|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ TÁM
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM THIÊN VƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
Bấy giờ trong Ðại Thiên thế giới, chư vị Tứ
Thiên Vương Thiên cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên đồng đến pháp
hội.
Chư vị Ðao Lợi
Thiên Vương cùng vô số trăm mngàn ức chư Thiên, chư vị Dạ Ma Thiên
Vương cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên, chư vị Ðâu Xuất Thiên
Vương cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên, chư vị Hóa Lạc Thiên
Vương cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên, chư vị Tự Tại Thiên Vương
cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên, chư vị Phạm Thiên Vương nhẫn
đến Ðại Tự Tại Thiên Vương cùng vô số trăm ngàn ức chư thiên đồng
đến pháp hội.
Thân quang
minh do nghiệp báo sanh của chư vị Tứ Thiên Vương nhẫn đến chư vị
Ðại Tự Tại Thiên so với thường quang của đức Phật không bằng một
phần muôn ức, ở bên Phật chẳng khác nào cột cháy nám sánh với đống
vàng diêm phù đàn.
Thích Ðề Hoàn
Nhơn, vị Thiên Vương cõi trời Ðao Lợi bạch ngài Tu Bồ Ðề: "Chư vị
Thiên Vương đây cùng hòa hiệp đều muốn nghe đại đức Tu Bồ Ðề nói
Bát-Nhã ba la mật.
Bạch ngài Tu
Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát nên an trụ trong Bát-Nhã ba la mật thế nào?
Những gì là Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát? Thế nào đại Bồ-Tát
thật hành Bát-Nhã ba la mật?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Tôi sẽ thừa thuận ý của đức Phật và nương
thần lực của đức Phật mà nói Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát, như
chỗ chư đại Bồ-Tát an trụ trong Bát-Nhã ba la mật.
Nay chư thiên
tử nào chưa phát tâm vô thượng bồ đề thời nên phát tâm. Người nào
nhập chánh vị Thanh văn thời chẳng thể phát tâm vô thượng bồ đề.
Tại sao vậy? Vì chướng cách với sanh tử vậy.
Người này nếu
phát bồ đề tâm, tôi cũng tùy hỉ. Vì bực thượng nhơn phải nên lại
cầu thượng pháp. Tôi trọn không dứt tuyệt công đức của họ.
Này Kiều Thi
Ca! Gì là Bát-Nhã ba la mật?
Ðại Bồ-Tát
đúng với tâm nhứt thiết trí để tư niệm sắc là vô thường là khổ là
không là vô ngã. Tư niệm sắc như bịnh như mụn nhọt vỡ bể, như mũi
tên ghim vào thân, làm cho đau đớn suy hoại lo sợ chẳng an, vì vô
sở đắc vậy.
Tư niệm thọ
tưởng hành thức đến địa thủy hỏa phong không thức sáu đại chủng
cũng như vậy, vì đều vô sở đắc cả.
Bồ-Tát lại
quán sắc đến thức chủng là tịch diệt là ly là bất sanh là bất diệt
là bất cấu là bất tịnh, vì vô sở đắc vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát đúng với tâm nhứt thiết trí quán vô minh duyên
ra các hành nhẫn đến lão tử nhơn duyên tụ tập những sự khổ lớn, vì
cũng vô sở đắc vậy.
Ðại Bồ-Tát
quán vì vô minh diệt nên các hành diệt, nhẫn đến vì sanh diệt nên
lão tử diệt. Vì lão tử diệt nên nhóm khổ lớn ưu bi khổ não cũng
diệt, vì vô sở đắc vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát đúng với tâm nhứt thiết trí tu tứ niệm xứ, vì
vô sở đắc vậy. Nhẫn đến tu mười tám pháp bất cộng, vì vô sở đắc
vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát đúng với tâm nhứt thiết trí thật hành đàn na ba
la mật đến thiền na ba la mật, vì vô sở đắc vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát quán như vầy:
Chỉ có các pháp và các pháp làm nhơn duyên cho nhau mà có nhuận
ích tăng trưởng phân biệt so tính, trong đây không có ngã và ngã
sở.
Tâm hồi hướng
của Bồ-Tát chẳng ở trong tâm vô thượng bồ đề, tâm bồ đề chẳng ở
trong tâm hồi hướng.
Ở trong tâm vô
thượng bồ đề, tâm hồi hướng bất khả đắc.
Ở trong tâm
hồi hướng, tâm bồ đề bất khả đắc.
Ðại Bồ-Tát dầu
quán tất cả pháp nhưng cũng không có pháp bất khả đắc.
Ðây gọi là
Bát-NhãÕ ba la mật của đại Bồ-Tát.
Thích Ðề Hoàn
Nhơn hỏi ngài Tu Bồ Ðề: "Thế nào là tâm hồi hướng của Bồ-Tát chẳng
ở trong tâm vô thượng bồ đề, nhẫn đến ở trong tâm hồi hướng, tâm
vô thượng bồ đề bất khả đắc.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Tâm hồi hướng và tâm vô thượng bồ đề chẳng
phải tâm là chẳng phải tâm tướng.
Trong chẳng
phải tâm tướng chẳng hồi hướng được. Chẳng phải tâm tướngnày
thường chẳng phải tâm tướng. Bất khả tư nghì tướng thường bất khả
tư nghì tướng. Ðây gọi là Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát.
Ðức Phật khen:
"Lành thay, lành thay! Tu Bồ Ðề vì chư đại Bồ-Tát mà nói Bát-Nhã
ba la mật, an ổn tâm của đại Bồ-Tát.
Ngài Tu Bồ Ðề
bạch Phật: "Thế-Tôn! Con phải báo ân.
Thuở quá khứ
chư Phật và các đệ tử vì hàng đại Bồ-Tát nói sáu ba la mật dạy bảo
lợi ích vui mừng. Lúc ấy đức Thế-Tôn cũng có nơi đó học được vô
thượng bồ đề.
Hôm nay con
cũng phải vì hàng Bồ-Tát nói sáu ba la mật dạy bảo lợi ích vui
mừng cho họ được vô thượng bồ đề.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói với Thích Ðề Hoàn Nhơn: "Này Kiều Thi Ca! Nay ngài nên nghe
chỗ nên an trụ cùng chỗ chẳng nên an trụ trong Bát-Nhã ba la mật
của đại Bồ-Tát.
Này Kiều Thi
Ca! Sắc sắc rỗng không, đến thức thức rỗng không, Bồ-Tát Bồ-Tát
rỗng không.
Sắc không và
Bồ-Tát-không này chẳng hai chẳng khác, đến thức không và Bồ-Tát
không chẳng hai chẳng khác.
Này Kiều Thi
Ca! Trong Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát nên an trụ như vậy.
Lại nhãn nhãn
rỗng không, đến ý ý rỗng không, Bồ-Tát Bồ-Tát rỗng không.
Nhãn không
nhẫn đến Bồ-Tát-không chẳng hai chẳng khác.
Lục trần sắc
đến pháp, lục đại địa đại đến thức đại thức đại rỗng không, Bồ-Tát
rỗng không.
Thức đại không
và Bồ-Tát-không chẳng hai chẳng khác.
Vô minh vô
minh rỗng không đến lão tử lão tử rỗng không. Vô minh diệt vô minh
diệt rỗng không đến lão tử diệt lão tử diệt rỗng không, Bồ-Tát
Bồ-Tát rỗng không.
Vô minh không
đến lão tử diệt không và Bồ-Tát-không chẳng hai chẳng khác.
Này Kiều Thi
Ca! Trong Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát phải an trụ như vậy.
Lại đàn na ba la mật đến nhứt thiết chủng trí nhứt thiết chủng trí
rỗng không, Bồ-Tát Bồ-Tát rỗng không.
Nhứt thiết
chủng trí không và Bồ-Tát-không chẳng hai chẳng khác.
Này Kiều Thi
Ca! Trong Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát phải an trụ như vậy.
Thế nào trong
Bát-Nhã ba la mật chỗ chẳng nên an trụ?
Này Kiều Thi
Ca! Ðại Bồ-Tát chẳng nên an trụ trong sắc thọ tưởng hành thức, vì
có sở đắc vậy. Chẳng nên an trụ trong nhãn đến ý. Chẳng nên an trụ
trong sắc đến pháp. Chẳng nênan trụ trong nhãn thức đến ý thức.
Chẳng nên an trụ trong nhãn xúc nhơn duyên sanh thọ đến ý xúc nhơn
duyên sanh thọ, vì có sở đắc vậy.
Chẳng nên an
trụ trong đàn na ba la mật đến nhứt thiết chủng trí, vì có sở đắc
vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát đối với sắc là thường sắc là vô thường,, sắc là
lạc sắc là khổ, sắc là tịnh sắc là bất tịnh, sắc là ngã sắc là vô
ngã, sắc là không sắc là bất không, sắc là ly sắc là chẳng ly, đều
chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy. Như với sắc, với thọ tưởng
hành thức cũng vậy.
Lại này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát đối với vô vi tướng và phước điền của quả Tu Ðà
Hoàn nhẫn đến của Phật đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Ðại Bồ-Tát
trong sơ địa đến trong thập địa đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc
vậy.
Ở trong sơ
phát tâm: Tôi phải đầy đủ sáu môn ba la mật, sẽ nhập Bồ-Tát vị, sẽ
ở bực bất thối chuyển, có đủ năm thần thông, đại Bồ-Tát đều chẳng
nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Như quốc độ
nghiêm tịnh của chư Phật, tôi cũng sẽ nghiêm tịnh quôc độ như vậy,
thành tựu chúng sanh khiến họ nhập Phật đạo, sẽ đến chỗ của vô
lượng vô số chư Phật để tán thán kính trọng cúng dường, sẽ làm cho
vô lượng vô số chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề. Tất cả như
vậy, đại Bồ-Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Tôi sẽ sanh
ngũ nhãn, sẽ sanh tất cả tam muội tất cả đà la ni, sẽ được thập
lực tứ vô úy tứ vô ngại trí mười tám pháp bất cộng, sẽ đầy đủ đại
từ đại bi ba mươi hai tướng tám mươi tùy hình. Tất cả như vậy, đại
Bồ-Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Ðây là bát
nhơn, là tín hành nhơn, là pháp hành nhơn, Tu Ðà Hoàn tột bảy đời,
Tu Ðà Hoàn mạng chung sạch phiền não, Tu Ðà Hoàn trung gian nhập
Niết-Bàn, người này hướng Tư Ðà Hàm quả chứng Tư Ðà Hàm nhứt lai
nhập Niết Bàn, người này hướng A Na Hàm quả chứng, A Na Hàm nơi
kia nhập Niết-Bàn, người này hướng A La Hán quả chứng, A La Hán
đời nay nhập vô dư Niết Bàn, người này là Bích Chi Phật, trụ
Bồ-Tát địa vượt hơn Thanh Văn Bích Chi Phật, được đạo chủng trí,
nhứt thiết chủng trí, đắc vô thượng bồ đề, sẽ chuyển pháp luân,
làm Phật sự độ vô lượng chúng sanh nhập Niết-Bàn. Tất cả như vậy,
đại Bồ-Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Ðược tứ như ý
túc, trụ trong tam muội này sẽ trụ thọ số kiếp như số cát sông
Hằng, sẽ được ba mươi hai tướng, mỗi mỗi tướng có trăm phước trang
nghiêm, thế giới của ta như hằng sa thế giới mười phương, Ðại
Thiên thế giới của ta thuần kim cang, cây bồ đề của ta sẽ phát ra
mùi thơm làm cho chúng sanh dứt sạch thân bịnh và tâm bịnh, chúng
sanh nghe mùi thơm này sẽ sạch tham sân si, cũng không có tâm
Thanh Văn Bích Chi Phật, tất cả sẽ được vô thượng bồ đề. Tất cả
như vậy, đại Bồ-Tát đều chẳng nên an trụ, vì có sở đắc vậy.
Sẽ khiến trong
thế giới của tôi không có danh tự sắc thọ tưởng hành thức, không
có danh tự đàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật, không có danh
tự tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, cũng không danh tự Tu Ðà Hoàn đến
Phật. Tất cả như vậy, đại Bồ-Tát chẳng an trụ,vì có sở đắc vậy.
Tại sao vậy?
Vì chư Phật lúc đắc vô thượng bồ đề, tất cả pháp đều vô sở đắc
vậy.
Này Kiều Thi
Ca! Thế nên ở trong Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát chẳng nên an trụ, vì
có sở đắc vậy.
Ngài Xá Lợi
Phất nghĩ rằng nay đây Bồ-Tát phải an trụ trong Bát-Nhã ba la mật
thế nào?
Biết tâm niệm
của ngài Xá Lợi Phất, ngài Tu Bồ Ðề nói: "Này Xá Lợi Phất! Cứ
theo ý ngài thời chư Phật an trụ chỗ nào?
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Chư Phật không có chỗ trụ.
Chư Phật chẳng
an trụ trong sắc, chẳng an trụ trong thọ tưởng hành thức, chẳng an
trụ trong tánh hữu vi trng tánh vô vi, chẳng an trụ trong tứ niệm
xứ đến bất cộng pháp, chẳng an trụ trong nhứt thiết chủng trí.
Trong Bát-Nhã
ba la mật, đại Bồ-Tát phải an trụ như chư Phật an trụ. Nơi tất cả
pháp chẳng phải an trụ chẳng phải chẳng an trụ.
Trong Bát-Nhã
ba la mật, đại Bồ-Tát phải học như vậy, phải an trụ nơi pháp chẳng
an trụ.
Bấy giờ trong
pháp hội có chư Thiên Tử nghĩ rằng lời nói câu chữ của hàng dạ xoa
còn có thể rõ biết được, đại đức Tu Bồ Ðề luận nói giải thích
Bát-Nhã ba la mật chúng tôi trọn chẳng biết chi cả.
Ngài Tu Bồ Ðề
biết tâm niệm của chư Thiên Tử nên hỏi rằng: "Các ngài chẳng hiểu
chẳng biết ư?
Chư Thiên Tử
nói: "Bạch đại đức! Chúng tôi chẳng hiểu chẳng biết.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðúng ra thời các ngài phải nên chẳng biết, còn tôi thời
không có luận nói, nhẫn đến tôi chẳng nói một chữ, cũng không có
người nghe.
Tại sao vậy?
Vì những chữ chẳng phải Bát-Nhã ba la mật. Trong Bát-Nhã ba la mật
không có thính giả.
Vô thượng bồ
đề của chư Phật không có chữ không có lời.
Này các ngài!
Như đức Phật biến hóa làm hóa nhơn. Hóa nhơn này lại biến hóa bốn
bộ chúng tỳ kheo tỳ kheo ni ưu bà tắc và ưu bà di. Ở giữa bốn bộ
chúng này, hóa nhơn thuyết pháp.
Ý các ngài
nghĩ thế nào, trong đó có thuyết giả, có thính giả, có trí giả
chăng?
Chư Thiên Tử
nói: "Bạch đại đức! Không có.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này các ngài! Tất cả pháp đều như biến hóa, trong đó không
có thuyết giả, không có thính giả cũng không có trí giả.
Này các ngài!
Vì như có người chiêm bao thấy Phật thuyết pháp. Ý các ngài nghĩ
thế nào, trong đó có thuyết giả thính giả và trí giả chăng?
Chư Thiên Tử
nói: "Bạch đại đức! Không có.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này các ngài! Tất cả pháp đều như chiêm bao, không có người
nói không có người nghe, không có người biết.
Này các ngài!
Ví như có hai người, mỗi người ở một bên bờ khe sâu lên tiếng ca
ngợi Phật, Pháp và Tăng phát ra hai vang.
Ý các ngài
nghĩ thế nào, hai vang ấy có hiểu lẫn nhau chăng?
Chư Thiên Tử
nói: "Bạch đại đức! Không.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này các ngài! Tất cả pháp cũng như vang, không thuyết giả,
không thính giả không tri giả.
Này các ngài!
Như nhà ảo thuật giỏi ở giữa ngả tư đường hóa làm Phật và bốn bộ
chúng rồi thuyết pháp. Ý các ngài nghĩ thế nào trong đó có người
nói người nghe người biết không?
Chư Thiên Tử
nói: "Bạch đại đức! Không có.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này các ngài! Tất cả pháp như ảo huyễn, trong đó không có
thuyết giả thính giả cũng không có tri giả.
Bấy giờ chư
Thiên Tử nghĩ rằng đại đức Tu Bồ Ðề giải nói muốn cho dễ hiểu mà
trở lại càng thân càng diệu.
Ngài Tu Bồ Ðề
biết tâm niệm của chư Thiên Tử nên nói rằng: "Này các ngài! Sắc
chẳng phải thâm chẳng phải diệu, thọ tưởng hành thức chẳng phải
thâm chẳng phải diệu. Sắc tánh đến thức tánh chẳng phải thâm chẳng
phải diệu. Nhãn tánh đến ý thức tánh, sắc tánh đến pháp tánh, nhãn
giới tánh đến ý thức giới tánh, nhãn xúc đến ý xúc, nhãn xúc nhơn
duyên sanh thọ đến ý xúc nhơn duyên sanh thọ đều chẳng phải thâm
chẳng phải diệu.
Ðàn na ba la
mật đến Bát-Nhã ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không,
tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, tất cả tam muội đến tất cả đà la ni,
nhứt thiết chủng trí và nhứt thiết chủng trí tánh đều chẳng phải
thâm chẳng phải diệu.
Chư Thiên Tử
nghĩ rằng trong thuyết pháp ấy chẳng nói sắc đến chẳng nói nhứt
thiết chủng trí, chẳng nói Tu Ðà Hoàn quả đến A La Hán quả, chẳng
nói Bích Chi Phật đạo, chẳng nói vô thượng bồ đề đạo, trong pháp
ấy chẳng nói danh tự ngữ ngôn.
Ngài Tu Bồ Ðề
biết tâm niệm của chư Thiên Tử nên nói rằng: "Này các ngài! Ðúng
như vậy, trong pháp ấy, vô thượng bồ đề của chư Phật không có
tướng nói được, trong ấy không có thuyết giả không có thính giả
không có tri giả.
Này các ngài!
Do đây nên thiện nam tử thiện nữ nhơn, người muốn an trụ Tu Ðà
Hoàn quả, muốn y chứng Tu Ðà Hoàn quả, người này chẳng rời lìa trí
nhẫn trên đây. Người muốn an trụ muốn chứng Tư Ðà Hàm quả, A Na
Hàm quả, A La Hán quả, Bích Chi Phật đạo và Phật đạo, người này
chẳng rời lìa trí nhẫn trên đây.
Này các ngài!
Ðại Bồ-Tát từ sơ phát tâm, ở trong Bát-Nhã ba la mật, phải an trụ
như vậy. Vì không có nói không có nghe vậy.
|
|