|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
MƯỜI
HAI
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM TÙY HỶ THỨ BA MƯƠI CHÍN
-
Ngài Di Lặc
đại Bồ-Tát nói với ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Hoặc
Thanh Văn, hoặc Bích Chi Phật, hoặc tất cả chúng sanh, hoặc bố
thí trì giới, hoặc tu thiền định tùy hỉ phước đức.
-
Có đại
Bồ-Tát tùy hỉ phước đức cùng với tất cả chúng sanh chung hưởng,
hồi hướng vô thượng bồ đề. Phước đức này bực nhứt trên hết, rất
diệu vô thượng không gì bằng.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì Thanh
Văn Bích Chi Phật và tất cả chúng sanh bố thí trì giới tu thiền
định tùy hỉ phước đức, ,là để tự điều phục, tự thanh tịnh, tự
độ, mà tu hành những tứ niệm xứ đến bát thánh đạo và không, vô
tướng, vô tác.
-
Bồ-Tát tùy
hỉ phước đức hồi hướng vô thượng bồ đề, đem công đức này để điều
phục tất cả chúng sanh, để thanh tịnh tất cả chúng sanh, để độ
tất cả chúng sanh, vì vô sở đắc vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Chư đại
Bồ-Tát tưởng niệm vô lượng vô biên vô số chư Phật diệt độ trong
vô lượng vô biên vô số quốc độ mười phương, từ sơ phát tâm đến
vô thượng bồ đề, nhập vô dư y Niết Bàn đến chánh pháp diệt tận
có tất cả thiện căn đúng với sáu ba la mật. Cùng với thiện căn
của hàng Thanh Văn, như phước đức bố thí, phước đức trì giới,
phước đức tu tập thiền định. Cùng với tihện căn vô olậu của hàng
hữu học vô học. Cùng với giới tụ, định tụ, huệ tụ, giải thoát
tụ, giải thoát tri kiến tụ, nhứt thiết trí, đại từ đại bi của
chư Phật. Cùng với vô lượng vô số những Phật pháp khác và pháp
của chư Phật diễn thuyết. Trong những pháp này học được quả Tu
Ðà Hoàn đến quả A La Hán và đạo Bích Chi Phật, nhập ngôi đại
Bồ-Tát. Cùng với những chúng sanh khác gieo trồng thiện căn.
-
Tất cả
những thiện căn ấy hòa hiệp tùy hỉ phước đức hồi hướng vô
thượng bồ đề, thời là phước đức đệ nhứt trên hết, rất diệu vô
thượng không gì bằng.
-
Tùy hỉ như
vậy rồi, đem phước đức tùy hỉ này hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Nếu có
thiện nam thiện nữ tu hành Bồ-Tát thừa, nghĩ rằng lòng tôi hướng
về vô thượng bồ đề.
-
Ðây là sanh
tâm duyên nơi sự.
-
Nếu thiện
nam thiện nữ nắm lấy tướng hồi hướng vô thượng bồ đề, có thể
được như chỗ đã nghĩ tưởng chăng?
-
Di Lặc
Bồ-Tát nói:
-
- Nếu thiện
nam thiện nữ nắm lấy tướng thời chẳng được như chỗ đã tưởng
nghĩ.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu những
duyên những sự vô sở hữu, thiện nam thiện nữ này thật hành
Bồ-Tát thừa, nắm lấy tướng, đối với thiện căn từ sơ phát tâm đến
lúc chánh pháp diệt tận của chư Phật mười phương, cùng với thiện
căn của hàng hữu học vô học Thanh Văn, đều hòa hiệp tất cả tùy
hỉ công đức hồi hướng vô thượng bồ đề, vì vô tướng vậy.
-
Như thế
Bồ-Tát này há chẳng điên đảo vô thường cho là thường, khổ cho là
lạc, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh, mà thành tưởng
điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
-
Hoặc như
duyên và như sự hồi hướng vô thượng bồ đề cũng như vậy.
-
Tam hồi
hướng cũng như vậy.
-
Ðàn na ba
la mật đến mười tám pháp bất cộng cũng như vậy.
-
Nếu như vậy
thời những gì là duyên, những gì là sự, những gì là vô thượng bồ
đề, những gì là thiện căn, những gì là tâm tùy hỉ hồi hướng vô
thượng bồ đề?
-
Ngài Di Lặc
Bồ-Tát nói:
-
- Nếu chư
đại Bồ-Tát đã từ lâu thật hành sáu ba la mật, nhiều cúng dường
chư Phật gieo trồng thiện căn, luôn gần thiện trí thức, khéo tu
học pháp tự tướng không. Chư đại Bồ-Tát này dùng duyên như vậy
và sự như vậy, nơi thiện căn, của chư Phật, tùy hỉ phước đức nắm
lấy tướng hồi hướng vô thượng bồ đề. Bỡi chẳng hai pháp chẳng
phải chẳng hai pháp, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng,
chẳng phải pháp có thể được chẳng phải pháp chẳng thể có được,
chẳng phải pháp cấu chẳng phải pháp tịnh, chẳng phải pháp sanh
chẳng phải pháp diệt, nên đây gọi là hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Nếu chư
Bồ-Tát tu hành sáu ba la mật chẳng được lâu, cúng dường chư Phật
chẳng được nhiều, chẳng gieo trồng căn lành, chẳng gần thiện trí
thức, chẳng khéo tu học pháp tự tướng không. Bồ-Tát này dùng
duyên như vậy sự như vậy mà tùy hỉ phước đức của chư Phật, tâm
nắm lấy tướng hồi hướng vô thượng bồ đề. Ðây thời chẳng gọi là
chơn thiệt hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Này ngài Tu
Bồ Ðề! Nghĩa Bát-Nhã ba la mật như vậy, nhẫn đến nghĩa nhứt
thiết chủng trí, như là nnội không đến vô pháp hữu pháp không,
chẳng nên giải nói với hàng tân học Bồ-Tát. Vì sẽ làm mất lòng
kính tin thanh tịnh mà Bồ-Tát này đã được chút ít.
-
Nên đem nói
với bực đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Hoặc với
người được sự hộ trì của thiện trí thức, hoặc với người từ lâu
cúng dường chư Phật gieo trồng thiện căn. Cũng nên giải thuyết
nghĩa Bát-Nhã ba la mật này nhẫn đến nghĩa nhứt thiết chủng
trí, như là nội không đếnvô pháp hữu pháp không.
-
Những người
này nghe pháp như vậy không mất không kinh không sợ.
-
Này ngài Tu
Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát tùy hỉ phước đức phải hồi hướng vô thượng bồ
đề như vậy.
-
Nghĩa là
Bồ-Tát dùng tâm tùy hỉ phước đức hồi ihướng vô thượng bồ đề, tâm
này tận diệt biến ly. Duyên ấy, sự ấy, những thiện căn ấy cũng
tận diệt biến ly.
-
Trong đây,
những gì là tâm tùy hỉ, những gì là duyên, những gì là sự, những
gì là tihện căn tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề?
-
Hai tâm
chẳng chung khởi. Tâm tánh này cũng bất khả đắc hồi hướng.
-
Bồ-Tát thế
nào dùng tâm tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề?
-
Nếu đại
Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, biết rõ Bát-Nhã ba la
mật này không có pháp như vậy, nhẫn đến đàn na ba la mật không
có pháp, sắc thọ tưởng hành thức đến vô thượng bồ đề không có
pháp như vậy.
-
Ðại Bồ-Tát
phải tùy hỉ công đức như vậy mà hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Nếu có thể
hồi hướng như vậy thời gọi là tùy hỉ công đức hồi hướng vô
thượng bồ đề.
-
Thiên Ðế
hỏi ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Bồ-Tát
mới phát tâm nghe việc này há không kinh sợ ư?
-
Thế nào là
Bồ-Tát mới phát tâm tu các thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề?
-
Lại thế nào
là tùy hỉ phước đức hồi hướng vô thượng bồ đề?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu
Bồ-Tát mới phát tâm thật hành Bát-Nhã ba la mật chẳng thọ
Bát-Nhã ba la mật này, vì vô sở đắc vậy, vì vô tướng vậy. Nhẫn
đến đàn na ba la mật cũng như vậy. Lại nhiều tin hiểu nội không
đến vô pháp hữu pháp không. Nhiều tin hiểu tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Thường theo thiện tri thức.
-
Thiện tri
thức này giảng nói nghĩa sáu ba la mật và khai thị phân biệt
cho. Dạy dỗ như vậy làm cho thường chẳng rời Bát-Nhã ba la mật,
nhẫn đến được vào bực Bồ-Tát chẳng rời Bát-Nhã ba la mật nhẫn
đến chẳng rời đàn na ba la mật. Chẳng rời tứ niệm xứ đến mười
tám pháp bất cộng. Cũng dạy nói về ma sự. Nghe những ma sự rồi
vẫn chẳng tăng chẳng giảm.
-
Tại sao
vậy? Vì Bồ-Tát này chẳng thọ các pháp vậy.
-
Bồ-Tát này
cũng thường chẳng rời chư Phật. Nhẫn đến lúc nào bực Bồ-Tát luôn
gieo trồng thiện căn. Do thiện căn này mà sinh vào nhà Bồ-Tát.
Nhẫn đến lúc thành vô thượng bồ đề trọn chẳng rời thiện căn này.
Lại đại Bồ-Tát mới phát tâm này đối với quá khứ chư Phật trong
vô lượng vô biên vô số quốc độ mười phương, dứt đường sanh tử,
dứt đường hí luận, bỏ hẳn gánh nặng, diệt gai tụ lạc, dứt những
hữu lậu, được chánh trí giải thoát. Cùng hàng đệ tử tu hành công
đức. Hoặc hàng đại tộc trưởng giả cư sĩ, ,chư Thiên từ trời Tứ
Vương đến Sắc Cứu Cán gieo trồng thiện căn, tất cả công đức đều
hòa hiệp. Dùng tâm tùy hỉ đệ nhứt trên hết hơn hết không gì bằng
mà tùy hỉ. Tùy hỉ rồi hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Ngài Di Lặc
Bồ-Tát nói với ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Nếu
Bồ-Tát mới phát tâm tưởng niệm thiện căn của chư Phật và hàng
đệ tử dùng tâm tùy hỉ nhất vi diệu hơn hết không gì bằng mà tùy
hỉ công đức. Tùy hỉ rồi hồi hướng vô thượng bồ đề. Bồ-Tát này
thế nào chẳng sa nơi tưởng điên đảo, tâm điên đảo và kiến điên
đảo?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu đại
Bồ-Tát niệm Phật và Tăng. Trong đây chẳng móng khởi tưởng là
Phật, tưởng là Tăng cũng chẳng móng khởi tưởng là thiện căn.
Dùng tâm này hồi hướng vô thượng bồ đề. Trong tâm này cũng chẳng
móng khởi tưởng là tâm. Bồ-Tát hồi hướng như vậy thời tưởng
chẳng điên đảo, tâm chẳng điên đảo, kiến chẳng điên đảo.
-
Nếu đại
Bồ-Tát niệm thiện căn của Phật và Tăng, nắm lấy tướng. Nắm lấy
tướng rồi hồi hướng vô thượng bồ đề. Bồ-Tát hồi hướng như vậy,
thời gọi là tưởng điên đảo tâm điên đảo và kiến điên đảo.
-
Nếu đại
Bồ-Tát dùng tâm này niệm thiện căn của chư Phật và chúng tăng.
Lúc tâm niệm như vậy liền biết diệt tận. Nếu tận diệt thờì pháp
ấy bất khả đắc. Tâm dùng để hồi hướng cũng là tướng tận diệt.
Chỗ hồi hướng và pháp cũng là tướng tận diệt.
-
Nếu hồi
hướng như đây thời gọi là chánh hồi hướng mà chẳng phải là tà
hồi hướng.
-
Ðại Bồ-Tát
phải hồi hướng vô thượng bồ đề như vậy.
-
Và lại nếu
đối với thiện căn của chư Phật quá khứ và hàng đệ tử, thiện căn
của phàm phu nghe pháp, thiện căn của Thiên Long Bát Bộ nhẫn đến
của trời Sắc Cứu Cánh nghe pháp phát tâm vô thượng bồ đề.
-
Tất cả
phước đức này đề uhòa hiệp, Bồ-Tát dùng tâm đệ nhứt vi diệu hơn
hết không gì bằng mà tùy hỉ công đức rồi hồi hướng vô thượng bồ
đề. Bấy giờ nếu đại Bồ-Tát biết những pháp ấy tận diệt, chỗ hồi
hướng và pháp cũng tự tánh không. Có thể hồi hướng như vậy thời
gọi là chơn thiệt hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Lại đại
Bồ-Tát biết không có pháp nào hồi hướng được pháp nào. Vì tất cả
pháp tự tướng không. Hồi hướng như đây thời gọi là chánh hồi
hướng vô thượng bồ đề.
-
Ðại Bồ-Tát
thật hành Bát-Nhã ba la mật đến đàn na ba la mật như vậy, thời
chẳng sa vào tướng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Bỡi
Bồ-Tát này chẳng nắm lấy hồi hướng ấy, cũng chẳng thấy đem những
thiện căn hồi hướng đến chỗ tâm bồ đề. Ðây gọi là đại Bồ-Tát vô
thượng hồi hướng.
-
Lại nếu đại
Bồ-Tát biết phước đức đã gieo trồng rời hẳn ngũ ấm thập nhị xứ,
thập bát giới. Cũng biết Bát-Nhã ba la mật đến đàn na ba la mật
là ly tướng, biết nội khônog đến vô pháp hữu pháp không là ly
tướng, biết tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng là ly tướng
đại Bồ-Tát khởi tâm tùy hỉ phước đức như vậy, thời gọi là hồi
hướng vô thượng bồ đề.
-
Lại nếu đại
Bồ-Tát tùy hỉ phước đức, biết tùy hỉ phước đức tự tánh ly, cũng
biết chư Phật ly, Phật tánh các thiện căn cũng ly, bồ đề tâm và
bồ đề tâm tánh cũng ly, ,hồi hướng và hồi hướng tánh cũng ly.
Bồ-Tát và Bồ-Tát tánh cũng ly, Bát-Nhã ba la mật đến đàn na ba
la mật cũng ly, Bát-Nhã ba la mật tánh đến đàn na ba la mật tánh
cũng ly, nội không đến vô pháp hữu pháp không cũng ly, nội
không tánh đến vô pháp hữu pháp tánh cũng ly, tứ niệm xứ đến
pháp bất cộng cũng ly, tứ niệm xứ tánh đến bất cộng phap1 tánh
cũng ly.
-
Ðại Bồ-Tát
phải thật hành Bát-Nhã ba la mật ly tướng như vậy.
-
Ðây gọi là
đại Bồ-Tát trong Bát-Nhã ba la mật phát sanh tùy hỉ phước đức.
-
Lại đại
Bồ-Tát đối với thiện căn của chư Phật quá khứ diệt độ, nếu muốn
hồi hướng thời phải hồi hướng như vầy:
-
Phải quan
niệm rằng như tướng chư Phật diệt độ, tướng các thiện căn cũng
vậy, tướng pháp diệt độ cũng như vậy. Tôi dùng tâm hồi hướng.
Tướng của tâm này cũng như vậy.
-
Nếu hồi
hướng được như vậy thời gọi là hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Hồi hướng
như vậy thời chẳng sa vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến
điên đảo.
-
Nếu đại
Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật nắm lấy tướng thiện căn
của chư Phật để hồi hướng vô thượng bồ đề thời chẳng gọi là hồi
hướng.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì chư Phật
quá khứ và thiện căn chẳng phải tướng duyên, chẳng phải không
tướng duyên.
-
Nếu đại
Bồ-Tát nắm lấy tướng như vậy thời chẳng gọi là dùng thiện căn
hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Bồ-Tát này
sa vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
-
Nếu Bô-Tát
chẳng nắm lấy tướng chư Phật, các thiện căn, cũng chẳng nắm lấy
tướng tâm hồi hướng, thời gọi là đem các thiện căn hồi hướng vô
thượng bồ đề.
-
Bồ-Tát này
chẳng sa vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
-
Ngài Di Lặc
hỏi ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Ðại
Bồ-Tát thế nào đối với các thiện căn chẳng nắm lấy tướng mà có
thể hồi hướng vô thượng bồ đề?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Do sự này
nên phải biết trong đại Bồ-Tát Bát-Nhã ba la mật cần có phương
tiện lực Bát-Nhã ba la mật.
-
Nếu là
phước đức rời Bát-Nhã ba la mật thời chẳng được hồi hướng vô
thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì trong
Bát-Nhã ba la mật chư Phật bất khả đắc, các thiện căn bất khả
đắc, tâm hồi hướng vô thượng bồ đề cũng bất khả đắc.
-
Ở trong
đây, lúc đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, nên quán niệm
rằng thân của chư Phật quá khứ và đệ tử đều tận diệt. Nay nếu ta
nắm lấy tướng phân biệt chư Phật, thiện căn và tâm mà hồi hướng
vô thượng bồ đề, thời chư Phật chẳng hứa khả.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì nắm lấy
tướng thời là hữu sở đắc vậy.
-
Nghĩa là ở
nơi chư Phật quá khứ nắm lấy tướng phân biệt vậy.
-
Thế nên đại
Bồ-Tát muốn dùng các thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề thời
chẳng nên nắm lấy để hồi hướng.
-
Nếu có được
và nắm lấy để hồi hướng thời chư Phật chẳng nói có lợi ích lớn.
-
Tại sao
vậy? Vì hồi hướng như vậy là tạp độc.
-
Ví như đồ
ăn ngon lộn chất độc, dầu có màu đẹp hương thơm được người ham
mà trong có chất độc. Kẻ ngu dại thích ăn vì tham màu đẹp hương
thơm vị ngon vừa miệng. Lúc thức ăn này tiêu hóa, kẻ ngu ấy bèn
thọ những khổ đau đớn chết chóc.
-
Nếu thiện
nam thiện nữ chẳng thọ trì đọc tụng rành rẽ, chẳng hiểu nghĩa
trong đây, mà giảng dạy người khác rằng:
-
Qúa khứ vị
lai hiện tại chư Phật mười phương, từ sơ phát tâm đến thành vô
thượng bồ đề, nhập vô dư y Niết-Bàn đến chánh pháp tận diệt.
Trong thời gian đó, nếu thật hành sáu ba la mật gieo trồng căn
lành, lúc tu tứ thiền tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm
xứ đến mười tám pháp bất cộng gieo trồng căn lành, lúc thanh
tịnh Phật độ thành tựu chúng sanh gieo trồng căn lành, cùng với
những giới định huệ giải thoát tri kiến nhứt thiết chủng trí,
pháp không sai lầm thường xả hành của chư Phật, và hàng đệ tử
gieo trồng căn lành, cùng những người được chư Phật thọ ký sẽ
thành Bích Chi Phật, hàng Thiên Long Bát-Bộ gieo trồng căn lành,
tất cả phước đức hòa hiệp tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Sự hồi
hướng này vì nắm lấy tướng và có pháp được nên như là món ăn lộn
chất độc.
-
Người có
pháp được thời trọn không có chánh hồi hướng.
-
Tại sao
vậy? Vì có pháp được đây thời là lộn độc có tướng có động có hí
luận.
-
Nếu hồi
hướng như vậy thời là hủy báng Phật, chẳng ntheo lời Phật dạy,
là chẳng theo chánh pháp đã nói.
-
Thiện nam
thiện nữ này cầu Phật đạo phải học như thế này:
-
Thiện căn
của tam thế chư Phật từ lúc sơ phát tâm đến thành Phật nhập vô
dư Niết-Bàn chánh pháp tận diệt cùng hàng đệ tử lúc tu hành
Bát-Nhã ba la mật đã gieo trồng, nhẫn đến lúc tu nhứt thiết
chủng trí, tất cả phước đức hồi hướng như vầy: Như trí huệ vô
thượng mà chư Phật đã biết những thiện căn tướng ấy, những thiện
căn tánh ấy, tôi cũng tùy hỉ như vậy. Như chư Phật đã biết tôi
cũng hồi hướng vô thượng bồ đề như vậy.
-
Nếu thiện
nam thiện nữ cầu Phật đạo lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, phải
hồi hướng thiện căn như vầy:
-
Như sắc
chẳng thuộc dục giới, chẳng thuộc sắc giới, chẳng thuộc vô sắc
giới, chẳng thuộc pháp, chẳng gọi quá khứ, chẳng gọi vị lai,
chẳng gọi hiện tại. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Thập
nhị xứ và thập bát giới cũng như vậy.
-
Như Bát-Nhã
ba la mật đến đàn na ba la mật chẳng thuộc dục giới, sắc giới,
vô sắc giới, chẳng thuộc pháp, chẳng gọi quá khứ, vị lai, hiện
tại. Nội không đến vô pháp hữu pháp không cũng như vậy. Tứ niệm
xứ đến mười tám pháp bất cộng cũng như vậy.
-
Như pháp
tánh, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế, bất tư nghì tánh,
giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, nhứt thiết
chủng trí chẳng thuộc dục giới sắc giới vô sắc giới, chẳng thuộc
pháp, chẳng gọi quá khứ vị lai và hiện tại.
-
Hồi hướng
này, chỗ hồi hướng này và hành giả đều chẳng hệ thuộc cũng như
vậy. Chư Phật và những thiện căn đây cũng chẳng hệ thuộc. Thiện
căn của Thanh Văn Bích Chi Phật đây cũng chẳng hệ thuộc, chẳng
thuộc pháp, chẳng tuhộc quá khứ vị lai hiện tại.
-
Nếu đại
Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật biết sắc vân vân, đều
chẳng hệ thuộc, chẳng thể đem pháp nắm lấy tướng hữu sở đắc để
hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Sắc vân vân
đây là vô sanh. Nếu pháp đã vô sanh thời là vô pháp, trong vô
pháp không thể hồi hướng.
-
Hồi hướng
như trên đây thời không xen lộn chất độc.
-
Nếu thiện
nam thiện nữ cầu Phật đạo nắm lấy tướng hữu sở đắc đem thiện căn
hồi hướng vô thượng bồ đề, thời gọi là tà hồi hướng.
-
Nếu là tà
hồi hướng thời chư Phật chẳng khen ngợi.
-
Dùng tà hồi
hướng này thời chẳng đầy đủ được đàn na ba la mật nhẫn đến
Bát-Nhã ba la mật. Chẳng đầy đủ được tứ niệm xứ đến thập lực.
Chẳng thể thanh tịnh Phật độ thành tựu chúng sanh.
-
Nếu chẳng
thể thanh tịnh Phật độ thành tựu chúng sanh thời chẳng thể được
vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy? Vì hồi hướng này xen lộn chất độc.
-
Lúc đại
Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, phải quan niệm rằng như
những thiện căn hồi hướng mà chư Phật đã biết, đó là chơn thiệt
hồi hướng, tôi cũng phải dùng pháp tướng hồi hướng ấy. Ðây gọi
là chánh hồi hướng.
-
Ðức Phật
khenngài Tu Bồ Ðề:
-
- Lành
thay, lành th ay! Vì làm Phật sự, vì chư đại Bồ-Tát mà ông nói
pháp hồi hướng chơn chánh phải thật hành. Bỡi không tướng, không
được, không xuất, không cấu, không tịnh, không pháp tánh, tự
tướng rổng không, thường tự tánh rổng không, như pháp tánh, như
thiệt tế vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu chúng sanh trong đại thiên quốc độ đều thật hành thập
thiện đạo, tứ tihền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ngũ thần
thông, ông nghĩ sao, chúng sanh ấy được phước nhiều chăng?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Chẳng
bằng thiện nam thiện nữ đối với những thiện căn tâm chẳng nắm
lấy mà hồi hướng vô thượng bồ đề. Phước này đệ nhứt hơn hết, rất
vi diệu vô thượng không gì bằng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu chúng sanh trong đại thiên quốc độ đều được Tu Ðà Hoàn
đến Bích Chi Phật.
-
Có thiện
nam thiện nữ đem tứ sự cúng dường trọn đời và cung kính tôn
trọng tán thán, cung cấp đầy đủ đồ cần dùng. Nhơn duyên này được
phước nhiều chăng?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Người này được phước rất nhiều.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Vẫn chẳng
bằng thiện nam thiện nữ đối với những thiện căn tâm chẳng nắm
lấy mà hồi hướng vô thượng bồ đề. Phước đức này đệ nhứt hơn hết,
rất vi diệu vô thượng không gì bằng.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu chúng sanh trong đại thiên quốc độ đều phát tâm bồ
đề. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa thế giới đều cung kính cúng
dường Bồ-Tát trong hằng sa kiếp. Nhơn duyên này được phước nhiều
chăng?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều vô lượng vô biên không gì thí dụ
được. Nếu phước đức này có hình dạng thời hằng sa quốc độ cũng
không dung thọ được.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Lành
thay, lành thay! Ðúng như lời ông nói. Dầu vậy nhưng chẳng bằng
thiện nam thiện nữ đối với những thiện căn tâm chẳng nắm lấy mà
hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Công đức
hồi hướng không nắm lấy này, sánh với công đức trên thời hơn cả
trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số thí dụ cũng không sánh
được.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì người
trên kia nắm lấy tướng có pháp được mà thật hành thập thiện đạo,
tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ngũ thần thông, và
nắm lấy tướng có pháp được mà cúng dường cung kính Tu Ðà Hoàn
đến cung kính cúng dường Bồ-Tát vậy.
-
Tứ Thiên
Vương và hai vạn Thiên Tử chắp tay lễ Phật mà thưa rằng:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hồi hướng rất là rộng lớn. Vì là phương tiện
lực vậy. Vì là vô sở đắc vậy.Vì là vô tướng vậy. Vì là vô giác
vậy. Ðem những thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề như vậy, thời
chẳng sa vào hai pháp.
-
Thiên Ðế
Thích Ðề Hoàn Nhơn cũng cùng vô số chư Thiên cõi Ðao Lợi và chư
Thiên Tử khác đồng đem thiên hoa, thiên hương, anh lạc, thiên
tràng phan, thiên cổ thiên nhạc cúng dường lên đức Phật thưa
rằng:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hồi hướng rất là rộng lớn. Vì là phương tiện
lực vậy. Vì là vô sở đắc vậy. Vì là vô tướng vậy. Vì là vô giác
vậy. Ðem những thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề như vậy, thời
chẳng sa vào hai pháp.
-
Chư Phạm
Thiên cùng vô số chư Thiên đến lễ chân Phật thưa rằng:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Vị tằng hữu đại Bồ-Tát được sự hỗ trợ của Bát-Nhã ba la
mật, do phương tiện lực nên hơn người nắm lấy tướng có pháp được
trên kia.
-
Quang Âm
Thiên đên Sắc Cứu Cánh Thiên cũng lễ Phật thưa như vậy.
-
Ðức Phật
bảo Tứ Thiên Vương đến chư Thiên Sắc Cứu Cánh:
-
- Chư Tihên
Tử! Nếu tất cả chúng sanh trong Ðại Thiên Thế Giới đều phát tâm
vô thượng bồ đề. Tất cả Bồ-Tát này niệm thiện căn của quá khứ vị
lai hiện tại chư Phật và của chư Thanh Văn Bích Chi Phật, từ lúc
mới phát tâm đến pháp trụ, cùng với thiện căn của tất cả chúng
sanh như là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ, giới định, huệ, giải thoát và vô lượng Phật pháp khác
đều hòa hiệp tùy hỉ tất cả. Tùy hỉ xong, đều hồi hướng vô thượng
bồ đề, vì là nắm lấy tướng hữu sở đắc vậy.
-
Lại có
thiện nam thiện nữ phát tâm vô thượng bồ đề cũng niệm thiện căn
của tam thế chư Phật và chư Thanh văn Bích Chi Phật, cùng thiện
căn của tất cả chúng sanh và những Phật pháp khác đều hòa hiệp
tùy hỉ, nhưng vì vô sở đắc, vì không hai pháp, vì không có tướng
vì chẳng nắm lấy pháp, vì khôong thấy có, đây là sự tùy hỉ đệ
nhứt hơn hết vi diệu vô thượng không gì bằng. Tùy hỉ xong hồi
hướng vô thượng bồ đề.
-
Công đức
của thiện nam thiện nữ này hơn công đức trên cả trăm ngàn muôn
ức lần, nhẫn đến không thể ví dụ được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðức Phật nói thiện nam thiện nữ hòa hiệp tùy hỉ đệ nhứt
hơn hết vi diệu vô thượng không gì bằng.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào là tùy hỉ đệ nhứt đến không gì bằng?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Nếu thiện nam thiện nữ đối với các pháp quá khứ vị lai hiện
tại mà chẳng thủ chẳng xả, chẳng nhớ chẳng phải chẳng nhớ, chẳng
được chẳng phải chẳng được. Trong các pháp đó cũng chẳng có pháp
sanh diệt cấu tịnh tăng giảm lai khứ hiệp tán nhập xuất.
-
Như các
pháp tướng, như như tướng, pháp tánh, ,pháp trụ, pháp vị, quá
khứ vị lai hiện tại, tôi cũng tùy hỉ như vậy. Tùy hỉ xong, hồi
hướng vô thượng bồ đề.
-
Ðây là hồi
hướng đệ nhứt hơn hết, vi diệu vô thượng không gì bằng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Pháp tùy hỉ này sánh với những pháp tùy hỉ khác trăm ngàn
muôn ức lần hơn, nhẫn đến thí dụ cũng không kịp được.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Thiện nam thiện nữ cầu Phật đạo, đối với tam thế thiện
căn từ sơ phát tâm đến pháp trụ của c hư Phật và chư Thanh Văn
Bích Chi Phật, nhẫn đến vô lượng Phật pháp khác, cùng thiện căn
của những chúng sanh khác, nếu muốn tùy hỉ thời phải tùy hỉ như
thế này:
-
Phải quan
niệm rằng bố thí đồng đẳng với giải thoát, năm độ kia phải đồng
đẳng với giải thoát, sắc thọ tưởng hành thức phải đồng đẳng với
giải thoát, nội không đến vô pháp hữu pháp không đồng đẳng với
giải thoát, tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần đồng đẳng với giải
thoát, thập lực đến nhứt thiết chủng trí đồng đẳng với giải
thoát, giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến đồng đẳng
với giải thoát, tùy hỉ đồng đẳng với giải thoát, các pháp quá
khứ vị lai hiện tại đồng đẳng với giải thoát, chư Phật mười
phương cùng giải thoát đồng đẳng, chư Phật hồi hướng cùng giải
thoát đồng đẳng, chư Phật cùng giải thoát đồng đẳng, chư Phật
diệt độ cùng giải thoát đồng đẳng, Thanh Văn Bích Chi Phật cùng
giải thoát đồng đẳng, pháp tướng của chư Phật cùng giải thoát
đồng đẳng, pháp tướng của Thanh Văn Bích Chi Phật cùng giải
thoát đồng đẳng. Tất cả các pháp tướng cũng cùng giải thoát đồng
đẳng, tôi đem tướng những thiện căn này tùy hỉ công đức hồi
hướng vô thượng bồ đề cũng đồng đẳng với giải thoát, vì bất sanh
bất diệt vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðây gọi là đại Bồ-Tát tùy hỉ công đức đệ nhứt hơn hết vi
diệu vô thượng không gì bằng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Bồ-Tát thành tựu công đức này thời mau được vô thượng bồ đề.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Hiện tại nếu có thiện nam thiện nữ vì cầu Phật đạo nên
trọn đời cúng dường hiện tại hằng sa chư Phật và Thanh Văn Bích
Chi Phật mười phương, cung phụng tất cả đồ cần dùng và cung kính
tôn trọng tán thán. Sau khi chư Phật này diệt độ, thiện nam
thiện nữ ấy ngày đêm siêng cần sắm sửa đồ cúng dường và tôn
trọng tán thán, vì nắm lấy tướng hữu sở đắc vậy. Thật hành trì
giới, nhẫn nhục tinh tấn thiền định trí huệ, vì nắm lấy tướng
hữu sở đắc.
-
Lại có
thiện nam thiện nữ phát tâm cầu vô thượng thật hành lục ba la
mật đem những thiện căn chẳng nắm lấy tướng vô sở đắc phương
tiện hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Phước đức
này đệ nhứt hơn hết vi diệu vô thượng không gì bằng, hơn phước
đức trên trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến ví dụ cũng không kịp
được.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc thật hành lục ba la mật như vậy, vì phương
tiện lực nên phải đem thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề, vì
chẳng nắm lấy tướng vô sở đắc vậy.
- --o0o--
|
|