|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ CHÍN
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM TÁN HOA THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Bấy giờ Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn và chư
Thiên Vương trong Ðại Thiên Thế Giới nghĩ rằng Ðại đức Tu Bồ Ðề vì
chúng ta mà ban pháp vũ. Chúng ta nên hóa hiện hoa đẹp để rải trên
đức Phật, chư đại Bồ-Tát, chư tỳ kheo tăng, đại đức Tu Bồ Ðề và
Bát-Nhã ba la mật.
Liền đó chư
Thiên Vương hóa hiện hoa đẹp rải trên đức Phật, chư đại Bồ-Tát,
chư tỳ kheo tăng cùng đại đức Tu Bồ Ðề và cũng cúng dường Bát-Nhã
ba la mật. Khắp Ðại Thiên thế giới lúc bấy giờ đầy những hoa trong
không gian. Những hoa này hóa thành những hoa đài đoan nghiêm vi
diệu.
Ngài Tu Bồ Ðề
nghĩ rằng những hoa trên hư không do chư Thiên Tử rải, từ nào chưa
từng thấy. Ðây là hoá hoa chẳng phải từ cây sanh ra. Ðây là hoa từ
tâm thọ sanh chẳng phải từ cây sanh.
Biết tâm niệm
của ngài Tu Bồ Ðề, Thiên Ðế Thích Hoàn Nhơn nói: "Bạch Ðại Ðức!
Hoa này chẳng phải sanh hoa cũng chẳng phải từ tâm thọ sanh.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Ngài nói hoa này chẳng phải sanh hoa cũng
chẳng phải từ tâm thọ sanh. Hoa này nếu chẳng phải là sanh pháp
thời chẳng gọi là hoa.
Thiên Ðế Thích
Ðề Hoàn Nhơn nói: "Bạch Ðại Ðức! Chỉ có hoa này là chẳng sanh, hay
là sắc và thọ tưởng hành thức cũng chẳng sanh?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải chỉ có hoa này là chẳng sanh, mà
sắc cũng chẳng sanh. Nếu đã chẳng sanh thời chẳng gọi là sắc. Thọ
tưởng hành thức cũng chẳng sanh. Nếu chẳng sanh thời chẳng gọi là
thọ tưởng hành thức.
Như ngũ ấm,
lục nhập lục thức lục xúc và lục xúc nhơn duyên sanh thọ cũng vậy.
Ðàn na ba la
mật đến Bát-Nhã ba la mật chẳng sanh, nếu chẳng sanh thời chẳng
gọi là đàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật. Nội khôn gđến vô
pháp hữu pháp không cũng như vậy. Tứ niệm xứ đến bất cộng pháp
chẳng sanh, nhứt thiết chủng trí cũng chẳng sanh. Nếu chẳng sanh
thời chẳng gọi là tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí.
Thiên Ðế nghĩ
rằng Ðại Ðức Tu Bồ Ðề có trí huệ rất sâu, chẳng hoại giả danh mà
nói các pháp tướng.
Ðức Phật biết
tâm niệm của Thiên Tử nên nói rằng: "Ðúng như vậy. Này Kiều Thi
Ca! Tu Bồ Ðề có trí huệ rất sâu, chẳng hoại giả danh mà nói các
pháp tướng.
Thiên Ðế thưa:
"Bạch Thế-Tôn! Ðại Ðức Tu Bồ Ðề chẳng hoại giả danh mà nói các
pháp tướng như thế nào?
Ðức Phật nói:
"Sắc chỉ là giả danh, Tu Bồ Ðề chẳng hoại giả danh mà nói các pháp
tướng. Thọ tưởng hành thức cũng chỉ là giả danh, Tu Bồ Ðề cũng
chẳng hoại giả danh mà nói các pháp tướng.
Tại sao vậy?
Vìi các pháp tướng không có hoại và chẳng hoại, chỗ nói của Tu Bồ
Ðề cũng không có hoại và chẳng hoại vậy.
Như ngũ ấm lục
nhập đến lục xúc nhơn duyên sanh thọ đàn na ba la mật đến vô pháp
hữu pháp không tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, Tu Ðà Hoàn quả đến
Phật đạo, nhứt thiết trí đến nhứt thiết chủng trí Tu Ðà Hoàn đến
Phật, tất cả chỉ là giả danh, Tu Bồ Ðề cũng chẳng hoại giả danh mà
nói các pháp tướng.
Tại sao vậy?
Vì các pháp tướng không có hoại và chẳng hoại, chỗ nói của Tu Bồ
Ðề cũng không có hoại và chẳng hoại vậy.
Này Kiều Thi
Ca! Ðúng như vậy, Tu Bồ Ðề chẳng hoại giả danh mà nói các pháp
tướng. Ngài Tu Bồ Ðề nói với Thiên Ðế: "Ðúng như vậy. Này Kiều Thi
Ca! Như lời đức Phật nói các pháp chỉ là giả danh.
Ðại Bồ-Tát
phải biết các pháp chỉ là giả danh như vậy. Phải học Bát-Nhã ba la
mật như vậy.
Ðại Bồ-Tát học
như vậy là chẳng học sắc, chẳng học thọ tưởng hành thức.
Tại sao vậy?
Vì chẳng thấy có sắc để học, cũng chẳng thấy có thọ tưởng hành
thức để học.
Ðại Bồ-Tát
học như vậy là chẳng học đàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì chẳng thấy có đàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật để học.
Ðại Bồ-Tát học
như vậy là chẳng học nội không đến vô pháp hữu pháp không, là
chẳng học tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng.
Tại sao vậy?
Vì chẳng thấy có nội không đến pháp bất cộng để học.
Ðại Bồ-Tát học
như vậy là chẳng học Tu Ðà Hoàn quả đến nhứt thiết chủng trí.
Tại sao vậy?
Vì chẳng thấy có Tu Ðà Hoàn quả đến nhứt thiết chủng trí đểÕ học.
Thiên Ðế hỏi:
"Bạch Ðại đức! Do nhơn duyên gì mà chẳng thấy sắc đến chẳng thấy
nhứt thiết chủng trí?
Ngài TuÕ Bồ Ðề
nói: "Sắc sắc không đến nhứt thiết chủng trí nhứt thiết chủng trí
không.
Này Kiếu Thi
Ca! Sắc không chẳng học sắc không nhẫn đến nhứt thiết chủng trí
không chẳng học nhứt thiết chủng trí không.
Này Kiều Thi
Ca! Nếu chẳng học không như vậy thời gọi là học không, vì chẳng
hai vậy.
Nếu học sắc
không vì chẳng hai, nhẫn đến học nhứt thiết chủng trí không vì
chẳng hai, đại Bồ-Tát này có thể học đàn na ba la mật đến Bát-Nhã
ba la mật vì chẳng hai vậy. Có thể học tứ niệm xứ đến mười tám
pháp bất cộng vì chẳng hai vậy. Có thể học quả Tu Ðà Hoàn đến nhứt
thiết củng trí vì chẳng hai vậy.
Ðại Bồ-Tát này
có thể học vô lượng vô biên a tăng kỳ pháp.
Nếu có thể học
vô lượng vô biên vô số pháp, thời đại Bồ-Tát này chẳng vì sắc tăng
mà học, chẳng vì sắc giảm mà học. Nhẫn đến chẳng vì nhứt thiết
chủng trí tăng mà học, cũng chẳng vì nhứt thiết chủng trí giảm mà
học.
Nếu chẳng vì
sắc tăng giảm mà học, nhẫn đến chẳng vì nhứt thiết chủng trí tăng
giảm mà học, thời đại Bồ-Tát này chẳng vì sắc thọ mà học, cũng
chẳng vì sắc diệt mà học. Nhẫn đến chẳng vì nhứt thiết chủng trí
thọ và diệt mà học.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi ngài Tu Bồ Ðề: "Học như vậy, đại Bồ-Tát này chẳng vì thọ
sắc mà học chẳng vì diệt sắc mà học. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí
cũng chẳng vì thọ và diệt mà học?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðại Bồ-Tát nếu học như vậy thời vì thọ sắc mà học chẳng vì
diệt sắc mà học, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí chẳng vì thọ và
diệt mà học.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Do nhơn duyên gì mà đại Bồ-Tát chẳng vì thọ sắc mà học,
chẳng vì diệt sắc mà học, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng
chẳng vì thọ và diệt mà học?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Sắc này chẳng thọ được cũng không có ai thọ sắc, nhẫn đến
nhứt thiết chủng trí chẳng thọ được cũng không ai thọ, vì nội
ngoại rỗng không vậy.
Vì chẳng thọ
tất cả pháp nên đại Bồ-Tát có thể đến nhứt thiết chủng trí.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Ðại Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật như vậy có thể đến
nhứt thiết chủng trí chăng?
Ngài Tu B ồ Ðể
nói: "Ðại Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật như vậy có thể đến nhứt
thiết chủng trí, vì chẳng thọ tất cả pháp vậy.
Ngài Xá Lợi
Phất hỏi: "Nếu đại Bồ-Tát đối với tất cả các pháp chẳng thọ chẳng
diệt mà học, thời làm sao đến được nhứt thiết chủng trí?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng thấy sắc sanh,
chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy sắc thọ, chẳng thấy sắc chẳng thọ,
chẳng thấy sắc cấu, chẳng thấy sắc tịnh, chẳng thấy sắc tăng,
chẳng thấy sắc giảm. Tại sao vậy? Vì sắc tánh rỗng không vậy.
Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí, cũng chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, chẳng thấy
thọ, chẳng thấy chẳng thọ, chẳng thấy cấu, chẳng thấy tịnh, chẳng
thấy tăng, chẳng thấy giảm. Tại sao vậy? Vì nhứt thiết chủng trí
nhứt thiết chủng trí tánh rỗng không vậy.
Ðại Bồ-Tát vì
tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt chẳng thọ chẳng xả chẳng cấu
chẳng tịnh chẳng hiệp chẳng tan chẳng tăng chẳng giảm, nên học
Bát-Nhã ba la mật có thể đến nhứt thiết chủng trí. Vì không chỗ
học, không chỗ đến vậy.
Bấy giờ Thiên
Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn hỏi ngài Xá Lợi Phất: "Ðại Bồ-Tát Bát-Nhã ba
la mật nên cầu ở chỗ nào?
Ngài Xá Lợi
Phất nói: "Ðại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật nên cầu ở trong phẩm Tu Bồ
Ðề.
Thiên Ðế hỏi
ngài Tu Bồ Ðề: "Có phải thần lực của Ðại Ðức khiếnXá Lợi Phất nói
đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật nên cầu ở trong phẩm Tu Bồ Ðề chăng?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Chẳng phải thần lực của tôi.
Thiên Ðế hỏi:
"Thần lực của ai vậy?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðó là thần lực của đức Phật.
Thiên Ðế nói:
"Tất cả pháp đều không thọ xứ. Tại sao vậy? Nói là thần lực của
đức Phật, rời tướng không thọ xứ thời Như Lai bất khả đắc, rời
pháp như thời Như Lai cũng bất khả đắc.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ðúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Rời tướng không thọ xứ thời
Như Lai bất khả đắc, rời pháp như thời Như Lai cũng bất khả đắc.
Trong tướng không thọ xứ, Như Lai bất khả đắc. Trong pháp như, Như
Lai bất khả đắc.
Trong sắc như,
Như Lai như bất khả đắc. Trong Như Lai như, sắc như bất khả đắc.
Trong sắc pháp
tướng, Như Lai pháp tướng bất khả đắc. Trong Như Lai pháp tướng,
sắc pháp tướng bất khả đắc. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như
vậy.
Này Kiều Thi
Ca! Như Lai trong sắc như chẳng hiệp chẳng tan, Như Lai trong thọ
tưởng hành thức như chẳng hiệp chẳng tan.
Như Lai rời
sắc như chẳng hiệp chẳng tan, Như Lai rời sắc thọ tưởng hành thức
như chẳng hiệp chẳng tan. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như
vậy.
Này Kiều Thi
Ca! Như Lai rời sắc như chẳng hiệp chẳng tan, Như Lai rời thọ
tưởng hành thức như chẳng hiệp chẳng tan.
Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí cũng như vậy.
Như Lai trong
sắc pháp tướng chẳng hiệp chẳng tan, Như Lai trong thọ tưởng hành
thức pháp tướng chẳng hiệp chẳng tan.
Như Lai rời
sắc pháp tướng chẳng hiệp chẳng tan, Như Lai rời thọ tưởng hành
thức pháp tướng chẳng hiệp chẳng tan.
Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí cũng như vậy.
Này Kiều Thi
Ca! Trong tất cả pháp chẳng hiệp chẳng tan là thần lực của Như
Lai, vì dùng pháp vô sở thọ vậy.
Như lời Kiều
Thi Ca nói đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật nên cầu ở chỗ nào?
Này Kiều Thi
Ca! Chẳng nên ở trong sắc hay rời ngoài sắc mà cầu Bát-Nhã ba la
mật. Chẳng nên ở trong thọ tưởng hành thức hay rời ngoài thọ tưởng
hành thức mà cầu Bát-Nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bát-Nhã ba la mật này và sắc thọ tưởng hành thức, tất cả pháp đây
đều chẳng hiệp, chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một
tướng duy nhứt là vô tướng.
Nhẫn đến chẳng
nên ở trong nhứt thiết chủng trí mà cầu Bát-Nhã ba la mật, cũng
chẳng nên rời ngoài nhứt tiết chủng trí mà cầu Bát-Nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bát-Nhã ba la mật đây và nhứt thiết chủng trí, tất cả pháp này đều
chẳng hiệp, chẳng tan, không săc, không hình, không đối, một
tướng duy nhứt tức là vô tướng.
Tại sao vậy?
Bát-Nhã ba la mật chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng
phải rời ngoài sắc thọ tưởng hành thức. Nhẫn đến chẳng phải nhứt
thiết chủng trí, cũng chẳng phải rời ngoài nhứt thiết chủng trí.
Bát-Nhã ba la
mật chẳng phải sắc như, cũng chẳng phải rời ngoài sắc như. Nhẫn
đến chẳng phải nhứt thiết chủng trí như, cũng chẳng phải rời ngoài
nhứt thiết chủng trí như.
Bát-Nhã ba la
mật chẳng phải sắc pháp, cũng chẳng phải rời ngoài săc pháp. Nhẫn
đến chẳng phải nhứt thiết chủng trí pháp, cũng chẳng phải rời
ngoài nhứt thiết chủng trí pháp.
Tại sao vậy?
Này Kiều Thi Ca! Tất cả pháp này đều vô sở hữu bất khả đắc.
Vì vô sở hữu
bất khả đắc, nên Bát-Nhã ba la mật chẳng phải sắc cũng chẳng phải
rời sắc, nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết chủng trí cũng chẳng phải
rời nhứt thiết chủng trí. Chẳng phải sắc như cũng chẳng phải rời
sắc như, nhẫn đến chẳng phải nhứt tihiết chủng trí như cũng chẳng
phải rời nhứt thiết chủng trí như. Chẳng phải sắc pháp cũng chẳng
phải rời sắc pháp nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết chủng trí pháp
cũng chẳng phải rời nhứt thiết chủng trí pháp.
Thiên Ðế nói:
"Ma ha ba la mật này là đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật.
Vô lượng ba la
mật, vô biên ba la mật là đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật.
Chư Tu Ðà Hoàn
và quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chư A La hán và quả A La Hán, chư Bích
Chi Phật và đạo Bích Chi Phật, chư đại Bồ-Tát đều từ trong Bát-Nhã
ba la mật này mà học thành.
Có thể thành
tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ chứng vô thượng bồ đề đều từ
trong Bát-Nhã ba la mật này mà học thành.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: Ðúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Ma ha ba la mật này là đại
Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật. Vô lượng ba la mật, vô biên ba la mật là
đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật.
Cũng trong từ
Bát-Nhã ba la mật này mà học thành quả Tu Ðà Hoàn đến thành vô
thượng bồ đề.
Này Kiều Thi
Ca! Vì sắc rộng lớn nên Bát-Nhã ba la mật cũng rộng lớn.
Tại sao vậy?
Sắc tiền tế
hậu tế và trung tế đều bất khả đắc.
Thọ tưởng hành
thức rộng lớn nên Bát-Nhã ba la mật cũng rộng lớn, vì thọ tưởng
hành thức tiền tế hậu tế và trung tế đều bất khả đắc.
Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí cũng như vậy.
Do nhơn duyên
này nên ma ha ba la mật này là đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật.
Này Kiều Thi
Ca! Vì sắc vô lượng nên Bát-Nhã ba la mật vô lượng, vì sắc lượng
bất khả đắc vậy.
Như hư không
lượng bất khả đắc, cũng vậy sắc lượng bất khả đắc.
Hư không vô
lượng nên sắc vô lượng, vì sắc vô lượng nên Bát-Nhã ba la mật vô
lượng.
Nhẫn đến vì
nhứt thiết chủng trí vô lượng nên Bát-Nhã ba la mật vô lượng.
Tại sao vậy?
Vì nhứt thiết chủng trí lượng bất khả đắc.
Như hư không
lượng bất khả đắc, cũng vậy nhứt thiết chủng trí lượng bất khả
đắc.
Hư không vô
lượng nên nhứt thiết chủng trí cũng vô lượng.
Nhứt thiết
chủng trí vô lượng nên Bát-Nhã ba la mật cũng vô lượng.
Do nhơn duyên
này nên đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật vô lượng.
Này Kiều Thi
Ca! Sắc vô biên nên đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Tại sao vậy?
Sắc tiền tế hậu tế trung tế đều bất khả đắc.
Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên. Vì nhứt
thiết chủng trí tiền tế hậu tế trung tế đều bất khả đắc vậy.
Do nhơn duyên
này nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Lại này Kiều
Thi Ca! Vì duyên nơi vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Thiên Ðế hỏi:
"Thế nào duyên nói vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vì duyên tất cả pháp vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Thiên Ðế hỏi:
"Thế nào duyên tất cả pháp vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vì duyên vô biên pháp tánh nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Lại này Kiều
Thi Ca! Vì duyên vô biên pháp như nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Thiên Ðế hỏi:
"Thế nào duyên vô biên pháp như nên Bát-Nhã ba la mật vô biên?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Vì pháp như vô biên nên duyên cũng vô biên. Vì duyên vô biên
nên pháp như cũng vô biên.
Do nhơn duyên
này nên đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên.
Lại này Kiều
Thi Ca! Vì chúng sanh vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên.
Thiên Ðế hỏi:
"Thế nào chhúng sanh vô biên nên Bát-Nhã ba la mật vô biên?
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Theo ý ngài thời những pháp gì gọi là chúng
sanh?
Thiên Ðế nói:
"Không có pháp gì gọi là chúng sanh. Vì giả danh nên gọi là chúng
sanh.
Danh tự ấy vốn
không có pháp cũng không có chỗ đến. Chỉ gượng đặt tên thôi.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Ý ngài nghĩ thế nào. Trong Bát-Nhã ba la mật này nói chúng
sanh có thiệt chăng?
Thiên Ðế nói:
"Không có thiệt".
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Nếu trong Bát-Nhã ba la mật nói thiệt có, thời chúng sanh vô
biên cũng bất khả đắc.
Này Kiều Thi
Ca! Ý ngài nghĩ thế nào. Chư Phật trong hằng sa kiếp nói chúng
sanh và danh tự chúng sanh. Vả có pháp chúng sanh có tăng có diệt
chăng?
Thiên Ðế nói:
"Không có. Vì bổn lai chúng sanh thường thanh tịnh vậy.
Ngài Tu Bồ Ðề
nói: "Này Kiều Thi Ca! Do nhơn duyên này, vì chúng sanh vô biên
nên biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên.
|
|