Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ MƯỜI CHÍN

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM THÂM ÁO THỨ NĂM MƯƠI BẢY

          Lúc ấy ngài Tu Bồ Ðề thưa:
          - Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức, thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức.
          Ðức Phật phán dạy:
          - Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức, thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức.
          Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát bất thối chuyển được vô lượng vô biên trí huệ chẳng đồng với hành Thanh Văn Bích Chi Phật.
          An trụ trong trí huệ ấy, đại Bồ-Tát này phát sanh bốn trí vô ngại. Vì được bốn trí vô ngại này nên tất cả Trời người thế gian không thể cùng tận được.
          Ngài Tu Bồ Ðề thưa:
          - Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Phật có thể hằng sa kiếp khen ngợi những hạnh loại tướng mạo của đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyểnnày an trụ trong chỗ thâm áo nào mà lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật được đầy đủ tứ niệm xứ nhẫn đến đầy đủ nhứt thiết chủng trí?
          Lành thay lành thay! Này Tu Bồ Ðề! Ngươi vì đại Bồ-Tát bất thối chuyển mà hỏi chỗ thâm áo đó.
          Này Tu Bồ Ðề! Chỗ thâm áo đây nghĩa của nó là không, là vô tướng, vô tác, vố khởi, vô sanh, vô nhiễm, là ly, là tịch diệt, là như, là pháp tánh thiệt tế, là Niết Bàn. Những pháp trên đây là nghĩa của thâm áo.
          Bạch đức Thế-Tôn! Chỉ có không vô tướng vô tác nhẫn đến Niết Bàn là thâm áo, còn tất cả pháp là chẳng phải ư?
          Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp cũng là nghĩa thâm áo cả: sắc cũng thâm áo, thọ tưởng hành thức cũng thâm áo, nhẫn đến ý cũng thâm áo, sắc đến pháp cũng thâm áo, nhãn giới đến ý thức giới cũng thâm áo, đàn na ba la mật đến vô thượng bồ đề cũng thâm áo.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là sắc nhẫn đến vô thượng bồ đề cũng đều thâm áo?
          Này Tu Bồ Ðề! Vì sắc như thâm áo nên sắc cũng thâm áo, nhẫn đến vì vô thượng bồ đề như thâm áo nên vô thượng bồ đề cũng thâm áo.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là sắc như thâm áo nên vô thượng bồ đề như thâm áo?
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc như đó chẳng phải sắc chẳng phải rời sắc, nhẫn đến vô thượng bồ đề như đó chẳng phải vô thượng bồ đề chẳng phải rời vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thật là hy hữu, đức Phật dùng sức phương tiện vi diệu làm cho Bồ-Tát bất thối chuyển rời sắc xứ Niết Bàn, cũng làm cho rời tất cả pháp xứ Niết Bàn.
          Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật dùng sức phương tiện vi diệu làm cho đại Bồ-Tát bất thối chuyển rời sắc xứ Niết Bàn cũng làm cho rời tất cả pháp xứ Niết Bàn
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát có pháp thâm áo như vậy cùng Bát-Nhã ba la mật tương ưng quan sát tính lường suy gẫm, nghĩ rằng: tôi phải thật hành như thế, đúng như lời dạy trong Bát-Nhã ba la mật, tôi phải học tập như thế, đúng như trong Bát-Nhã ba la mật đã nói.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát có thể làm có thể học đúng như lời, quan sát đúng như trong Bát-Nhã ba la mật, siêng năng tinh tấn đầy đủ thì lúc phát khởi một niệm sẽ được vô lượng vô biên vô số phước đức, siêu việt vô lượng kiếp gần quả vô thượng bồ đề, huống là thường thật hành Bát-Nhã ba la mật đúng với niệm vô thượng bồ đề.
          Ví như người tánh nhiều dâm dục hẹn ước với cô gái xinh đẹp, đến giờ hẹn cô gái vì trở ngại nên không đến được. Ý ngươi thế nào này Tu Bồ Ðề! Chỗ nhớ tưởng của gã đàn ông đó sẽ ở đây?
          Bạch đức Thế-Tôn! Gã ấy niệm niệm luôn nhớ đến cô gái mong cô sẽ đến để cùng ngồi cùng nằm cùng vui.
          Này Tu Bồ Ðề! Trong một ngày đêm nơi tâm gã ấy có mấy niệm phát sanh?
          Bạch đức Thê-Tôn! Rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát niệm Bát-Nhã ba la mật đúng như lời trong Bát-Nhã ba la mật thật hành trong khoảng một niệm sẽ siêu việt số kiếp cũng như số tâm niệm trong một ngày đêm của gã đó.
          Ðại Bồ-Tát này thật hành Bát-Nhã ba la mật xa rời những tội: Rời tội vô thượng bồ đề.
          Ðại Bồ-Tát này trong một ngày thật hành Bát-Nhã ba la mật được thiện căn công đức chẳng giảm công đức đầy cả hằng sa cõi Ðại Thiên. Với những công đức kém khác sánh chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, nhẫn đến toán số thí dụ cũng chẳng bằng được công đức này.
          Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu có người xa rời Bát-Nhã ba la mật mà cúng dường tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo trong thời gian hằng sa kiếp được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Rất nhiều được vô lượng vô biên vô số phước.
          Này Tu Bồ Ðề! Vẫn không bằng phước đức của đại Bồ-Tát ở trong Bát-Nhã ba la mật tu hành đúng như lời.
          Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật là đạo của chư đại Bồ-Tát. Thừa đạo này mau được vô thượng bồ đề.
          Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu có người xa rời Bát-Nhã ba la mật trải qua số kiếp như hằng sa cúng dường các bực Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật và chư Phật. Người này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Vẫn không bằng phước đức của đại Bồ-Tát ở trong Bát-Nhã ba la mật tu hành đúng như lời.
          Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật này thì hơn hẳn bực Thanh Văn Bích Chi Phật nhập địa vị Bồ-Tát sẽ được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Có người xa rời Bát-Nhã ba la mật trong khoảng thời gian hằng sa kiếp tụ tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí  huệ. Người  này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Phước đức đó vẫn không bằng phước của đại Bồ-Tát ở trong Bát-Nhã ba la mật đúng như lời trong  một ngày bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền định, trí huệ.
          Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật là mẹ của chư đại Bồ-tát, hay sanh thành của chư đại Bồ-Tát. Vì chư đại Bồ-Tát an trụ trong Bát-Nhã ba la mật thì đầy đủ được tất cả Phật pháp vậy.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trong khoảng hằng sa kiếp làm việc pháp thí. Người này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Vẫn không bằng phước pháp trong thí một ngày của người ở trong Bát-Nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
          Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát này chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật thì chẳng xa rời nhứt thiết chủng trí, chẳng xa rời nhứt thiết chủng trí thì chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật.
          Thế nên đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề thì chẳng nên xa rời Bát-Nhã ba la mật.
          Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu có đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật mà tu hành tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí trải qua hằng sa kiếp. Người này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Vẫn không nhiều bằng phước một ngày tu tập tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí của người ở trong Bát-Nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
          Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật thì không bao giờ thối chuyển nhứt thiết chủng trí. Còn xa rời thì có thể thối chuyển.
          Thế nên, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát tu hành chẳng nên xa rời Bát-Nhã ba la mật.
          Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trải hằng sa kiếp thật hành tài thí, pháp thí và thiền định, rồi đem công đức hồi hướng vô thượng bồ đề. Người này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Vẫn không bằng  phước một ngày tài thí, pháp thí thiền định hồi hướng vô thượng bồ đề của thiện nam thiện nữ ở trong Bát-Nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
          Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật hồi hướng là hồi hướng đệ nhứt. Nếu rời Bát-Nhã ba la mật mà hồi hướng thì chẳng gọi là hồi hướng. Thế nên muốn được vô thượng bồ đề, đại Bồ-Tát phải học Bát-Nhã ba la mật hồi hướng.
          Lại này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trải hằng sa kiếp hoà hiệp tùy hỷ thiện căn của tam thế chư Phật và của hàng đệ tử Phật rồi hồi hướng vô thượng bồ đề. Người này được phước nhiều chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
          Này Tu Bồ Ðề! Nhiều không bằng phước một ngày tùy hỷ thiện căn hồi hướng vô thượng bồ đề của thiện nam thiện nữ ở trong Bát-Nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
          Thế nên muốn được vô thượng bồ đề, đại Bồ-Tát phải học phương tiện trong Bát-Nhã ba la mật hồi hướng vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Cứ theo như lời đức Phật đã phán dạy thì các pháp do nhơn duyên khởi tác đều từ vọng tưởng sanh ra chẳng phải chơn thiệt, thế sao thiện nam thiện nữ lại được phước đức lớn?
          Bạch đức Thế-Tôn! Vì là pháp nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên được chánh kiến nhập pháp vị, chẳng nên được quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chẳng nên được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Vì là pháp nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên được chánh kiến nhập pháp vị, nhẫn đến chẳng nên được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật biết pháp nhơn duyên khởi tác cũng không, chẳng kiên cố, hư dối chẳng thiệt. Vì đại Bồ-Tát này khéo học nội không nhẫn đến khéo học vô pháp, hữu pháp không. An trụ trong mười tám pháp không này đại Bồ-Tát quán sát pháp khơỉ tác không bèn chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật, lần lần được vô lượng vô biên vô số phước đức.
          Bạch đức Thế-Tôn! Vô số cùng vô lượng vô biên có gì khác nhau?
          Này Tu Bồ Ðề! Vô số là nói chẳng ở trong số những pháp hữu vi hoặc vô vi. Vô lượng là  nói chẳng lường được hoặc là quá khứ hoặc là vị lai hoặc là hiện tại. Vô biên là nói các pháp không thể được bờ mé.
          Bạch đức Thế-Tôn! Vả có sắc thọ tưởng hành thức nào cũng vô số vô lượng vô biên chăng?
          Này Tu Bồ Ðề! Có nhơn duyên mà sắc thọ tưởng hành thức cũng vô số vô lượng vô biên.
          Bạch đức Thế-Tôn! Do nhơn duyên gì mà sắc thọ tưởng hành thức cũng vô số vô lượng vô biên?
          Này Tu Bồ Ðề! Vì sắc không vì thọ tưởng hành thức không nên cũng vô số vô lượng vô biên.
          Bạch đức Thế-Tôn! Chỉ sắc không, chỉ thọ tưởng hành thức không, mà chẳng phải tất cả pháp đều không cả ư?
          Này Tu Bồ Ðề! Phật chẳng thường nói tất cả pháp không ư?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Phật thường phán dạy tất cả pháp không.
          Bạch đức Thế-Tôn! Các pháp không thì tức là vô tận vô số vô lượng vô biên.
          Bạch đức Thế-Tôn! Trong không đó, số chẳng thể được, lượng chẳng thể được, biên chẳng thể được. Thế nên vô tận vô số vô lượng cùng vô biên nghĩa không khác nhau.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Những pháp ấy nghĩa chẳng khác biệt nhau.
          Này Tu Bồ Ðề! Pháp ấy chẳng nói được. Ðức Phật dùng sức phương tiện mà phân biệt tuyên nói, đó là vô tận, vô số, vô lượng, vô lượng vô biên, vô trước, không, vô tướng, vô tác, vô khởi, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, Niết Bàn. Dùng sức phương tiện mà đức Phật phân biệt tuyên nói.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thật là hi hữu. Các pháp thiệt tướng chẳng nói được mà đức Phật dùng sức phương tiện tuyên nói.
          Cứ theo chỗ tôi hiểu nghĩa của đức Phật dạy thì tất cả pháp cũng chẳng nói được.
          Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp chẳng nói được. Tướng chẳng nói được của tất cả pháp tức là không. Tướng không đó chẳng nói được.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nghĩa chẳng nói được có tăng có giảm chăng?
          Này Tu Bồ Ðề! Nghĩa chẳng nói được chẳng tăng chẳng giảm.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng chẳng giảm thì đàn ba la mật cũng chẳng tăng chẳng giảm, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng chẳng tăng chẳng giảm.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu sáu ba la mật nhẫn đến pháp bất cộng chẳng tăng tại sao đại Bồ-Tát lại được vô thượng bồ đề?
          Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng chẳng giảm.
          Ðại Bồ-Tát lúc tu tập Bát-Nhã ba la mật, vì có sức phương tiện nên chẳng nghĩ rằng tôi làm tăng Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến tăng đàn na ba la mật, mà quan niệm rằng chỉ vì idanh tự mà gọi là đàn na ba la mật thôi.
          Ðại Bồ-Tát lúc thật hành đàn na ba la mật, tâm và thiện căn hồi hướng đúng như tướng của vô thượng bồ đề, nhẫn đến lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật, tâm và hồi hướng đúng như tướng của vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là vô thượng bồ đề?
          Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp như tướng, đây gọi là vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là tất cả pháp như tướng gọi là vô thượng bồ đề?
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc như tướng, thọ tưởng hành thức như tướng, nhẫn đến Niết Bàn như tướng là vô thượng bồ đề. Tướng như ấy cũng chẳng tăng chẳng giảm.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chẳng rời Bát-Nhã ba la mậmt thường quán sát pháp như ấy chẳng thấy có tăng có giảm. Thế nên nghĩa bất khả thuyết không tăng giảm, đàn na ba la mật nhẫn đến pháp bất cộng cũng không tăng giảm. Ðại Bồ-Tát do vì pháp bất tăng giảm này ứng với hạnh Bát-Nhã ba la mật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát dùng sơ tâm được vô thượng bồ-đề hay là dùng hậu tâm được vô thượng bồ đề?
          Bạch đức Thế-Tôn! Sơ tâm ấy chẳng đến hậu tâm, còn hậu tâm kia chẳng ở tại sơ tâm. Tâm và tâm sở chẳng cùng chung như vậy thì làm sao thiện căn lại tăng ích. Nếu thiện căn chẳng tăng thì sao lại được vô thượng bồ đề?
          Này Tu Bồ Ðề! Vì ngươi mà Phật sẽ dùng ví dụ. Người có trí được ví dụ thì dễ hiểu được nghĩa.
          Này Tu Bồ Ðề! Như thắp đèn là dùng ngọn lửa ban đầu để đốt cháy tim đèn hay dùng ngọn lửa lúc sau?
          Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng phải ngọn lửa ban đầu cháy tim đèn cũng chẳng phải rời ngọn lửa ban đầu. Chẳng phải ngọn lửa lúc sau cháy tim đèn cũng chẳng phải rời ngọn lửa lúc sau.
          Này Tu Bồ Ðề! Tim đèn ấy có bị đốt cháy không?
          Bạch đức Thế-Tôn! Tim đèn ấy thiệt bị đốt cháy.
          Cũng vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chẳng dùng sơ tâm được vô thượng bồ đề cũng chẳng rời sơ tâm được vô thượng bồ đề, chẳng dùng hậu tâm cũng chẳng rời hậu tâm được vô thượng bồ đề mà thiệt được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Trong đây đại Bồ-Tát từ sơ phát tâm thật hành Bát-Nhã ba la mật đầy đủ thập địa được vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là thập địa mà đại Bồ-Tát đầy đủ rồi được vô thượng bồ đề?
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đầy đủ Càng huệ địa, Tánh địa, Bát nhơn địa, Kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ tác địa, Bích chi Phật địa, Bồ-Tát địa và Phật địa. Ðầy đủ những địa đó rồi đại Bồ-Tát được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát học đủ mười địa đó rồi, chẳng phải sơ tâm cũng chẳng rời sơ tâm, chẳng phải hậu tâm cũng chẳng rời hậu tâm được vô thượng bồ đề mà thiệt được vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Pháp nhơn duyên ấy rất sâu: chẳng phải sơ tâm cũng chẳng rời sơ tâm, chẳng phải hậu tâm cũng chẳng rời hậu tâm được vô thượng bồ đề, mà đại Bồ-Tát được vô thượng bồ đề.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu tâm đã diệt tâm ấy có sanh trở lại chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Tâm sanh có phải là tướng diệt chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Là tướng diệt.
          Này Tu  Bồ-Ðề! Tâm tướng diệt đó, tâm là diệt chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề!  Cũng trụ như vậy chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Cũng trụ như vậy, như như trụ.
          Này Tu Bồ Ðề! Tâm đó như như trụ sẽ chứng thiệt tế chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ-Ðề! Như thế có phải là rất sâu chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Thiệt là rất sâu.
          Này Tu Bồ Ðề! Chỉ tâm như vậy thôi ư?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Rời tâm như vậy ư?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Như thấy được như chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát có thể hành như vậy có phải hành sâu Bát-Nhã ba la mật chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðó là hành sâu Bát-Nhã ba la mật.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành như vậy, đó là hành chỗ nào?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðó là hành mà không có chỗ hành được. Vì đại Bồ-Tát nếu hành Bát-Nhã ba la mật thì trụ trong các pháp như, không có quan niệm như thế: Không chỗ quan niệm không ai quan niệm.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành như vậy đó là hành chỗ nào?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát ấy hành chỗ như vầy
: hành trong đệ nhứt nghĩa, vì không có tướng sai biệt vậy.
          Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành trong đệ nhứt vô niệm, đó là tướng hành ư?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát ấy có hoại các tướng chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Không.
          Này Tu Bồ Ðề! Thế nào gọi là không hoại các tướng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát ấy hành Bát-Nhã ba la mật chẳng quan niệm tôi sẽ hoại các pháp tướng. Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật mà chưa đầy đủ mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô  ngại, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng thì chẳng được vô thượng bồ đề.
          Bạch đức Thế-Tôn! Do vì sức phương tiện nên đại Bồ-Tát đối với các pháp cũng chẳng nắm lấy tướng, cũng chẳng phá hoại tướng.
          Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát rõ biết tất cả các pháp tự tướng không.
          An trụ trong tự tướng không, đại Bồ-Tát vì chúng sanh mà nhập ba tam muội. Dùng ba tam muội đó để thành tựu chúng sanh.
          Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát nhập ba tam muội thành tựu chúng sanh thế nào?
          Này Tu Bồ Ðề! An trụ trong ba tma muội, đại Bồ-Tát thấy chúng sanh đi trong pháp tạo tác, bèn dùng sức phương tiện dạy cho họ được vô tác. Thấy chúng sanh đi trong ngã tướng, bèn dùng sức phương tiện đạy cho họ đi trong không. Thấy chúng sanh đi trong tất cả tướng, bèn dùng sức phương tiện dạy cho họ đi trong vô tướng.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðó là đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật nhập ba tam muội rồi dùng ba tam muội để thành tựu chúng sanh.

 

--o0o--