|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ TÁM
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM VÔ SANH THỨ HAI MƯƠI SÁU
Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Ðề:
"Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật quán các pháp.
Những gì là
Bồ-Tát? Những gì là Bát-Nhã ba la mật? Những gì là quán?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vì vô thượng chánh đẳng chánh giác phát đại tâm người này
gọi là Bồ-Tát. Người này cũng biết tất cả pháp tất cả tướng mà
chẳng chấp trước, biết tướng của sắc nhẫn đến biết tướng của bất
cộng pháp cũng chẳng chấp trước.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Những gì là tất cả pháp tướng?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Nếu dùng danh tự nhơn duyên hòa hiệp vân vân để biết các
pháp, đây là sắc, đây là thanh hương vị xúc pháp, là pháp hữu vi,
là pháp vô vi. Dùng tướng danh tự ngữ ngôn để biết các pháp thời
gọi là biết các pháp tướng.
Như lời Xá Lợi
Phất hỏi những gì là Bát-Nhã ba la mật? Vì viễn ly nên gọi là
Bát-Nhã ba la mật.
Những pháp gì
viễn ly? Viễn ly ấm giới nhập. Viễn ly ba la mật. Viễn ly không.
Do đây nên viễn ly gọi là Bát-Nhã ba la mật.
Lại viễn ly tứ
niệm xứ đến viễn ly mười tám pháp bất cộng, viễn ly nhứt thiết
trí. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-Nhã ba la mật.
Những gì là
quán? Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát quán sắc chẳng
phải tường chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc chẳng phải khổ,
chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải không chẳng phải bất
không, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác chẳng
phảỉ vô tác, chẳng phải tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt,
chẳng phải ly chẳng phảỉ chẳng ly. Thọ tưởng hành thức cũng như
vậy. Ðàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật, nội không đến vô pháp
hữu pháp không, tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, tất cả môn tam muội
đến nhứt thiết chủng trí cũng như vậy. Ðây gọi là đại Bồ-Tát lúc
thật hành Bát-Nhã ba la mật quán các pháp.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc,
nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng sanh chẳng phải nhứt thiết
chủng trí?
Ngài Tu Bôò Ðề
nói: "Sắc sắc tướng rỗng không. Trong sắc không ấy không có sắc
cũng không có sanh, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như vậy. Do
đây nên sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí chẳng sanh là chẳng phải nhứt thiết chủng trí.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà nói rằng sắc chẳng hai là chẳng
phải sắc, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng hai chẳng phải là
nhứt thiết chủng trí?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Có sắc là có chẳng hai, nhẫn đến có nhứt thiết chủng trí là
có chẳng hai. Tất cả những pháp này đều chẳng hiệp chẳng tan không
sắc không hình không đối một tướng, tức là không có tướng. Do đây
nên sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí
chẳng hai là chẳng phải nhứt thiết chủng trí.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà nói rằng sắc này vào trong pháp số
vô nhị, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí vào trong pháp số vô nhị?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc. Sắc tức là
vô sanh, vô sanh tức là sắc. Do đây nên sắc vào trong pháp số vô
nhị. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như vậy.
Bấy giờ ngài
Tu Bồ Ðề bạch Phật: "Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba
la mật quán các pháp như vậy thời thấy sắc vô sanh, vì rốt ráo
tịnh vậy. Thấy thọ tưởng hành thức vô sanh vì rốt ráo tịnh vậy.
Nhẫn đếnt hấy Phật và Phật pháp vô sanh vì rốt ráo tịnh vậy.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Cứ theo nghĩa của Tu Bồ Ðề nói mà tôi được nghe thời
sắc là chẳng sanh, thọ tưởng hành thức là chẳng sanh, nhẫn đến
Phật và Phật pháp là chẳng sanh.
Nếu như vậy
thời lẽ ra nay chẳng nên được Tu Ðà Hoàn tu đà hoàn quả, Tư Ðà Hàm
tư đà hàm quả, A Na Hàm a na hàm quả, A La Hán a la hán quả, Bích
Chi Phật bích chi Phật đạo, chẳng nên được đại Bồ-Tát nhứt thiết
chủng trí, cũng không có lục đạo chúng sanh sai khác, cũng chẳng
nên được đại Bồ-Tát năm thứ bồ đề.
Này Tu Bồ Ðề!
Nếu tất cả pháp là tướng chẳng sanh, cớ chi Tu Ðà Hoàn tu đạo đế
để dứt ba kiết sử? Tư Ðà Hàm tu đạo đế để làm mỏng tham sân si? A
Na Hàm tu đạo đế để dứt năm hạ phần kiết sử? A La hán tu đạo đế để
dứt năm thượng phần kiết sử? Bích Chi Phật vì pháp Bích Chi Phật
mà tu đạo đế? Cớ chi đại Bồ-Tát vì thọ khổ thay chúng sanh mà làm
những việc khó làm? Cớ chi Phật chứng vô thượng bồ đề? Cớ chi Phật
chuyển pháp luân?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tôi chẳng muốn cho pháp vô sanh có sở đắc. Tôi cũng chẳng
muốn cho trong pháp vô sanh có được Tu Ðà Hoàn và Tu Ðà Hoàn quả,
nhẫn đến có được Bích Chi Phật và Bích Chi Phật đạo. Tôi cũng
chẳng muốn trong pháp vô sanh có Bồ-Tát làm việc khó làm để thay
khổ cho chúng sanh, Bồ-Tát cũng chẳng dùng tâm khó làlm để hành
đạo.
Tại sao vậy?
Vì nếu sanh tâm khó tâm khổ thời chiẳng thể lợi ích cho vô lượng
vô số chúng sanh.
Này Xá Lợi
Phất! Nay đây Bồ-Tát thương xót chúng sanh. Với chúng sanh, Bồ-Tát
tưởng như cha mẹ anh em con cháu, cũng tưởng như thân mình. Thế
nên Bồ-Tát có thể lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, vì pháp dụng
vô sở đắc vậy.
Bồ-Tát nên
sanh tâm như thế này: như ngã bất khả đắc, nơi tất cả thứ tất cả
chỗ, nội pháp ngoại pháp cũng vậy, đều bất khả đắc. Nếu sanh tâm
như trên đây thời Bồ-Tát không có tâm khó tâm khổ. Tại sao vậy? Vì
Bồ-Tát này nơi tất cả thứ tất cả chỗ tất cả pháp đều chẳng lãnh
thọ.
Này Xá Lợi
Phất! Tôi cũng chẳng muốn cho trong vô sanh có Phật chứng vô
thượng bồ đề, trong vô sanh có chuyển pháp luân, tôi cũng chẳng
muốn dùng pháp vô sanh để đắc đạo.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Nay Tu Bồ Ðề muốn khiến dùng pháp sanh đắc đạo hay là
dùng pháp vô sanh đắc đạo?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tôi chẳng muốn khiến dùng pháp sanh để đắc đạo.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Vậy thời Tu Bồ Ðề muốn khiến dùng pháp vô sanh đắc đạo?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tôi cũng chẳng muốn khiến dùng pháp vô sanh đắc đạo.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Như lời Tu Bồ Ðề nói thời là vô tri vô đắc.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Có tri có đắc không phải hai pháp. Nay theo danh tự thế gian
nên có tri có đắc. Theo danh tự thế gian nên có Tu Ðà Hoàn đến có
chư Phật.
Trong đệ nhứt
nghĩa đế thời vô tri vô đắc, cũng không Tu Ðà Hoàn đến không chư
Phật.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Nếu theo danh tự thế gian nên có tri có đắc, thời sáu
loài sai khác cũng do danh tự thế gian mà có, chẳng phải là đệ
nhứt nghĩa đế.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðúng như vậy. Theo danh tự thế gian nên có tri có đắc. Sáu
loài sai khác cũng do danh tự thế gian mà có, chẳng phải là đệ
nhứt nghĩa đế.
Tại sao vậy?
Vì trong đệ nhứt nghĩa đế không có nghiệp, không có báo, không có
sanh, không có diệt, không có tịnh, không có cấu.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Pháp chẳng sanh sanh chăng? Pháp sanh sanh chăng?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tôi chẳng muốn khiến pháp chẳng sanh sanh, cũng chẳng muốn
khiến pháp sanh sanh.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Pháp chẳng sanh nào không muốn khiến sanh?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng muốn
khiến sanh. Nhẫn đến vô thượng bồ đề là pháp chẳng sanh, tự tánh
nó rỗng không chẳng muốn khiến sanh.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Sanh sanh hay chẳng sanh sanh?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Chẳng phải sanh sanh, cũng chẳng phải chẳng sanh sanh.
Tại sao vậy?
Vì sanh và chẳng sanh là hai pháp chẳng hiệp chẳng tankhông sắc
không hình không đối một tướng tức là không có tướng. Do đây nên
chẳng phải sanh sanh cũng chẳng phải chẳng sanh sanh.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Tu Bồ Ðề khéo thích nói pháp vô sanh và tướng vô sanh.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tôi thích nói pháp vô sanh và tướng vô sanh.
Tại sao vậy?
Vì những pháp vô sanh tướng vô sanh và những lời thích nói đều
chẳng hiệp chẳng tan không sắc không hình không đối một tướng, tức
là không có tướng.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Tu Bồ Ðề thích nói pháp chẳng sanh cũng thích nói
tướng chẳng sanh, những lời thích nói này cũng chẳng sanh.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: Ðúng như vậy. Vì sắc chẳng sanh nhẫn đến nhứt thiết chủng trí
chẳng sanh. Do đây nên tôi thích nói pháp chẳng sanh cũng thích
nói tướng chẳng sanh, lời thích nói này cũng chẳng sanh.
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Trong những người thuyết pháp, Tu Bồ Ðề đáng là người
trên hết. Vì có hỏi điều chi, Tu Bồ Ðề đều đáp được cả.
Tu Bồ Ðề nói:
"Vì các pháp không có sở y vậy.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Thế nào là các pháp không có sở y?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc tánh thường không, chẳng y tựa trong chẳng y tựa ngoài
chẳng y tựa trung gian. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí tánh thường
không, chẳng y tựa trong chẳng y tựa ngoài chẳng y tựa trung gian.
Do đây nên tất cả pháp không chỗ y tựa, vì tánh thường không vậy.
Này Xá Lợi
Phất! Thế nên đại Bồ-Tát lúc thật hành sáu môn ba la mật phải tịnh
sắc thọ tưởng hành thức, nhẫn đến phải tịnh nhứt thiết chủng trí.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Thế nào đại Bô-Tát lúc thật hành sáu môn ba la mật tịnh
Bồ-Tát đạo?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Có thế gian đàn na ba la mật. Có xuất thế gian đàn na ba la
mật. Năm ba la mật kia cũng đều có thế gian và có xuất thế gian.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Thế nào là thế gian đàn na ba la mật? Thế nào là xuất
thế gian đàn na ba la mật?
Ngài Tu Bôò Ðề
nói: "Nếu đại Bồ-Tát làm thí chủ có thể bố thí cho sa môn bà la
môn và người nghèo cùng đi xin: cần ăn cho ăn, cần uống cho uống,
cần mặc cho mặc, cần chỗ ở cho chỗ ở, cần tiền bạc châu báu hoa
hương cho tiền bạc châu báu hoa hương, cần thuốc men cho thuốc
men, tất cả thứ cần dùng đều cấp cho.
Lúc bố thí,
Bồ-Tát nghĩ rằng tôi cho họ nhận, tôi chẳng bỏn xẻn tham lam, tôi
là thí chủ, tôi có thể thí xả tất cả, tôi y theo lời Phật dạy mà
thật hành đàn na ba la mật.
Bố thí xong
Bồ-Tát dùng pháp đã được cùng chung với tất cả chúng sanh hồi
hướng vô thượng bồ đề mà nghĩ rằng nhơn duyên bố thí này khiến
chúng sanh được sự an lạc đời nay, về sau khiến họ được sự an lạc
nhập Niết Bàn.
Này Xá Lợi
Phất! Bồ-tát này bố thí có ba điều chướng ngại: một là ngã tướng,
hai là tha tướng, ba là thí tướng. Vì bố thí mà có ba tướng này
nên gọi là thế gian đàn na ba la mật.
Tại sao gọi là
thế gian? Vì ở trong thế gian chẳng động dời chẳng siêu xuất vậy.
Này Xá Lợi
Phất! Thế nào gọi là xuất thế gian đàn na ba la mật? Chính là ba
phần thanh tịnh vậy.
Những gì là
ba? Lúc bố thí Bồ-Tát chẳng thấy có mình, chẳng thấy có người
nhận, chẳng thấy có vật bố thí, cũng chẳng trông mong báo đáp. Ðây
gọi là đại Bồ-Tát ba phần thanh tịnh đàn na ba la mật.
Lại lúc bố
thí, đại Bồ-Tát bố thí cho tất cả chúng sanh mà không thấy có
chúng sanh, đem sự bố thí này hồi hướng vô thượng bồ đề nhẫn đến
không thấy có pháp tướng vi tế.
Ðây gọi là
xuất thế gian đàn na ba la mật.
Tại sao gọi là
xuất thế gian? Vì ở trong thế gian có thể động dời có thể siêu
xuất vậy.
Năm môn ba la
mật kia nếu có sở y thời gọi là thế gian, nếu không sở y thời gọi
là xuất thế gian, ngoài ra như đã giải nói về đàn na ba la mật.
Lúc thật hành
sáu môn ba la mật, đại Bồ-Tát tịnh Bồ-Tát đạo như vậy.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Thế nào là đại Bồ-Tát vì đạo vô thượng bồ đề?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Tứ niệm xứ là đại Bồ-Tát vì đạo vô thượng bồ đề, nhẫn đến
bát thánh đạo phần, giải thoát môn, nội không đến vô pháp hữu pháp
không, tất cả tam muội môn và đà la ni môn, thập lực, tứ vô sở úy,
tứ vô ngại trí, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, đây gọi là
đại Bồ-Tát vì đạo vô thượng bồ đề.
Ngài Xá Lợi
Phất khen: "Lành thay, lành thay!
Này Tu Bồ Ðề!
Gì là ba la mật lực?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Là Bát-Nhã ba la mật lực. Vìi Bát-Nhã ba la mật sanh hay
sanh tất cả pháp lành của Thanh Văn Bích Chi Phật Bồ-Tát và Phật.
Bát-Nhã ba la
mật hay nạp thọ tất cả pháp lành, hoặc pháp Thanh Văn pháp Bích
Chi Phật, hoặc pháp Bồ-Tát và Phật pháp.
Này Xá Lợi
Phất! Quá khứ chư Phật thật hành Bát-Nhã ba la mật được vô thượng
bồ đề. Vị lai chư Phật cũng thật hành Bát-Nhã ba la mật sẽ được vô
thượng bồ đề. Hiện tại nay, chư Phật trong các quốc độ mười phương
cũng thật hành Bát-Nhã ba la mật được vô thượng bồ đề.
Nếu lúc nghe
nói Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nghi ngờ chẳng cho là khó,
thời nên biết đại Bồ-Tát này thật hành Bồ-Tát đạo.
Người thật
hành Bồ-Tát đạo vì cứu tất cả chúng sanh nên tâm chẳng rời bỏ tất
cả chúng sanh, bỡi vô sở đắc vậy.
Bồ-Tát phải
thường chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm.
Ngài Xá Lợi
Phất lại hỏi: Muốn khiến đại Bồ-Tát thường chẳng rời niệm này:
chính là đại bi niệm. Nếu đại Bồ-Tát thường chẳng rời đại bi niệm,
thời nay đây tất cả chúng sanh sẽ làm Bồ-Tát. Vì tất cả chúng sanh
cũng chẳng rời các niệm vậy.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: Lành thay, lành thay! Xá Lợi Phất muốn chất vấn tôi mà trở
thành nghĩa của tôi.
Tại sao vậy?
Vì chúng sanh không có nên niệm cũng không. Vì chúng sanh tánh
không có nên niệm tánh cũng không. Vì chúng sanh pháp không có nên
niệm pháp cũng không. Vì chúng sanh ly nên niệm cũng ly. Vì chúng
sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Vì chúng sanh bất khả
tri nên niệm cũng bất khả tri.
Này ngài Xá Lợi
Phất! Vì sắc không có nên niệm cũng không. Vì sắc tánh không nên
niệm tánh cũng không. Vì sắc pháp không có nên niệm pháp cũng
không. Vì sắc ly nên niệm cũng ly. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng
rỗng không. Vì sắc bất khả tri nên niệm cũng bất khả tri. Nhẫn đến
vô thượng bồ đề cũng như vậy.
Này Xá Lợi
Phất! Ðại Bồ-Tát thật hành Bồ-Tát đạo, tôi muốn khiến chẳng rời
niệm này: chính là đại bi niệm.
Bấy giờ đức
Phật khen: "Lành thay, lành thay! Ðây chính là Bát-Nhã ba la mật
của đại Bồ-Tát. Ai muốn nói thời phải nói như vậy.
Tu Bồ Ðề nói
về Bát-Nhã ba la mật đều là tuân thừa ý của Phật. Ðại Bồ-Tát học
Bát-Nhã ba la mật phải học như lời Tu Bồ Ðề nói.
Lúc ngài Tu Bồ
Ðề nói phẩm Bát-Nhã ba la mật, cõi đại thiên chấn động sáu cách.
Bấy giờ đức
Phật mỉm cười.
Ngài Tu Bồ Ðề
bạch hỏi duyên do.
Ðức Phật nói:
"Này Tu Bồ Ðề! Như ta nói Bát-Nhã ba la mật tại quốc độ này, mười
phương trong vô lượng vô số quốc độ, chư Phật cũng nói Bát-Nhã ba
la mật như vậy.
Lúc đức Phật
nói phẩm Bát-Nhã ba la mật, có mười hai na do tha nhơn thiên được
vô sanh pháp nhẫn.
Lúc mười
phương chư Phật nói Bát-Nhã ba la mật cũng có vô lượng vô số chúng
sanh phát tâm vô thượng bồ đề.
|
|