|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
MƯỜI
BA
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM TÍN HỦY THỨ BỐN MƯƠI MỐT
-
Ngài Xá
Lợi Phất thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Có đại Bồ-Tát tin hiểu Bát-Nhã ba la mật này. Ðại
Bồ-Tát ấy từ đâu sanh nơi đây? Phát tâm bồ đề được bao lâu? Ðã
cúng dường bao nhiêu đức Phật? Thật hành sáu ba la mật được bao
lâu mà nay có thể tùy thuận và hiểu thâm nghĩa Bát-Nhã ba la
mật.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðại
Bồ-Tát này cúng dường chư Phật mười phương đến sanh nơi đây. Ðại
Bồ-Tát này đã phát tâm vô thượng bồ đề từ vô lượng vô biên a
tăng kỳ trăm ngàn muôn ức kiếp. Từ lúc mơí phát tâm bồ đề, đại
Bồ-Tát này thường thật hành sáu ba la mật.
-
Này Xá Lợi
Phất! Ðại Bồ-Tát này đã thấy hay nghe Bát-Nhã ba la mật liền
nghĩ rằng tôi thấy Phật, nghe Phật t huyết pháp.
-
Này Xá Lợi
Phất! Ðại Bồ-Tát này hay tùy thuận hiểu thâm nghĩa Bát-Nhã ba la
mật. Vì vô tướng, vô nhị và vô sở đắc vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật này, có thể nghe có thể thấy được
chăng?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Bát-Nhã
ba la mật này, không có ai nghe cũng không có ai thấy.
-
Bát-Nhã ba
la mật, không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
-
Thiền na ba
la mật, tỳ lê gia ba la mật, sằn đề ba la mật, thi la ba la mật,
và đàn na ba la mật, không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
-
Tứ niệm xứ
đến bát thánh đạo, không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
-
Thập lực
đến bất cộng pháp, không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
-
Phật và
Phật đạo, không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thật hành Phật đạo bao lâu mà Bồ-Tát này có thể thật
hành thâm Bát-Nhã ba la mật này?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Trong đây phải phân biệt để nói.
-
Có đại
Bồ-Tát sơ phát tâm tập thật hành thâm sáu ba la mật, do sức
phương tiện nên đối với các pháp không chỗ phá hoại, chẳng thấy
các pháp có pháp nào là không lợi ích, cũng trọn chẳng xa rời
thật hành sáu ba la mật, cũng chẳng xa lìa chư Phật. Từ một thế
giới đến một thế giới, nếu muốn dùng sức thiện căn để cúng dường
chư Phật, thời tùy ý liền được. Vĩnh viễn chẳng còn thác sanh
trong bụng bà mẹ nhơn loại. Trọn chẳng rời những thần thông,
trọn chẳng sanh những phiền não và tâm niệm Thanh Văn Bích Chi
Phật. Từ một quốc độ đến một quốc độ để thành tựu chúng sanh
thanh tịnh Phật độ.
-
NÀy Tu Bồ
Ðề! Chư đại Bồ-Tát có thể tập thật hành thâm Bát-Nhã ba la mật
như vậy.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Có đại Bồ-Tát thất chư Phật nhiều. Hoặc từ vô lượng trăm
ngàn muôn ức kiếp theo chư Phật thật hành sáu ba la mật, vì
không sức phương tiện, đều vì có sở đắc, nên lúc nghe giảng
thuyết thâm Bát-Nhã ba la mật, liền từ trong chúng hội bỏ đi,
chẳng cung kính thâm Bát-Nhã ba la mật và chư Phật. Chư Bồ-Tát
ấy hiện nay ngồi trong đại chúng này, nghe thâm Bát-Nhã ba la
mật, vì không thích nên bèn bỏ đi.
-
Tại sao
vậy?
-
Vìi những
người này đời trước lúc nghe nói thâm Bát-Nhã ba la mật bèn bỏ
đi nên đời nay nghe nói thâm Bát-Nhã ba la mật cũng bỏ đi, thân
tâm không hòa.
-
Những người
này gieo trồng giống nghiệp duyên ngu si.
-
Do nghiệp
duyên ngu si nên khi nghe giảng th âm Bát-Nhã ba la mật bèn
khinh chê. Vì khinh chê thâm Bát-Nhã ba la mật nên tức là khinh
chê nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí của tam thế chư Phật.
-
Vì người
này khinh chê nhứt thiết trí của tam thế chư Phật nên phát khởi
nghiệp phá pháp. Do tội phá pháp kết hợp nhơn duyên nên đọa
trong đại địa ngục vô lượng trăm ngàn muôn ức năm.
-
Những người
phá pháp này, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục. Nơi đó
lúc hỏa kiếp phát khởi, người này lại dời đến một đại địa ngục ở
cõi khác mà thác sanh, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục.
Nếu lúc cõi đó hỏa tai phát khởi, thời người này lại thác sanh
vào đại địa ngục ở cõi khác. Lần lượt thác sanh như vậy khắp thế
giới mười phương. Vì tội phá pháp chưa hết, nên sanh trở lại
cõi này, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục thọ vô lượng
khổ. Cõi này phát khởi hỏa kiếp lại thác sanh vào đại địa ngục
cõi khác.
-
Người này
lúc thác sanh vào súc sanh chịu khổ vì tội phá pháp cũng vậy.
-
Lúc tội
nạng lần mỏng nhẹ, người này hoặc được thân nhơn loại, sanh vào
nhà người sanh manh, hoặc sanh vào nhà chiên đà la, sanh vào
những nhà hạ tiện như hốt phân hay khiên thây người chết vân
vân. Hoặc không con mắt, hoặc một moắt, hoặc mắt mù, không lưỡi,
không tai, không chân tay. Nơi người này thác sanh không có
Phật, không có chánh pháp, không có Phật tử. Tại sao vậy? Vì tội
phá pháp chứa nhóm quá sâu nặng nên thọ lấy quả báo như vậy.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Tội ngũ nghịch cùng tội phá pháp có tương tợ nhau
không?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Chẳng nên
bảo là tương tợ. Tại sao vậy?
-
Nếu có
người nghe nói thâm Bát-Nhã ba la mật mà chẳng tin rồi hủy báng
rằng chẳng nên học pháp ấy. Ðó là phi pháp, chẳng phải pháp
lành, chẳng phải lời Phật dạy, chẳng phải Phật giáo.
-
Người này
tự mình hủy báng cũng bảo người khác hủy báng Bát-Nhã ba la mật.
-
Người inày
tự phá hoại thân mình cũng phá hoại thân người khác.
-
Người này
tự uống độc dược giết thân mình cũng đầu độc người khác.
-
Người này
tự làm mất thân mình cũng làm mất thân người khác.
-
Người này
tự chẳng tin chẳng biết thâm Bát-Nhã ba la mật cũng làm người
khác chẳng tin biết.
-
Này Xá Lợi
Phất! Ta còn chẳng cho nghe danh tự của người ấy huống là mắt
thấy và cùng ở.
-
Tại sao
vậy?
-
Phải biết
người này gọi là kẻ làm nhơ chánh pháp, bị sa vào tánh đen trượt
suy hoại.
-
Những ai
nghe và tin dùng lời người này thời cũng thọ khổ như vậy.
-
Này Xá Lợi
Phất! Nếu người nào phá hủy Bát-Nhã ba la mật thời gọi là kẻ
hoại pháp.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Ðức
Thế-Tôn nói người hoại pháp phải mang lấy trọng tội mà chẳng nói
thân thể lớn nhỏ của người này phải thọ.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Chẳng cần
nói người này thọ thân lớn nhỏ.
-
Tại sao
vậy?
-
Người phá
pháp này nếu nghe thân thể lớn nhỏ mà mình phải thọ thời sẽ thổ
máu nóng, hoặc chết hoặc sắp chết.
-
Người phá
pháp này nghe thân thể như vậy, có trọng tội nư vậy, sẽ rất buồn
lo như mũi tên đâm vào tim, sẽ lần khô héo mà nghĩ rằng vì tội
phá pháp nên mắc lấy thân đại quỷ thọ vô lượng khổ như vậy.
-
Vì thế nên
Phật chẳng cho Xá Lợi Phất hỏi thân lớn nhỏ mà người phá pháp
này phải thọ.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Xin đức
Thế-Tôn nói để làm điều răn sáng suốt cho người đời sau, khiến
biết rằng tội nghiệp phá pháp mắc phải thân lớn xấu thọ khổ như
vậy.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Người đời
sau nếu nghe tội phá pháp nghiệp nhơn dầy nặng đầy đủ phải chịu
vô lượng khổ rất lâu trong đại địa ngục, cũng đủ làm điều răn
sáng suốt rồi.
-
Ngài Xá Lợi
Phất thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu thiện nam thiện nữ tánh thiện thanh tịnh được nghe
pháp này cũng đủ làm chỗ y chỉ, thà mất thân mạng chớ chẳng hủy
phá chánh pháp thời sẽ phải thọ lấy sự khổ như vậy.
-
Ngnài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Những
thiện nam thiện nữ phải khéo nhiếp thân khẩu ý ba nghiệp, chớ để
thọ lấy sự khổ như vậy, hoặc chẳng được thấy Phật, hoặc c hẳng
được nghe pháp, hoặc chẳng được thân cận chư Tăng, hoặc sanh ở
quốc độ không Phật, hoặc sanh nhà bần cùng, hoặc mọi người chẳng
tin thọ lời nói.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Do nơi khẩu nghiệp nhơn duyên, có tội nặng pháp pháp
như vậy chăng?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Do nơi
khẩu nghiệp nhơn duyên co 1tội nặng phá pháp như vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Người ngu si ấy ở trong Phật pháp xuất gia thọ giới rồi phá
thâm Bát-Nhã ba la mật, chê bai chẳng tín thọ.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu phá Bát-Nhã ba la mật, chê bai Bát-Nhã ba la mật, thời
là phá nhứt thiết trí của chư Phật mười phương. Phá nhứt thiết
trí là phá Phật bảo. Phá Phật bảo thời là phá pháp bảo. Phá
pháp bảo thời là phá tăng bảo. Phá tam bảo thời là phá chánh
kiến của thế gian. Phá chánh kiến thế gian thời là phá tứ niệm
xứ đến nhứt thiết chủng trí. Phá nhứt thiết chủng trí thời mắc
vô lượng vô biên a tăng kỳ tội thời phải thọ lấy vô lượng vô
biên a tăng kỳ sự ưu khổ.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Có mấy nhơn duyên mà người ngu si này chê bai phá hoại
thâm Bát-Nhã ba la mật?
-
Ðức Phậ
nói:
-
- Có bốn
nhơn duyên. Một là bị ma sai tử. Hai là chẳng tin thâm pháp,
chẳng tin chẳng hiểu, tâm không thanh tịnh. Ba là gần gũi thầy
bạn ác, tâm mê tối giãi đãi chấp chặc thân ngũ ấm. Bốn là nhiều
sân giận tự cao khinh người.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Do bốn nhơn duyên trên đây mà người ngu si muốn phá hoại
thâm Bát-Nhã ba la mật.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Người tương đắc với bạn ác gieo trồng điều bất thiện
chẳng siêng năng tinh tấn tu pháp lành thời khó tin hiểu thâm
Bát-Nhã ba la mật này.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðúng như
vậy. Người ấy khó tin khó hiểu thâm Bát-Nhã ba la mật này.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào Bát-Nhã ba la mật này rất sâu khó tin khó
hiểu?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Sắc chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở hữu là
sắc.
-
Thọ tưởng
hành thức chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở hữu là
thọ tưởng hành thức.
-
Ðàn na ba
la mật đến Bát-Nhã ba la mật chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy?
Vì tánh vô sở hữu là sáu ba la mật.
-
Nội không
đến vô pháp hữu pháp không chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì
tánh vô sở hữu là nội không đến vô pháp hữu pháp không.
-
Tứ niệm xứ
đến nhứt thiết và nhứt thiết chủng trí chẳng trói chẳng mở. Tại
sao vậy? Vì tánh vô sở hữu là tứ niệm xứ đến nhứt thiết trí và
nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sắc bốn tể chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậ y? Vì bốn tể tánh
vô sở hữu là sắc.
-
Nhẫn đến
nhứt thiết chủng trí bốn tể chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì
bốn tể tánh vô sở hữu là nhứt thiết c hủng trí.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sắc hậu tế nhẫn đến n hứt thiết chủng trí hậu tế chẳng trói
chẳng mở. Tại sao vậy? Vì hậu tế tánh vô sở hữu là sắc, nhẫn đến
là nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sắc hiện tại nhẫn đến nhứt thiết chủng trí hiện tại chẳng
trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì hiện tại tánh vô sở hữu là sắc
nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Những người chẳng chuyên cần tinh tấn, chẳng gieo trồng
căn lành, gần gũi bạn ác, giãi đãi, ưa quên, không trí huệ thiện
xảo phương tiện, thiệt khó tin khó hiểu Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Ðúng như vậy. Những người ấy thiệt khó tin khó hiểu Bát-Nhã
ba la mật này. Tại sao vậy? Vì sắc thanh tịnh thời quả cũng
thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức thanh tịnh thời quả cũng thanh
tịnh. Nhẫn đến vô thượng bồ đề thanh tịnh thời quả cũng thanh
tịnh.
-
Lại vì sắc
thanh tịnh tức là Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh. Bát-Nhã ba la
mật thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh.
-
Nhẫn đến
nhứt thiết chủng trí thanh tịnh tức là Bát-Nhã ba la mật thanh
tịnh. Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh tức là nhứt thiết chủng trí
thanh tịnh.
-
Sắc thanh
tịnh và Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh không hai không khác không
đoạn không hoại. Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí thanh tịnh và
Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh không hai không khác không đoạn
không hoại.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Vì chẳng hai thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì chẳng hai
thanh tịnh nên nhứt thiết chủng trí thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì chẳng hai thanh tịnh này cùng sắc thanh tịnh đến nhứt
tihết chủng trí thanh tịnh không hai không khác.
-
Vì ngã
thanh tịnh, chúng sanh đến tri kiến giả thanh tịnh nên sắc nhẫn
đến nhứt thiết chủng trí thanh tịnh.
-
Vì sắc nhẫn
đến nhứt thiết chủng trí thanh tịnh nên ngã chúng sanh nhẫn đến
tri giả kiến giả thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì ngã đến kiến giả thanh tịnh này cùng với sắc đến nhứt
thiết chủng trí thanh tịnh chẳng haichẳng khác không đoạn không
hoại.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì tham sân si thanh tịnh nên sắc đến nhứt thiết chủng trí
thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì tham sân si thanh tịnh cùng với sắc đến nhứt thiết
chủng trí thanh tịnh chẳng hai chẳng khác.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì vô minh thanh tịnh nên hành thanh tịnh. Vì hành thanh
tịnh nên thức thanh tịnh. Vì thức thanh tịnh nên danh sắc thanh
tịnh. Vì danh sắc thanh tịnh nên lục nhập thanh tịnh. Vì lục
nhập thanh tịnh nên xúc thanh tịnh. Vì xúc thanh tịnh nên thọ
thanh tịnh. Vì thọ thanh tịnh nên ái thanh tịnh. Vì ái thanh
tịnh nên thủ thanh tịnh. Vì thủ thanh tịnh nên hữu thanh tịnh.
Vì hữu thanh tịnh nên sanh thanh tịnh. Vì sanh thanh tịnh nên
lão tử thanh tịnh. Vì lão tử thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh. Vì Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh nên thiền na thanh
tịnh. Nhẫn đến vì đàn na thanh tịnh nên nội không thanh tịnh. Vì
nội không thanh tịnh nên nhẫn đến vô pháp hữu pháp không thanh
tịnh. Vì vô pháp hữu pháp không thanh tịnh nên tứ niệm xứ nhẫn
đến nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì nhứt thiết trí thanh tịnh nên
nhứt thiết chủng trí thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì nhứt thiết trí này cùng với nhứt thiết chủng trí không
hai không khác không đoạn không hoại.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Vì Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh nên sắc thanh tịnh.
Nhẫn đến vì Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh nên nhứt thiết trí
thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật này cùng với nhứt thiết trí không hai
không khác.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì thiền na ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến nhứt thiết trí
thanh tịnh. Nhẫn đến vì đàn na ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì nội không thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh. Vì tứ niệm xứ thanh tịnh nên nhẫn đến
nhứt thiết trí thanh tịnh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì nhứt thiết trí thanh tịnh nên nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì hữu vi thanh tịnh cùng với vô vi thanh tịnh không hai
không khác không đoạn không hoại.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh. Vì
vị lai thanh tịnh nên quá khứ và hiện tại thanh tịnh. Vì hiện
tại thanh tịnh nên quá khứ và vị lai thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy? Vì hiện tại thanh tịnh cùng với quá khứ và vịl ai thanh
tịnh không hai không khác không đoạn không hoại vậy.
-
|
|