vô thường thời là tướng lay động là tướng rỗng không.
Do đây nên tất cả pháp có tạo tác vô thường cũng không mất.
Lại này ngài
Xá Lợi Phất! Tất cả pháp chẳng phải thường chẳng phải diệt.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Những pháp nào chẳng phải thường chẳng phải diệt?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc chẳng phải thường chẳng phải diệt, thọ tưởng hành thức
chẳng phải thường chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như
vậy. Nhẫn đến ý xúc nhơn duyên sanh thọ chẳng phải thường chẳng
phải diệt. Tại sao vậy? Vì tánh tự như vậy.
Do những nhơn
duyên trên đây, nên các pháp hòa hiệp sanh không có tự tánh.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do duyên cớ gì mà sắc đến thức rốt ráo chẳng sanh?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc đến thức chẳng phải pháp tạo tác. Vì tác giả bất khả
đắc.
Tất cả pháp
đều chẳng phải khởi chẳng phải tác, vì tác giả bất khả đắc.
Do đây nên sắc
đến thức rốt ráo bất sanh.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: Do nhơn duyên gì mà rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là sắc
đến thức?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: Sắc tánh rỗng không. Rỗng không này không có sanh không có
diệt không có trụ không có dị. Thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Nhãn đến ý xúc
nhơn duyên sanh thọ cùng tất cả pháp hữu vi tánh rỗng không. Rỗng
không này không có sanh diệt trụ dị.
Do đây nên rốt
ráo chẳng sanh chẳng gọi là sắc. Rốt ráo chẳng sanh chẳng gọi là
thọ tưởng hành thức.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Pháp rốt ráo chẳng sanh, nên dạy Bát-Nhã ba la mật này
chăng?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Rốt ráo chẳng sanh chính là Bát-Nhã ba la mật. Bát-Nhã ba
la mật chính là rốt ráo chẳng sanh. Bát-Nhã ba la mật cùng rốt ráo
chẳng sanh không hai không khác. Do đây nên nói rằng rốt ráo chẳng
sanh, nên dạy Bát-Nhã ba la mật này chăng.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà rời lìa rốt ráo chẳng sanh thời
không Bồ-Tát thật hành vô thượng chánh đẳng chánh giác?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðại Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng thấy rốt
ráo chẳng sanh khác với Bát-Nhã ba la mật, cũng chẳng thấy rốt ráo
chẳng sanh khác với Bồ-Tát. Rốt ráo chẳng sanh với Bồ-Tát không
hai không khác.
Chẳng thấy rốt
ráo chẳng sanh khác với sắc, vì rốt ráo chẳng sanh với sắc không
hai không khác.
Chẳng thấy rốt
ráo chẳng sanh khác với thọ tưởng hành thức, vì rốt ráo chẳng
sanh với thọ tưởng hành thức không hai không khác. Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí cũng như vậy.
Do đây nên rời
lìa rốt ráo chẳng sanh không có Bồ-Tát thật hành vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà Bồ-Tát nghe thuyết trên đây tâm
chẳng trầm một chẳng ăn năn chẳng kinh hãi chẳng sợ sệt, thời gọi
là Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã Bát-Nhã ba la mật?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðại Bồ-Tát chẳng thấy các pháp có giác tri tưởng. Ðại Bồ-Tát
thấy tất cả các pháp như mộng như hưởng như ảnh như ảo như diệm
như hóa. Do đây nên nghe thuyết trên đây, Bồ-Tát tâm chẳng trầm
một chẳng ăn năn chẳng kinh hãi chẳng sợ sệt.
Bấy giờ ngài
Tu Bồ Ðề bạch Phật: "Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la
mật quán sát các pháp như vậy. Lúc ấy đại Bồ-Tát chẳng lãnh thọ
sắc chẳng hiển thị sắc chẳng an trụ sắc chẳng chấp trước sắc, cũng
chẳng nói là sắc. Với thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Với nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý chẳng thọ chẳng thị chẳng trụ chẳng
trước, cũng chẳng nói là nhãn đến ý.
Với đàn na ba
la mật đến Bát-Nhã ba la mật, chẳng lãnh thọ chẳng hiển thị chẳng
an trụ chẳng chấp trước, cũng chẳng nói đàn na ba la mật đến
Bát-Nhã ba la mật.
Với nội không
đến vô pháp hữu pháp không, chẳng lãnh thọ chẳng hiển thị chẳng an
trụ chẳng chấp trước, cũng chẳng nói là nội không đến vô pháp hữu
pháp không.
Lúc thật hành
Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát đối với tứ niệm xứ đến bất cộng pháp
đến nhứt thiết chủng trí, chẳng lãnh thọ chẳng hiển thị chẳng an
trụ chẳng chấp trước.
Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng thấy
sắc nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết chủng trí.
Tại sao vậy?
Sắc chẳng sanh thời chẳng phải sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng sanh
thời chẳng phải thọ tưởng hành thức.
Nhãn chẳng
sanh thời chẳng phải nhãn. Nhĩ tĩ thiệt thân ý chẳng sanh thời
chẳng phải nhĩ tĩ thiệt thân ý.
Ðàn na ba la
mật nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật chẳng sanh thời chẳng phải đàn na
ba la mật đến chẳng phải Bát-Nhã ba la mật.
Nội không đến
vô pháp hữu pháp không chẳng sanh thời chẳng phải nội không đến
chẳng phải vô pháp hữu pháp không.
Tại sao vậy?
Sắc chẳng sanh thời chẳng hai chẳng khác. Nhẫn đến vô pháp hữu
pháp không chẳng sanh thời chẳng hai chẳng khác.
Bạch đức
Thế-Tôn! Tứ niệm xứ chẳng sanh thời chẳng phải tứ niệm xứ. Nhẫn
đến bất cộng pháp chẳng sanh thời chẳng phải bất cộng pháp.
Pháp như pháp
tánh đến bất khả tư nghì tánh chẳng sanh thời chẳng phải pháp như
đến chẳng phải bất khả tư nghì tánh. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí
chẳng sanh thời chẳng phải nhứt thiết chủng trí.
Tại sao vậy?
Tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí chẳng sanh thời chẳng hai
chẳng khác. Bất sanh đây chẳng phải một chẳng phải hai ba chẳng
phải sai khác. Thế nên pháp ấy chẳng sanh thời chẳng phải pháp ấy.
Bạch đức
Thế-Tôn! Sắc tướng chẳng diệt thời chẳng phải sắc.
Tại sao vậy?
Sắc và tướng chẳng diệt chẳng hai chẳng khác. Vì pháp chẳng diệt
này chẳng phải một chẳng phải hai ba chẳng phải sai khác. Thế nên
sắc tướng chẳng diệt thời chẳng phải sắc.
Như sắc, thọ
tưởng hành thức nhẫn đến bất cộng pháp cũng vậy.
Do đây nên sắc
vào trong pháp số vô nhị, thọ tưởng hành thức vào trong pháp số vô
nhị, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí vào trong pháp số vô nhị.
-
|
|