|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
MƯỜI
BA
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM VÔ TÁC THỨ BỐN MƯƠI BA
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật này kkhông sở tác!
-
Ðức Phật
nói:
-
- Vì tác
giả bất khả đắc. Vì sắc bất khả đắc nhẫn đến tất cả pháp bất khả
đắc.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Nếu đại
Bồ-Tát muốn thật hành Bát-Nhã ba la mật thời phải thật hành thế
nào?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Muốn thật
hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng hành nới sắc, chẳng
hành nơi thọ tưởng hành thức, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết
chủng trí, thời đó là thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát,
nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành thường hay vô
thường, thời là thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát,
nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành hoặc khổ hoặc
vui, thời là thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát,
nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành là ngã hay
chẳng phải ngã, thời là thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát,
nơi sắc nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, chẳng hành tịnh hay bất
tịnh, thời thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì sắc thọ
tưởng hành thức nhẫn đến nhứt thiết chủng trí đây vốn không có
tánh, thời thế nào lại có thường, có vô thường, có khổ, có vui,
có ngã, có chẳng ngã, có tịnh, có bất tịnh.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng hành
sắc chẳng đầy đủ, nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí chẳng
đầy đủ, thời là thật hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao
vậy? Vì sắc chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là sắc, như đây cũng
chẳng hành thời là thật hành Bát-Nhã ba la mật. Nhẫn đến nhứt
thiết chủng trí chẳng đầy đủ thời chẳng gọi là nhứt thiết chủng
trí, như đây cũng chẳng hành thời là thật hành Bát-Nhã ba la
mật.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Thật chưa
từng có. Ðức Thế-Tôn khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng
chẳng ngại của những thiện nam thiện nữ cầu đạo Bồ-Tát.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðúng như
vậy. Phật khéo nói tướng dạng ngại cùng tướng dạng chẳng ngại
của những thiện nam thiện nữ cầu đạo Bồ-Tát.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, nếu đại Bồ-Tát chẳng
hành sắc, chẳng chứớng ngại, thời là hành Bát-Nhã ba la mật.
Nhẫn đến chẳng hành nhứt thiết chủng trí, chẳng chướng ngại,
thời là hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật như vậy, đại Bồ-Tát biết sắc
là chẳng chướng ngại, biết thọ tưởng hành thức là chẳng chướng
ngại, nhẫn đến biết nhứt thiết chủng trí là chẳng chướng ngại,
nhẫn đến biết đạo vôo thượng bồ đề là chẳng chướng ngại.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Chưa từng
có vậy, bạch đức Thế-Tôn!
-
Pháp thậm
thâm này, hoặc giảng thuyết hoặc chẳng giảng thuyết cũng đều
chẳng tăng chẳng giảm.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðúng như
vậy. Pháp thậm thâm này, hoặc nói hoặc chẳng nói cũng đều chẳng
tăng chẳng giảm.
-
Ví như đức
Phật, hoặc khen ngợi hoặc chê bai đến trọn đời, vẫn như hư
không, hoặc khen ngợi hoặc chê bai, cũng đều chẳng tăng chẳng
giảm.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như ảo nhơn, lúc khen hay lúc chê cũng đều chẳng tăng chẳng
giảm. Lúc khen chẳng mừng, lúc chê chẳng lo.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Pháp tướng của các pháp cũng như vậy, lúc nói cũng như bổn
không khác, lúc chẳng nói cũng như bổn không khác.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Chỗ làm của chư đại Bồ-Tát rất khó. Lúc tu hành Bát-Nhã
ba la mật này, các ngài chẳng mừng chẳng lo, mà có thể thực tập
bát-Nhã ba la mật. Cũng chẳng thối chuyển nơi vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tu hành Bát-Nhã ba la mật như tu hành hư không.
-
Như trong
hư không, không có Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến không có đàn na ba
la mật. Như trong hư không, không có sắc thọ tưởng hành thức
nhẫn đến không có mười tám pháp bất cộng. Như trong hư không,
không có quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến đạo vô thượng bồ đề. Tu Bát-Nhã
ba la mật cũng như vậy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tất cả đều nên kính lễ chư đại Bồ-Tát có thể đại thệ
trang nghiêm này.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này vì chúng sanh mà đại thệ trang
nghiêm chuyên cần tinh tấn, như hư không đại thệ trang nghiêm
chuyên cần tinh tấn.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này muốn độ chúng sanh như muốn độ hư
không.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này đại thệ trang nghiêm, như là hư
không khắp cả chúng sanh đại thệ trang nghiêm.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này đại thệ trang nghiêm muốn độ chúng
sanh như là cất hư không lên.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này được sức đại tinh tấn, vì muốn độ
chúng sanh mà phát tâm vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát này rất dũng mãnh vì độ chúng sanh đồng
như hư không mà phát tâm vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu chư Phật đầy cả trong cõi Ðại Thiên như là tre lau
mía lúa mè lùm rừng, thường thuyết pháp luôn cả một kiếp hoặc
gần một kiếp. Mỗi đức Phật độ vô lượng vôo biên vô số chúng sanh
làm cho họ nhập Niết-Bàn.
-
Tánh chúng
sanh này cũng vẫn chẳng tăng chẳng giảm.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì chúng
sanh vốn vô sở hữu vậy, là ly vậy.
-
Nhẫn đến
chư Phật trong quốc độ mười phương độ chúng sanh, tánh chúng
sanh vẫn không tăng không giảm cũng như vậy.
-
Do nhơn
duyên ấy, Bạch đức Thế-Tôn! Tôi nói rằng chư đại Bồ-Tát này vì
muốn độ chúng sanh mà phát tâm vô thượng bồ đề, là muốn độ hư
không.
-
Bấy giờ có
một tỳ kheo nói rằng:
-
- Tôi phải
đảnh lễ Bát-Nhã ba la mật.
-
Trong
Bát-Nhã ba la mật dầu không pháp sanh không pháp diệt, mà có
chánh giới, có chúng chánh định, có chúng chánh huệ, có chúng
giải thoát, có chúng giải thoát tri kiến. Mà có các bực Tu Ðà
Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, chư Phật. Mà
có Phật bửu, Pháp bửu, Tỳ kheo Tăng bửu. Mà có chuyển pháp luân.
-
Lúc đó
Thiên Ðế hỏi ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Nếu đại
Bồ-Tát tu tập Bát-Nhã ba la mật là tu tập pháp gì?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề bảo Thiên Ðế:
-
- Này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát này tu tập Bát-Nhã ba la mật là tu tập
không.
-
Thiên Ðế
bạch Phật:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu thiện nam thiện nữ thọ trì Bát-Nhã ba la mật này và
thân cận đọc tụng giải thuyết chánh ức niệm, thời tôi phải thủ
hộ những gì?
-
Ngài Tu Bồ
Ðề hỏi Thiên Ðế:
-
- Này Kiều
Thi Ca! Ngài có thấy pháp gì có thể thủ hộ được chăng?
-
Thiên Ðế
nói:
-
- Không.
Bạch Ðại đức! Tôi chẳng thấy pháp gì có thể thủ hộ được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu thiện
nam thiện nữ tu hành đúng như lời dạy trong Bát-Nhã ba la mật,
thời chính là thủ hộ. Nghĩa là thường tu hành đúng như lời dạy
trong Bát-Nhã ba la mật mà chẳng xa rời, thời hoặc người hay phi
nhơn không làm hại được thiện nam thiện nữ này.
-
Phải biết
rằng thiện nam thiện nữ này chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Kiều
Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ hàng Bồ-Tát tu hành Bát-Nhã ba la
mật, thời là muốn thủ hộ hư không.
-
Này Kiều
Thi Ca! Ý ngài nghĩ sao? Ngài có thể thủ hộ mộng, diệm, ảnh,
hưởng, ảo, hóa được chăng?
-
Thiên Ðế
nói:
-
- Không thể
thủ hộ được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu ai
muốn thủ hộ chư Bồ-Tát tu hành Bát-Nhã ba la mật thời cũng như
vậy. Chỉ luống nhọc nhằn thôi.
-
Này Kiều
Thi Ca! Ngài có thể thủ hộ chỗ biến hóa của Phật chăng?
-
Thiên Ðế
nói:
-
- Tôi chẳng
thủ hộ được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu ai
muốn thủ hộ chư Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật thời cũng như
vậy.
-
Này Kiều
Thi Ca! Có thể thủ hộ pháp tánh, thiệt tế, pháp như, bất tư nghì
tánh chăng?
-
Thiên Ðế
nói:
-
- Không thể
thủ hộ được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Nếu có
ai muốn thủ hộ chư Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật thời
cũng như vậy.
-
Thiên Ðế
hỏi:
-
- Thưa ngài
Tu Bồ Ðề! Thế nào đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật thấy
biết các pháp như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như ảo,
như hóa? Thế nào chư đại Bồ-Tát như chỗ mình thấy biết nên chẳng
quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm dùng
mộng, chẳng quan niệm tôi mộng?
-
Như mộng,
với diệm, ảnh, hưởng, ảo và hóa cũng vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề nói:
-
- Này Kiều
Thi Ca! Nếu đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng quan
niệm sắc, chẳng quan niệm là sắc, chẳng quan niệm dùng sắc,
chẳng quan niệm sắc của tôi, thời đại Bồ-Tát này cũng có thể
chẳng quan niệm mộng, chẳng quan niệm là mộng, chẳng quan niệm
dùng mộng, chẳng quan niệm tôi mộng, nhẫn đến ảo và hóa cũng
vậy.
-
Nếu đại
Bồ-Tát nhẫn đến nhứt thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí,
chẳng quan niệm là nhứt thiết trí, chẳng quan niệm dùng nhứt
thiết trí, chẳng quan niệm nhứt thiết trí của tôi, thời đại
Bồ-Tát này cũng có thể nhẫn đến chẳng quan niệm hóa, chẳng quan
niệm dùng hóa, chẳng quan niệm hóa của tôi.
-
Này Kiều
Thi Ca! Ðại Bồ-Tát như vậy biết các pháp như mộng, như diệm, như
ảnh, như hưởng, như ảo, như hóa.
-
Bấy giờ do
thần lực của Phật, nên trong Ðại Thiên Thế Giới, các hàng trời
Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Dạ Ma, trời Ðâu Suất, trời
Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Thiên, trời Phạm Phụ,
trời Phạm Chúng, trời Ðại Phạm, trời Thiểu Quang, nhẫn đến trời
Tịnh Cư, tất cả hàng ntrời này đem hương chiên đàn cõi trời vói
rải trên đức Phật, cùng nhau đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chơn
Phật, rồi đứng qua một phía.
-
Do thần lực
của Phật, nên hàng trời này đều thấy ngàn đức Phật phương đông
thuyết pháp, cùng tướng dạng như vậy, danh hiệu như vậy, giảng
nói phẩm Bát-Nhã ba la mật này, chư Tỳ Kheo đều tên Tu Bồ Ðề,
người gạn hỏi phẩm Bát-Nhã ba la mật đều tên Thích Ðề Hoàn Nhơn.
-
Như phương
đông, chín phương kia cũng đều hiện ngàn đức Phật như vậy.
-
Ðức Phật
bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Thời kỳ
Di Lặc đại Bồ-Tát chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng sẽ
nói Bát-Nhã ba la mật tại chỗ này. Chư đại Bồ-Tát trong hiền
kiếp, lúc chứng vô thượng bồ đề cũng ở tại chỗ này mà nói
Bát-Nhã ba la mật.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Lúc ngài Di Lặc Bồ-Tát thành Phật, dùng tướng gì, nhơn
gì, nghĩa gì mà nói nghĩa Bát-Nhã ba la mật?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Lúc Di Lặc chứng vô thượng bồ đề sẽ thuyết pháp như vầy:
-
Sắc chẳng
phải thường, chẳng phải vô thường.
-
Sắc chẳng
phải khổ, chẳng phải lạc.
-
Sắc chẳng
phải ngã, chẳng phải vô ngã.
-
Sắc chẳng
phải tịnh, chẳng phải bất tịnh.
-
Sắc chẳng
phải hệ phược, chẳng phải giải thoát.
-
Sắc chẳng
phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
-
Sắc rốt ráo
thanh tịnh.
-
Thọ tưởng
hành và thức nhẫn đến nhứt thiết trí cũng như vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật này thanh tịnh?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Vì sắc thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ
tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào vì sắc thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên
Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Nếu sắc chẳng sanh chẳng diệt chẳng cấu chẳng tịnh, thời gọi
là sắc thanh tịnh. Nếu thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt
chẳng cấu chẳng tịnh thời gọi là thọ tưởng hành thức thanh tịnh.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Vì hư không thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào vì hư không thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Vì hư không chẳng snah chẳng diệt nên thanh tịnh. Bát-Nhã ba
la mật cũng vậy.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề. Vì sắc chẳng nhiễm ô nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh. Vì
thọ tưởng hành thức chẳng nhiễm ô nên Bát-Nhã ba la mật thanh
tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như hư không vì chẳng thể nhiễm ô được nên hư không thanh
tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì hư không chẳng thể nắm lấy được nên hư không thanh tịnh.
Vì hư không thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Vì hư không có thể thuyết minh nên Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Nhơn trong
hư không hai âm thanh xuất phát.
-
Như hư
không, vì Bát-Nhã ba la mật có thể thuyết minh nên Bát-Nhã ba la
mật thanh tịnh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì hư không chẳng thể thuyết minh nên Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Như hư
không vì không chỗ thuyết minh được nên Bát-Nhã ba la mật thanh
tịnh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Lại như hư không vì chẳng thể được nên Bát-Nhã ba la mật
thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Như hư
không vì không chỗ được nên hư không thanh tịnh, Bát-Nhã ba la
mật cũng không chỗ được nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Vì tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt chẳng cấu chẳng tịnh
nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì tất cả
pháp rốt ráo thanh tịnh nên Bát-Nhã ba la mật thanh tịnh.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu thiện nam thiện nữ thọ trì Bát-Nhã ba la mật này và
gần gũi chánh ức niệm, thời trọn chẳng mắc bịnh, nhãn nhĩ tĩ
thiệt thân cũng trọn chẳng mắc bịnh, thân không tàn tật cũng
chẳng suy già, chẳng hoạnh tử, vô số hàng chư Thiên, từ trời Tứ
Vương đến trời Tịnh Cư thảy đều đi theo nghe học. Mỗi tháng đến
sáu ngày trai: mùng tám, mười bốn, mười lăm, hai mươi ba, hai
mươi chín và ngày ba mươi, tại chỗ thiện nam thiện nữ này, làm
pháp sư, giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật, chư Thiên chúng hội đều
vân tập đến. Ở giữa đại chúng thiện nam thiện nữ này giảng
thuyết Bát-Nhã ba la mật này được vô lượng vô biên vô số bất khả
tư nghị bất khả xưng lượng phước đức.
-
Ðức Phật
nói:
-
- Ðúng như
lời Tu Bồ Ðề nói. Tại sao vậ y? Vì Bát-Nhã ba la mật là đại trân
bửu.
-
Những gì là
đại trân bửu?
-
Bát-Nhã ba
la mật này có thể nhổ được sự bần cùng của địa ngục súc sanh ngạ
quỷ và trong loài người. Bát-Nhã ba la mật này có thể ban cho
hào tộc đại tánh sát lợi bà la môn cư sĩ, ban cho cõi trời Tứ
Vương đến Phi Phi Tưởng, ban cho quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na
Hàm, A La hán, Bích Chi Phật, vô thượng bồ đề.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì trong
Bát-Nhã ba la mật nói rộng về thập thiện tứ thiền, tứ vô lượng
tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ
căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo phần, đàn na ba la
mật, thi la ba la mật, sằn đề ba la mật, tỳ lê gia ba la mật,
thiền na ba la mật, Bát-Nhã ba la mật, thập bát không, thập lực
tứ vô úy, thập bát bất cộng, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.
-
Học theo
đây thời xuất sanh đại tánh sát lợi, đại tánh bà la môn, đại
tánh cư sĩ, trời Tứ Vương, trời Ðao Lợi, trời Dạ Ma, trời Ðâu
Suất Ðà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng,
trời Phạm Phụ, trời Phạm Vương, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng
Quang, trời Quang Âm, trời Thiểu Tịnh, trời Vô lượng Tịnh, trời
Bbiến Tịnh, trời Vô Vân, trời Phước Sanh, trời Quảng Quả, trời
Vô Tưởng, trời Vô Phiền, ,trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời
Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, trời Không Vô Biên Xứ, trời Thức
Vô BIên Xứ, trời Vô Sở Hữu Xứ, trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng
Xứ.
-
Học trong
pháp này thời được quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm,
quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật, đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì thế nên Bát-Nhã ba la mật gọi là đại trân bửu.
-
Trong trân
bửu ba la mật, không pháp gì có thể được là hoặc sanh, hoặc
diệt, hoặc cấu, hoặc tịnh, hoặc lấy, hoặc bỏ.
-
Trong trân
bửu ba la mật cũng không có pháp hoặc thiện, hoặc bất thiện,
hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hhữu lậu, hoặc vô lậu,
hoặc hữu vi, hoặc vô vi.
-
Vì thế nên
gọi là vô sở đắc trân bửu ba la mật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Trân bửu ba la mật này không có pháp gì làm nhiễm ô được.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì chỗ dùng
nhiễm pháp là bất khả đắc.
-
Vì thế nên
gọi là vô nhiễm trân bửu ba la mật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, cũng chẳng
biết như vậy, chẳng phân biệt như vậy, cũng bất khả đắc như vậy,
chẳng hí luận như vậy. Ðây là có thể tu hành Bát-Nhã ba la mật,
cũng có thể kính lễ chư Phật, từ một cõi Phật đến một cõi Phật
để cúng dường cung kính tán thán chư Phật, đi đến các cõi Phật
để thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðối với các pháp, Bát-Nhã ba la mật này không có năng lực,
cũng không lãnh thọ, không ban cho, chẳng sanh, chẳng diệt,
chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng thêm chẳng bớt.
-
Bát-Nhã ba
la mật này cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng
phải hiện tại, chẳng bỏ cõi dục cõi sắc cõi vô sắc.
-
Bát-Nhã ba
la mật này chẳng ban cho đàn na ba la mật đến thiền na ba la mật
và Bát-Nhã ba la mật này cũng chẳng bỏ đàn na ba la mật đến
thiền na ba la mật và Bát-Nhã ba la mật.
-
Bát-Nhã ba
la mật này chẳng cho nội không đến vô pháp hữu pháp không cũng
chẳng bỏ, chẳng cho tứ niệm xứ đến bát thánh đạo cũng chẳng bỏ,
chẳng cho thập lực đến thập bát bất cộng pháp cũng chẳng bỏ,
chẳng cho quả Tu Ðà Hoàn đến nhứ thiết trí cũng chẳng bỏ.
-
Bát-Nhã ba
la mật này chẳng cho pháp A La hán chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng
bỏ pháp Bích Chi Phật chẳng bỏ pháp A La hán, chẳng cho Phật
pháp chẳng bỏ pháp Bích Chi Phật.
-
Bát-Nhã ba
la mật này cũng chẳng cho pháp vô vi chẳng bỏ pháp hữu vi.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì hoặc có
Phật hoặc không Phật, những pháp tướng này luôn thường trụ không
khác, vì pháp tướng pháp trụ pháp vị thường trụ chẳng sai chẳng
mất vậy.
-
Bấy giờ chư
Thiên đứng trong hư không vui mừng hớn hở phát âm thanh lớn, đem
hoa âu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đà, hoa phân đà lợi
rải lên trên đức Phật mà nói rằng ở Diêm Phù Ðề chúng tôi thấy
pháp luân chuyển lần thứ hai.
-
Trong đây
có vô lượng trăm ngàn Thiên Tử được vô sanh pháp nhẫn.
-
Ðức Phật
bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
- Pháp luân
này chuyển, chẳng phải chuyển lần thứ nhứt, chẳng phải chuyển
lần thứ hai.
-
Bát-Nhã ba
la mật này chẳng do chuyển chẳng do hườn hà xuất hiện, vì vô
pháp hữu pháp rỗng không vậy.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào vì vô pháp hữu pháp rổng không nên Bát-Nhã ba
la mật chẳng do chuyển chẳng do hườn hà xuất hiện?
-
Ðức Phật
nói:
-
- Này Tu Bồ
Ðề! Bát-Nhã ba la mật Bát-Nhã ba la mật tướng rỗng không nhẫn
đến đàn na ba la mật đàn na ba la mật tướng rổng không, nội
không nội không tướng rổng không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không
vô pháp hữu pháp không tướng rổng không, tứ niệm xứ tứ niệm xứ
tướng rổng không nhẫn đến bát thánh đạo bát thánh đạo tướng rổng
không, Phật thập lực thập lực tướng rổng không nhẫn đến mười tám
pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không, quả Tu Ðà Hoàn quả
Tư Ðà Hàm tướng rổng không nhẫn đến nhứt thiết trí nhứt thiết
trí rổng không.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật của chư đại Bồ-Tát là ma ha ba la
mật.
-
Tại sao
vậy?
-
Dầu tất cả
pháp, tự tánh tổng không nhưng chư đại Bồ-Tát nhơn nơi Bát-Nhã
ba la mật mà được vô thượng bồ đề, cũng không có pháp được,
chuyển pháp luân cũng không có pháp chuyển được, cũng không có
pháp hườn được.
-
Trong ma ha
ba la mật này cũng không có pháp thấy được.
-
Tại sao
vậy?
-
Pháp này
không có được hoặc chuyển hoặc hườn, vì tất cả pháp rốt ráo
chẳng sanh vậy.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì tướng
không này, tướng vô tướng này, tướng vô tác này chẳng chuyển
được chẳng hườn được.
-
Nếu giải
thuyết Bát-Nhã ba la mật được như vậy, có thể gi ảng dạy khai
thị phân biệt rành rẽ, giải thích cặn kẽ, thời gọi là thanh tịnh
giải thuyết Bát-Nhã ba la mật. Cũng không người nói, cũng không
người nghe, cũng không người chứng.
-
Nếu không
nói không nghe, không chứng, thời cũng không diệt mất.
-
Trong
thuyết pháp này cũng không phước điền quyết định.
- --o0o--
|
|