|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
MƯỜI
BA
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM CHIẾU MINH THỨ BỐN MƯƠI
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðây chính là Bát-Nhã ba la mật?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Chính là
Bát-Nhã ba la mật!
-
Ngài Xá Lợi
Phật thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật hay chiếu sáng tất cả pháp, vì rốt
ráo thanh tịnh vậy.
-
Bạch đức
Thê-Tôn! Nên kính lễ Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật chẳng dính mắc ba cõi.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật trừ các sự tối tăm, vì tất cả phiền
não kiến chấp đều dứt trừ vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Trong tất cả pháp trợ đạo thời Bát-Nhã ba la mật là tối
thượng.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật là an ổn, vì hay dứt trừ tất cả bố úy
khổ não vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật hay đem lại quang minh, vì trang
nghiêm với ngũ nhãn vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật hay chỉ dẫn những chúng sanh đã sa
vào tà kiến, vì rời hẳn hai bên vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật là nhứt thiết chủng trí, vì tất cả
phiền não và tập khí dứt diệt vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật là mẹ của chư đại Bồ-Tát, vì hay xuất
sanh các Phật pháp vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật bất sanh bất diệt, vì tự tướng rỗng
không vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật xa rời sanh tử, vì chẳng phải thường
chẳng phải diệt vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật là chỗ vệ hộ của người không ai cứu
giúp, vì ban bố tất cả trân bửu vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật đầy đủ năng lực, vì không gì phá hoại
được vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật hay chuyển ba lần chuyển mười hai
hành pháp luân, vì tất cả pháp chẳng chuyển chẳng huờn vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật hay hiển thị các pháp tánh, vì vô
pháp hữu pháp không vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Phải cúng dường Bát-Nhã ba la mật thế nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Phải như
cúng dường Phật mà cúng dường Bát-Nhã ba la mật. Phải như lễ
Phật mà lễ Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì Phật
chẳng khác Bát-Nhã ba la mật và Bát-Nhã ba la mật chẳng khác
Phật. Phật tức là Bát-Nhã ba la mật và bát-Nhã ba la mật tức là
Phật.
-
Trong
Bát-Nhã ba la mật này xuất sanh chư Phật, chư Bồ-Tát, Bích Chi
Phật, A La Hán, A Na Hàm, Tư Ðà Hàm, Tu Ðà Hoàn.
-
Trong
Bát-Nhã ba la mật này xuất sanh mười thiện đạo, tứ thiền, tứ vô
lượng tâm, tứ vô sắc định, năm thần thông, nội khônog đến vô
pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến bát thánh đạo.
-
Trong
Bát-Nhã ba la mật này xuất sanh thập lực, mười tám pháp bất
cộng, đại từ đại bi, nhứt thiết chủng trí.
-
Bấy giờ
Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn nghĩ rằng do cớ gì mà ngài Xá Lợi
Phất hỏi đức Phật những sự như vậy.
-
Thiên Ðế
bèn đem ý nghĩ đó hỏi ngài Xá Lợi Phất.
-
Ngài Xá Lợi
Phất nói:
-
- Này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát được Bát-Nhã ba la mật thủ hộ, do phương tiện
lực, đối với thiện căn của tam thế chư Phật từ sơ phát tâm đến
pháp trụ, đều hòa hiệp tùy hỉ tất cả hồi hướng vô thượng bồ đề.
Vì cớ ấy nên tôi bạch hỏi việc như vậy.
-
Này Kiều
Thi Ca! Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát hơn đàn na ba la mật,
thi la ba la mật, sằn đề ba la mật, tỳ lê gia ba la mật và thiền
na ba la mật.
-
Ví như
những người sanh manh, hoặc số trăm, số ngàn, hoặc cả trăm ngàn
người, mà không ai dẫn đường, thời họ không thể vào thành được.
-
Cũng vậy,
năm ba la mật mà rời Bát-Nhã ba la mật thời như kẻ mù không
người dẫn đường, không thể tiến đạo, không thể được nhứt thiết
chủng trí.
-
Nếu được
Bát-Nhã ba la mật dắt dẫn, thời năm ba la mật gọi là có con mắt
và được danh tự ba la mật.
-
Thiên Ðế
hỏi ngài Xá Lợi Phất:
-
- Như lời
ngài nói do Bát-Nhã ba la mật dẫn dắt mà năm ba la mật được danh
tự ba la mật.
-
Thưa ngài
Xá Lợi Phất! Nếu không đàn na ba la mật tương trợ thời năm ba la
mật chẳng được danh tự ba la mật. Nếu không thi-la ba la mật,
hoặc nếu không sằn đế ba la mật, hoặc không tỳ lê gia ba la mật
hay thiền na ba la mật tương trợ, thời năm ba la mật chẳng được
danh tự ba la mật.
-
Nếu đã như
thế, tại sao chỉ riêng ca ngợi Bát-Nhã ba la mật?
-
Ngài Xá Lợi
Phất nói:
-
- Ðúng như
lời Kiều Thi Ca nói. Nếu không đàn na ba la mật vân vân, thời
năm ba la mật chẳng được danh tự ba la mật.
-
Nhưng vìi
đại Bồ-Tát an trụ trong Bát-Nhã ba la mật thời hay đầy đủ đàn na
ba la mật đến thiền na ba la mật.
-
Vì thế nên
đối với năm ba la mật, thời Bát-Nhã ba la mật là đệ nhứt trên
hết, là tối diệu vô thượng không gì bằng.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa đức Phật:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Phải phát sanh Bát-Nhã ba la mật thế nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Vì sắc
chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật sanh. Vì thọ tưởng hành thức
chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật sanh. Vì đàn na ba la mật đến
thiền na ba la mật chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật sanh. Vì nội
không đến vô pháp hữu pháp không chẳng sanh, vì tứ niệm xứ đến
nhứt thiết chủng trí chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật sanh.
-
Vì tất cả
pháp chẳng sanh như vậy nên Bát-Nhã ba la mật phải sanh.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào là vì sắc chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật
sanh. Nhẫn đến thế nào là vì tất cả pháp chẳng sanh nên Bát-Nhã
ba la mật phải sanh?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Sắc chẳng
khởi sanh vì là chẳng được chẳng mất vậy. Nhẫn đến tất cả pháp
chẳng khởi chẳng sanh vì là chẳng được chẳng mất vậy. Do đó mà
Bát-Nhã ba la mật sanh.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Sanh bát-Nhã ba la mật như vậy hiệp với những pháp nào?
Ðức Phật nói:
-
- Không có
cùng hiệp. Thế nên được gọi là Bát-Nhã ba la mật.
-
Ngài Xá Lợi
Phật thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Chẳng cùng hiệp với những pháp nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Chẳng
cùng hiệp với pháp bất thiện, chẳng cùng hiệp với pháp thiện,
chẳng cùng hiệp với pháp thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp hữu
lậu, chẳng cùng hiệp với pháp vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp
tội, chẳng cùng hiệp với pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với pháp
hữu vi, chẳng cùng hiệp với pháp vô vi.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì Bát-Nhã
ba la mật chẳng vì được các pháp mà sanh. Thế nên đối với các
pháp không chỗ cùng hiệp.
-
Thiên Ðế
thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật này cũng chẳng hiệp với nhứt thiết
trí chăng?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðúng như
vậy. Này Kiều Thi Ca! Bát-Nhã ba bla mật cũng chẳng hiệp và nhứt
thiết trí cũng chẳng được.
-
Tại sao
vậy?
-
Bát-Nhã ba
la mật chẳng như danh tự, chẳng như tướng, chẳng như pháp khởi
tác hiệp.
-
Thiên Ðế
thưa:
-
- Nay hiệp
thế nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Nếu đại
Bồ-Tát như chẳng lấy chẳng thọ chẳng ở chẳng mắc chẳng dứt, hiệp
như vậy cũng không chỗ hiệp. Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật tất cả
pháp hiệp cũng không chỗ hiệp.
-
Thiên Ðế
thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thật là chưa từng có. Bát-Nhã ba la mật này vì tất cả
pháp chẳng khởi chẳng sanh chẳng được chẳng mất nên sanh.
-
Ngài Tu Bồo
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật mà quan
niệm rằng Bát-Nhã ba la mật hoặc hiệp với tất cả pháp, hoặc
chẳng hiệp. Thời vị Bồ-Tát này đã bỏ Bát-Nhã ba la mật, đã xa
rời Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Lại có nhơn duyên mà đại Bồ-Tát bỏ xa lìa Bát-Nhã ba la mật.
-
Nếu đại
Bồ-Tát quan niệm rằng Bát-Nhã ba la mật này không có chỗ trống
rỗng chẳng cứng chắc.
-
Ðại Bồ-Tát
này thời là bỏ và lìa xa Bát-Nhã ba la mật.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Tin Bát-Nhã ba la mật là chẳng tin pháp nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Tin
Bát-Nhã ba la mật thời chẳng tin sắc, chẳng tin thọ tưởng hành
thức, chẳng tin nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý, chẳng tin sắc thanh
hương vị xúc pháp, chẳng tin nhãn giới đến ý thức giới, chẳng
tin đàn na ba la mật đến thiền na ba la mật, chẳng tin nội không
đến vô pháp hữu pháp không, chẳng tin tứ niệm xứ đến bát thánh
đạo phần, chẳng tin thập lực đến mười tám pháp bất cộng, chẳng
tin quả Tu Ðà Hoàn đến đạo Bích Chi Phật, chẳng tin đạo Bồ-Tát,
chẳng tin vô thượng bồ đề nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì sắc bất
khả đắc nên tin Bát-Nhã ba la mật thời chẳng tin sắc. Nhẫn đến
vì nhứt thiết chủng trí bất khả đắc nên tin Bát-Nhã ba la mật
thời chẳng tin nhứt thiết chủng trí.
-
Thế nên,
này Tu Bồ Ðề! Lúc tin Bát-Nhã ba la mật thời chẳng tini sắc nhẫn
đến nhứt thiết chủng trí.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật này gọi là đại ba la mật.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì Bát-Nhã ba la mật
này chẳng làm sắc lớn, chẳng làm sắc nhỏ, nhẫn đến vô thượng bồ
đề chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, chư Phật chẳng làm lớn chẳng làm
nhỏ.
-
Vì Bát-Nhã
ba la mật này chẳng làm sắc hiệp, chẳng làm sắc tan, nhẫn đến
chư Phật chẳng làm hiệp chẳng làm tan.
-
Vì Bát-Nhã
ba la mật này chẳng làm sắc vô lượng, chẳng làm sắc chẳng phải
vô lượng, nhẫn đến chư Phật chẳng làm vô lượng, chẳng làm chẳng
phải vô lượng.
-
Vì Bát-Nhã
ba la mật này chẳng làm sắc rộng, chẳng làm sắc hẹp, nhẫn đến
chư Phật chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp.
-
Vì Bát-Nhã
này chẳng làm sắc hữu lực, chẳng làm sắc vô lực, nhẫn đến chư
Phật chẳng làm hữu lực, chẳng làml vô lực.
-
Do nhơn
duyên trên đây nên Bát-Nhã ba la mật gọi là đại ba la mật.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu Bồ-Tát mới phát tâm chẳng xa lìa Bát-Nhã ba la mật,
chẳng xa lìa thiền na ba la mật đến đàn na ba la mật, quan niệm
rằng Bát-Nhã ba la mật này chẳng làm sắc lớn chẳng làm sắc nhỏ,
chẳng làm sắc hiệp chẳng làm sắc tan, chẳng làm sắc vô lượng,
chẳng làm sắc hữu lực, chẳng làm sắc vô lực. Nhẫn đến chư Phật
cũng như vậy.
-
Bồ-Tát biết
như vậy thời là chẳng hiện hành Bát-Nhã ba la mật. Tại sao vậy?
Vì chẳng phải tướng Bát-Nhã ba la mật. Nghĩa là làm sắc lớn hỏ
đến hữu lực vô lực. Nhẫn đến chư Phật làm lớn nhỏ hữu lực vô
lực.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Vì dụng hữu sở đắc, Bồ-Tát này bèn có lỗi lầm lớn.
Nghĩa là lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật làm sắc lớn nhỏ, nhẫn
đến chư Phật, làm hữu lực vô lực.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì người
hữu sở đắc thời không vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì c húng
sanh chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật chẳng sanh, nhẫn đến vì
Phật chẳng sanh nên Bát-Nhã ba la mật chẳng sanh.
-
Vì chúng
sanh tánh không nên Bát-Nhã ba la mật tánh không. Vì sắc tánh
không nên Bát-Nhã ba la mật tánh không. Nhẫn đến vì Phật tánh
không nên Bát-Nhã ba la mật tánh không.
-
Vì chúng
sanh chẳng phải pháp nên Bát-Nhã ba la mật chẳng phải pháp. Vì
sắc chẳng phải pháp nên Bát-Nhã ba la mật chẳng phải pháp. Nhẫn
đến vì Phật chẳng phải pháp nên Bát-Nhã ba la mật chẳng phải
pháp.
-
Vì c húng
sanh sắc đến Phật rỗng không nên Bát-Nhã ba la mật rỗng không.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật ly nên Bát-Nhã ba la mật ly.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật không có nên Bát-Nhã ba la mật không có.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật bất khả tư nghì nên Bát-Nhã ba la mật bất tư
nghì.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật chẳng diệt nên Bát-Nhã ba la mật chẳng diệt.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật bất khả tri nên Bát-Nhã ba la mật bất khả tri.
-
Vì chúng
sanh sắc đến Phật, lực chẳng thành tựu nên Bát-Nhã ba la mật lực
chẳng thành tựu.
-
Thế nên,
bạch đức Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát gọi là đại ba
la mật vậy.
-
- --o0o--
|
|