|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
MƯỜI
CHÍN
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM THÂM ÁO THỨ NĂM MƯƠI BẢY
-
Lúc ấy ngài
Tu Bồ Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyển thành tựu đại công đức,
thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức.
-
Ðức Phật
phán dạy:
-
- Ðúng như
vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyển thành tựu đại công
đức, thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức.
-
Tại sao
vậy? Vì đại Bồ-Tát bất thối chuyển được vô lượng vô biên trí huệ
chẳng đồng với hành Thanh Văn Bích Chi Phật.
-
An trụ
trong trí huệ ấy, đại Bồ-Tát này phát sanh bốn trí vô ngại. Vì
được bốn trí vô ngại này nên tất cả Trời người thế gian không
thể cùng tận được.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Ðức Phật có thể hằng sa kiếp khen ngợi những hạnh loại
tướng mạo của đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát bất thối chuyểnnày an trụ trong chỗ thâm áo
nào mà lúc thật hành Bát-Nhã ba la mật được đầy đủ tứ niệm xứ
nhẫn đến đầy đủ nhứt thiết chủng trí?
-
Lành thay
lành thay! Này Tu Bồ Ðề! Ngươi vì đại Bồ-Tát bất thối chuyển mà
hỏi chỗ thâm áo đó.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Chỗ thâm áo đây nghĩa của nó là không, là vô tướng, vô tác,
vố khởi, vô sanh, vô nhiễm, là ly, là tịch diệt, là như, là pháp
tánh thiệt tế, là Niết Bàn. Những pháp trên đây là nghĩa của
thâm áo.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chỉ có không vô tướng vô tác nhẫn đến Niết Bàn là thâm
áo, còn tất cả pháp là chẳng phải ư?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tất cả pháp cũng là nghĩa thâm áo cả: sắc cũng thâm áo, thọ
tưởng hành thức cũng thâm áo, nhẫn đến ý cũng thâm áo, sắc đến
pháp cũng thâm áo, nhãn giới đến ý thức giới cũng thâm áo, đàn
na ba la mật đến vô thượng bồ đề cũng thâm áo.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào là sắc nhẫn đến vô thượng bồ đề cũng đều thâm
áo?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì sắc như thâm áo nên sắc cũng thâm áo, nhẫn đến vì vô
thượng bồ đề như thâm áo nên vô thượng bồ đề cũng thâm áo.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào là sắc như thâm áo nên vô thượng bồ đề như thâm
áo?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sắc như đó chẳng phải sắc chẳng phải rời sắc, nhẫn đến vô
thượng bồ đề như đó chẳng phải vô thượng bồ đề chẳng phải rời vô
thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thật là hy hữu, đức Phật dùng sức phương tiện vi diệu
làm cho Bồ-Tát bất thối chuyển rời sắc xứ Niết Bàn, cũng làm cho
rời tất cả pháp xứ Niết Bàn.
-
Ðúng như
vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðức Phật dùng sức phương tiện vi diệu làm cho
đại Bồ-Tát bất thối chuyển rời sắc xứ Niết Bàn cũng làm cho rời
tất cả pháp xứ Niết Bàn
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát có pháp thâm áo như vậy cùng Bát-Nhã ba la mật
tương ưng quan sát tính lường suy gẫm, nghĩ rằng: tôi phải thật
hành như thế, đúng như lời dạy trong Bát-Nhã ba la mật, tôi phải
học tập như thế, đúng như trong Bát-Nhã ba la mật đã nói.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát có thể làm có thể học đúng như lời, quan sát
đúng như trong Bát-Nhã ba la mật, siêng năng tinh tấn đầy đủ thì
lúc phát khởi một niệm sẽ được vô lượng vô biên vô số phước đức,
siêu việt vô lượng kiếp gần quả vô thượng bồ đề, huống là thường
thật hành Bát-Nhã ba la mật đúng với niệm vô thượng bồ đề.
-
Ví như
người tánh nhiều dâm dục hẹn ước với cô gái xinh đẹp, đến giờ
hẹn cô gái vì trở ngại nên không đến được. Ý ngươi thế nào này
Tu Bồ Ðề! Chỗ nhớ tưởng của gã đàn ông đó sẽ ở đây?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Gã ấy niệm niệm luôn nhớ đến cô gái mong cô sẽ đến để
cùng ngồi cùng nằm cùng vui.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Trong một ngày đêm nơi tâm gã ấy có mấy niệm phát sanh?
-
Bạch đức
Thê-Tôn! Rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát niệm Bát-Nhã ba la mật đúng như lời trong Bát-Nhã
ba la mật thật hành trong khoảng một niệm sẽ siêu việt số kiếp
cũng như số tâm niệm trong một ngày đêm của gã đó.
-
Ðại Bồ-Tát
này thật hành Bát-Nhã ba la mật xa rời những tội: Rời tội vô
thượng bồ đề.
-
Ðại Bồ-Tát
này trong một ngày thật hành Bát-Nhã ba la mật được thiện căn
công đức chẳng giảm công đức đầy cả hằng sa cõi Ðại Thiên. Với
những công đức kém khác sánh chẳng bằng một phần trăm, một phần
ngàn, nhẫn đến toán số thí dụ cũng chẳng bằng được công đức này.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu có người xa rời Bát-Nhã ba la mật mà cúng dường tam
bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo trong thời gian hằng sa kiếp
được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Rất nhiều được vô lượng vô biên vô số phước.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vẫn không bằng phước đức của đại Bồ-Tát ở trong Bát-Nhã ba
la mật tu hành đúng như lời.
-
Tại sao
vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật là đạo của chư đại Bồ-Tát. Thừa đạo
này mau được vô thượng bồ đề.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu có người xa rời Bát-Nhã ba la mật trải qua số kiếp
như hằng sa cúng dường các bực Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm,
A La Hán, Bích Chi Phật và chư Phật. Người này được phước nhiều
chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vẫn không bằng phước đức của đại Bồ-Tát ở trong Bát-Nhã ba
la mật tu hành đúng như lời.
-
Tại sao
vậy? Vì đại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật này thì hơn hẳn
bực Thanh Văn Bích Chi Phật nhập địa vị Bồ-Tát sẽ được vô thượng
bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Có người xa rời Bát-Nhã ba la mật trong khoảng thời gian
hằng sa kiếp tụ tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí huệ. Người này được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Phước đức đó vẫn không bằng phước của đại Bồ-Tát ở trong
Bát-Nhã ba la mật đúng như lời trong một ngày bố thí trì giới
nhẫn nhục tinh tấn thiền định, trí huệ.
-
Tại sao
vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật là mẹ của chư đại Bồ-tát, hay sanh
thành của chư đại Bồ-Tát. Vì chư đại Bồ-Tát an trụ trong Bát-Nhã
ba la mật thì đầy đủ được tất cả Phật pháp vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trong khoảng hằng sa
kiếp làm việc pháp thí. Người này được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vẫn không bằng phước pháp trong thí một ngày của người ở
trong Bát-Nhã ba la mật thật hành đúng như lời.
-
Tại sao
vậy? Vì đại Bồ-Tát này chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật thì chẳng
xa rời nhứt thiết chủng trí, chẳng xa rời nhứt thiết chủng trí
thì chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật.
-
Thế nên đại
Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề thì chẳng nên xa rời Bát-Nhã ba
la mật.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu có đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật mà tu hành tứ
niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí trải qua hằng sa kiếp. Người
này được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vẫn không nhiều bằng phước một ngày tu tập tứ niệm xứ đến
nhứt thiết chủng trí của người ở trong Bát-Nhã ba la mật thật
hành đúng như lời.
-
Tại sao
vậy? Vì đại Bồ-Tát chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật thì không bao
giờ thối chuyển nhứt thiết chủng trí. Còn xa rời thì có thể thối
chuyển.
-
Thế nên,
này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát tu hành chẳng nên xa rời Bát-Nhã ba la
mật.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trải hằng sa kiếp
thật hành tài thí, pháp thí và thiền định, rồi đem công đức hồi
hướng vô thượng bồ đề. Người này được phước nhiều chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vẫn không bằng phước một ngày tài thí, pháp thí thiền định
hồi hướng vô thượng bồ đề của thiện nam thiện nữ ở trong Bát-Nhã
ba la mật thật hành đúng như lời.
-
Tại sao
vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật hồi hướng là hồi hướng đệ nhứt. Nếu
rời Bát-Nhã ba la mật mà hồi hướng thì chẳng gọi là hồi hướng.
Thế nên muốn được vô thượng bồ đề, đại Bồ-Tát phải học Bát-Nhã
ba la mật hồi hướng.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát xa rời Bát-Nhã ba la mật trải hằng sa kiếp
hoà hiệp tùy hỷ thiện căn của tam thế chư Phật và của hàng đệ tử
Phật rồi hồi hướng vô thượng bồ đề. Người này được phước nhiều
chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðược phước rất nhiều.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nhiều không bằng phước một ngày tùy hỷ thiện căn hồi hướng
vô thượng bồ đề của thiện nam thiện nữ ở trong Bát-Nhã ba la mật
thật hành đúng như lời.
-
Thế nên
muốn được vô thượng bồ đề, đại Bồ-Tát phải học phương tiện trong
Bát-Nhã ba la mật hồi hướng vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Cứ theo như lời đức Phật đã phán dạy thì các pháp do
nhơn duyên khởi tác đều từ vọng tưởng sanh ra chẳng phải chơn
thiệt, thế sao thiện nam thiện nữ lại được phước đức lớn?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Vì là pháp nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên được chánh
kiến nhập pháp vị, chẳng nên được quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chẳng
nên được vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðúng như vậy. Vì là pháp nhơn duyên khởi tác thì chẳng nên
được chánh kiến nhập pháp vị, nhẫn đến chẳng nên được vô thượng
bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát thật hành Bát-Nhã ba la mật biết pháp nhơn duyên
khởi tác cũng không, chẳng kiên cố, hư dối chẳng thiệt. Vì đại
Bồ-Tát này khéo học nội không nhẫn đến khéo học vô pháp, hữu
pháp không. An trụ trong mười tám pháp không này đại Bồ-Tát quán
sát pháp khơỉ tác không bèn chẳng xa rời Bát-Nhã ba la mật, lần
lần được vô lượng vô biên vô số phước đức.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Vô số cùng vô lượng vô biên có gì khác nhau?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vô số là nói chẳng ở trong số những pháp hữu vi hoặc vô vi.
Vô lượng là nói chẳng lường được hoặc là quá khứ hoặc là vị lai
hoặc là hiện tại. Vô biên là nói các pháp không thể được bờ mé.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Vả có sắc thọ tưởng hành thức nào cũng vô số vô lượng
vô biên chăng?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Có nhơn duyên mà sắc thọ tưởng hành thức cũng vô số vô lượng
vô biên.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Do nhơn duyên gì mà sắc thọ tưởng hành thức cũng vô số
vô lượng vô biên?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì sắc không vì thọ tưởng hành thức không nên cũng vô số vô
lượng vô biên.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chỉ sắc không, chỉ thọ tưởng hành thức không, mà chẳng
phải tất cả pháp đều không cả ư?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Phật chẳng thường nói tất cả pháp không ư?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðức Phật thường phán dạy tất cả pháp không.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Các pháp không thì tức là vô tận vô số vô lượng vô
biên.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Trong không đó, số chẳng thể được, lượng chẳng thể
được, biên chẳng thể được. Thế nên vô tận vô số vô lượng cùng vô
biên nghĩa không khác nhau.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðúng như vậy. Những pháp ấy nghĩa chẳng khác biệt nhau.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Pháp ấy chẳng nói được. Ðức Phật dùng sức phương tiện mà
phân biệt tuyên nói, đó là vô tận, vô số, vô lượng, vô lượng vô
biên, vô trước, không, vô tướng, vô tác, vô khởi, vô sanh, vô
diệt, vô nhiễm, Niết Bàn. Dùng sức phương tiện mà đức Phật phân
biệt tuyên nói.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thật là hi hữu. Các pháp thiệt tướng chẳng nói được mà
đức Phật dùng sức phương tiện tuyên nói.
-
Cứ theo chỗ
tôi hiểu nghĩa của đức Phật dạy thì tất cả pháp cũng chẳng nói
được.
-
Ðúng như
vậy. Này Tu Bồ Ðề! Tất cả pháp chẳng nói được. Tướng chẳng nói
được của tất cả pháp tức là không. Tướng không đó chẳng nói
được.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nghĩa chẳng nói được có tăng có giảm chăng?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nghĩa chẳng nói được chẳng tăng chẳng giảm.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng chẳng giảm thì
đàn ba la mật cũng chẳng tăng chẳng giảm, nhẫn đến mười tám pháp
bất cộng cũng chẳng tăng chẳng giảm.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu sáu ba la mật nhẫn đến pháp bất cộng chẳng tăng tại
sao đại Bồ-Tát lại được vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðúng như vậy. Nghĩa chẳng nói được đó chẳng tăng chẳng giảm.
-
Ðại Bồ-Tát
lúc tu tập Bát-Nhã ba la mật, vì có sức phương tiện nên chẳng
nghĩ rằng tôi làm tăng Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến tăng đàn na ba
la mật, mà quan niệm rằng chỉ vì idanh tự mà gọi là đàn na ba la
mật thôi.
-
Ðại Bồ-Tát
lúc thật hành đàn na ba la mật, tâm và thiện căn hồi hướng đúng
như tướng của vô thượng bồ đề, nhẫn đến lúc thật hành Bát-Nhã ba
la mật, tâm và hồi hướng đúng như tướng của vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Những gì là vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tất cả pháp như tướng, đây gọi là vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Những gì là tất cả pháp như tướng gọi là vô thượng bồ
đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sắc như tướng, thọ tưởng hành thức như tướng, nhẫn đến Niết
Bàn như tướng là vô thượng bồ đề. Tướng như ấy cũng chẳng tăng
chẳng giảm.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát chẳng rời Bát-Nhã ba la mậmt thường quán sát pháp
như ấy chẳng thấy có tăng có giảm. Thế nên nghĩa bất khả thuyết
không tăng giảm, đàn na ba la mật nhẫn đến pháp bất cộng cũng
không tăng giảm. Ðại Bồ-Tát do vì pháp bất tăng giảm này ứng với
hạnh Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát dùng sơ tâm được vô thượng bồ-đề hay là dùng
hậu tâm được vô thượng bồ đề?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Sơ tâm ấy chẳng đến hậu tâm, còn hậu tâm kia chẳng ở
tại sơ tâm. Tâm và tâm sở chẳng cùng chung như vậy thì làm sao
thiện căn lại tăng ích. Nếu thiện căn chẳng tăng thì sao lại
được vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì ngươi mà Phật sẽ dùng ví dụ. Người có trí được ví dụ thì
dễ hiểu được nghĩa.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như thắp đèn là dùng ngọn lửa ban đầu để đốt cháy tim đèn
hay dùng ngọn lửa lúc sau?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chẳng phải ngọn lửa ban đầu cháy tim đèn cũng chẳng
phải rời ngọn lửa ban đầu. Chẳng phải ngọn lửa lúc sau cháy tim
đèn cũng chẳng phải rời ngọn lửa lúc sau.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tim đèn ấy có bị đốt cháy không?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tim đèn ấy thiệt bị đốt cháy.
-
Cũng vậy,
này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chẳng dùng sơ tâm được vô thượng bồ đề
cũng chẳng rời sơ tâm được vô thượng bồ đề, chẳng dùng hậu tâm
cũng chẳng rời hậu tâm được vô thượng bồ đề mà thiệt được vô
thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Trong đây đại Bồ-Tát từ sơ phát tâm thật hành Bát-Nhã ba la
mật đầy đủ thập địa được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Những gì là thập địa mà đại Bồ-Tát đầy đủ rồi được vô
thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát đầy đủ Càng huệ địa, Tánh địa, Bát nhơn địa, Kiến
địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ tác địa, Bích chi Phật địa, Bồ-Tát
địa và Phật địa. Ðầy đủ những địa đó rồi đại Bồ-Tát được vô
thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát học đủ mười địa đó rồi, chẳng phải sơ tâm cũng
chẳng rời sơ tâm, chẳng phải hậu tâm cũng chẳng rời hậu tâm được
vô thượng bồ đề mà thiệt được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Pháp nhơn duyên ấy rất sâu: chẳng phải sơ tâm cũng
chẳng rời sơ tâm, chẳng phải hậu tâm cũng chẳng rời hậu tâm được
vô thượng bồ đề, mà đại Bồ-Tát được vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu tâm đã diệt tâm ấy có sanh trở lại chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tâm sanh có phải là tướng diệt chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Là tướng diệt.
-
Này Tu
Bồ-Ðề! Tâm tướng diệt đó, tâm là diệt chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Cũng trụ như vậy chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Cũng trụ như vậy, như như trụ.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tâm đó như như trụ sẽ chứng thiệt tế chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu
Bồ-Ðề! Như thế có phải là rất sâu chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thiệt là rất sâu.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Chỉ tâm như vậy thôi ư?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Rời tâm như vậy ư?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như thấy được như chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát có thể hành như vậy có phải hành sâu Bát-Nhã
ba la mật chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðó là hành sâu Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành như vậy, đó là hành chỗ nào?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðó là hành mà không có chỗ hành được. Vì đại Bồ-Tát nếu
hành Bát-Nhã ba la mật thì trụ trong các pháp như, không có quan
niệm như thế: Không chỗ quan niệm không ai quan niệm.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành như vậy đó là hành chỗ nào?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát ấy hành chỗ như vầy
-
: hành trong đệ nhứt
nghĩa, vì không có tướng sai biệt vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành trong đệ nhứt vô niệm, đó là tướng hành
ư?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát ấy có hoại các tướng chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Thế nào gọi là không hoại các tướng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát ấy hành Bát-Nhã ba la mật chẳng quan niệm
tôi sẽ hoại các pháp tướng. Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hành
Bát-Nhã ba la mật mà chưa đầy đủ mười trí lực, bốn vô úy, bốn
trí vô ngại, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng thì chẳng
được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Do vì sức phương tiện nên đại Bồ-Tát đối với các pháp
cũng chẳng nắm lấy tướng, cũng chẳng phá hoại tướng.
-
Tại sao
vậy? Vì đại Bồ-Tát rõ biết tất cả các pháp tự tướng không.
-
An trụ
trong tự tướng không, đại Bồ-Tát vì chúng sanh mà nhập ba tam
muội. Dùng ba tam muội đó để thành tựu chúng sanh.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát nhập ba tam muội thành tựu chúng sanh thế
nào?
-
Này Tu Bồ
Ðề! An trụ trong ba tma muội, đại Bồ-Tát thấy chúng sanh đi
trong pháp tạo tác, bèn dùng sức phương tiện dạy cho họ được vô
tác. Thấy chúng sanh đi trong ngã tướng, bèn dùng sức phương
tiện đạy cho họ đi trong không. Thấy chúng sanh đi trong tất cả
tướng, bèn dùng sức phương tiện dạy cho họ đi trong vô tướng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðó là đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật nhập ba tam muội rồi
dùng ba tam muội để thành tựu chúng sanh.
-
- --o0o--
|
|