|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM HỌC KHÔNG BẤT CHỨNG THỨ SÁU MƯƠI
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
- Bạch đức
Thế-Tôn! Muốn hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát học không tam
muội và nhập không tam muội thế nào? Học vô tướng tam muội, vô
tác tam muội và nhập vô tướng vô tát tam muội thế nào? Học tứ
niệm xứ nhẫn đến học bát thánh đạo và tu tứ niệm xứ nhẫn đến tu
bát thánh đạo thế nào?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải quán sắc không,
phải quán thọ tưởng hành thức không, phải quán thập nhị nhập
thập bát giới không, nhẫn đến phải quán dục giới sắc giới vô sắc
giới không.
-
Lúc quán
như vậy chớ cho tâm tán loạn.
-
Nếu tâm
chẳng tán loạn, đại Bồ-Tát chẳng thấy pháp ấy. Nếu chẳng thấy
pháp ấy thì chẳng chứng. Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát này khéo học
tự tướng không, chẳng có gì khác, chẳng có ai phần chứng pháp
chứng đều chẳng thể thấy được.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Như đức Phật dạy: đại Bồ-Tát chẳng nên ở nơi không pháp
mà tác chứng.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tại sao đại Bồ-Tát an trụ trong không pháp mà chẳng tác
chứng?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát quàn không được đầy đủ, trước hết nguyện như
vầy: nay tôi chẳng nên ở nơi không pháp mà tác chứng, nay là lúc
tôi học chẳng phải lúc tôi chứng. Ðại Bồ-Tát chẳng chuyên nhiếp
tâm cột ở trong cảnh duyên vì thế mà đại Bồ-Tát chẳng thối
chuyển trong vô thượng bồ đề cũng chẳng chứng lấy quả vô lậu.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát rất khéo hành như vậy thời diệu pháp được
thành tựu. Tại sao vậy? Lúc an trụ trong không pháp đại Bồ-Tát
tự nghĩ nay là lúc tôi học chẳng phải lúc chứng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát phải nghĩ rằng: nay là lúc tôi học đàn ba la mật
nhẫn đến là lúc tôi học Bát-Nhã ba la mật chẳng phải là lúc
chứng, là lúc tôi tu tứ niệm xứ chẳng phải là lúc chứng, nhẫn
đến là lúc tu bát thánh đạo chẳng phải là lúc chứng, là lúc tu
ba tam muội chẳng phải là lúc chứng, là lúc tu mười trí lực
chẳng phải là lúc chứng, nhẫn đến là lúc tôi học nhứt thiết
chủng trí chẳng phải là lúc chứng quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến quả A
La Hán cùng đạo Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như thế đó, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật học không quán
an trụ trong không, học vô tướng vô tác quán an trụ trong vô
tướng vô tác, tu tứ niệm xứ nhẫn đến tu bát thánh đạo chẳng
chứng lấy tứ niệm xứ nhẫn đến chẳng chứng lấy bát thánh đạo.
-
Ðại Bồ-Tát
này dầu học dầu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chẳng tác chứng
quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chẳng tác chứng quả Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ví như tráng sĩ dũng mảnh giỏi binh pháp sáu mươi bốn môn,
tay nắm chặc binh đứng yên bất động, nghệ thuật giỏi tướng đẹp
sạch, mọi người ai cũng yêu kính, tạo sự nghiệp ít được hưởng
lợi nhiều. Do cớ này mà được đại chúng cung kính tôn trọng ca
ngợi. Thấy mọi người kính trọng, tráng sĩ này lại càng hoan hỉ,
vì sự duyên ít nên sẽ đến xứ khác để giúp đỡ kẻ già yếu qua khỏi
chỗ hiểm nạn khủng bố. Giữa đường hiểm trở có nhiều giăc cướp
núp ngầm cướp hại. Do tráng sĩ này có đủ trí lực nên mọi người
qua được đường hiểm trở về đến nhà chẳng bị cướp hại đều an ổn
vui mừng.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở trong tất cả chúng sanh tâm từ bi hỉ
xả tràn đầy cùng khắp, khi đó đại Bồ-Tát an trụ trong bốn tâm vô
lượng đầy đủ sáu ba la mật chẳng chứng lấy quả vô lậu, học nhứt
thiết chủng trí, nhập ba môn giải thoát: Không, vô tướng, vô
tác. Bấy giờ Bồ-Tát chẳng theo tất cả các tướng cũng chẳng chứng
vô tướng tam muội. Vì chẳng chứng vô tướng tam muội nên chẳng sa
vào các bực Thanh Văn và Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ví như chim có đủ cánh bay lượn trong hư không chẳng bị rơi
rớt, dầu chim ở trong hư không mà cũng chẳng an trụ trong hư
không.
-
Cũng vậy,
đại Bồ-Tát dầu học không vô tướng vô tác giải thoát môn mà chẳng
tác chứng. Vì chẳng tác chứng nên chẳng sa vào bực Thanh Văn
Bích Chi Phật. Dầu chưa đầy đủ mười trí lực đại từ đại bi vô
lượng Phật pháp nhứt thiết chủng trí mà cũng chẳng chứng lấy
không, vô tướng, vô tác, giải thoát môn.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ví như xạ thủ đại tài bắn tên lên hư không lại nối tiếp bắn
tên lên ghim lấy tên trước, các mũi tên ghim giữ nhau chẳng cho
rơi xuốn đất t heo ý của xạ thủ đó, nêu muốn cho rớt thì thôi
không bắn tên lên nữa, bấy giờ các mũi tên mới rơi xuống đất.
-
Cũng vậy,
đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật vì vô thượng bồ đề cho sức
phương tiện, lúc các thiện căn chưa đầy đủ thì chẳng chứng lấy
thiệt tế, nếu thiện căn đã đầy đủ mới chứng lấy thiệt tế.
-
Thế nên, Tu
Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát nên như vậy mà
quán pháp tướng của các pháp.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chỗ làm của đại Bồ-Tát thiệt là rất sâu. Tại sao vậy?
Vì dầu đại Bồ-Tát học các pháp tướng ấy, học thiệt tế, học như,
học pháp tánh, học rốt ráo không, nhẫn đến học tự tướng không và
ba môn giải thoát mà trọn chẳng giữa đường sa vào bực nhị thừa:
Thanh Văn Bích Chi Phật là ít có vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh nên đại Bồ-Tát này phát
nguyện như vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát nghĩ rằng tôi chẳng nên rời bỏ tất cả chúng
sanh. Tất cả chúng sanh chìm trong pháp vô sở hữu, tôi phải cứu
độ họ. Lúc đó Bồ-Tát liền nhập không giải thoát môn, vô tướng
giải thoát môn, vô tác giải thoát môn. Phải biết đại Bồ-Tát này
thành tựu sức phương tiện, lúc chưa được nhứt thiết chủng trí
hành ba môn giải thoát mà chẳng giữa đường chứng lấy thiệt tế.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát muốn quán những pháp thậm thâm, đó là nội
không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không tứ niệm xứ nhẫn đến ba môn
giải thoát. Bấy giờ đại Bồ-Tát phải có tâm niệm như vầy: Các
chúng sanh mãi đi trong tướng ngã nhẫn đến tướng tri giả, kiến
giả, dính nơi pháp sở đắc, tôi vì dứt các tướng này cho chúng
sanh nên lúc được vô thượng bồ đề tôi sẽ thuyết pháp. Bấy giờ
đại Bồ-Tát hành không vô tướng vô tác giải thoát môn mà chẳng
chứng thiệt tế. Vì chẳng chứng nên chẳng sa vào bực Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Do tâm muốn thành tựu thiện căn như vậy nên đại Bồ-Tát chẳng
nửa đường tác chứng thiệt tế, chẳng mất tứ thiền, tứ vô lượng
tâm, tứ định, tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng mất mười tám pháp bất
cộng. Khi đó đại Bồ-Tát thành tựu tất cả pháp trợ đạo, nhẫn đến
thành tựu vô thượng bồ đề trọn chẳng hao chẳng giảm. Vì có sức
phương tiện nên Bồ-Tát này thường tăng ích pháp lành, căn trí
thông lợi hơn cả căn trí của A La Hán và Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát nghĩ rằng: các chúng sanh mãi dính nơi bốn
điên đảo: chấp thường, chấp lạc, chấp tịnh và chấp ngã. Vì các
chúng sanh này mà tôi cầu nhứt thiết chủng trí. Lúc tôi được vô
thượng bồ đề, sẽ vì họ mà nói pháp vô thường, khổ, bất tịnh và
pháp vô ngã. Ðại Bồ-Tát thành tựu tâm nguyện như vậy, dùng sức
phương tiện hành Bát-Nhã ba la mật, dầu chưa được Phật tam muội,
chưa đầy đủ mười trí lực, tứ vô úy, tứ vô ngại trí, đại từ đại
bi, mười tám pháp bất cộng, nhưng chẳng chứng lấy thiệt tế. Lúc
ấy Bồ-Tát tu vô tác giải thoát môn, dầu chưa được vô thượng bồ
đề nhưng chẳng chứng lấy thiệt tế.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát nghĩ rằng: các chúng sanh mãi chấp trước pháp
sở đắc. Ðó là ngã, chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả. Ây là
sắc, là thọ tưởng hành thức, là nhập, là giới, là tứ thiền, là
tứ vô lượng tâm, là tứ định, ta tu hành như vậy. Lúc tôi được vô
thượng bồ đề, sẽ làm cho các chúng sanh chẳng chấp pháp sở đắc
như vậy.
-
Bồ-Tát
thành tựu tâm đó, dùng sức phương tiện hành Bát-Nhã ba la mật,
lúc chưa đầy đủ mười trí lực nhẫn đến mười tám pháp bất cộng thì
chẳng chứng lấy thiệt tế, khi đó Bồ-Tát tu không tam muội đầy
đủ.
-
Lại này Tu
Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát nghĩ rằng: chúng sanh mãi mãi đi trêncác
tướng, đó là những tướng nam, nữ, sắc và vô sắc. Nếu lúc tôi
được vô thượng bồ đề sẽ làm cho chúng sanh không có nhận thức
các tướng sai lầm như vậy. Bồ-Tát thành tựu tâm đó, dùng sức
phương tiện h ành Bát-Nhã ba la mật, lúc chưa đầy đủ mười trí
lực nhẫn đến pháp bất cộng thì không chứng lấy thiệt tế. Khi đó
Bồ-Tát tu vô tướng tam muội đầy đủ.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đại Bồ-Tát học sáu ba la mật, họa nội không nhẫn đến học
vô pháp hữu pháp không, học tứ niệm xứ nhẫn đến học ba giải
thoát môn, học mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, đại từ đại
bi, học mười tám pháp bất cộng, thành tựu trí huệ như vậy thì
chẳng bao giờ chấp trước những pháp tạo tác hoặc trụ trước trong
tam giới.
-
Lúc đại
Bồ-Tát này học pháp trợ đạo cũng hành pháp trợ đạo, nên thử hỏi
rằng: đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề sao lại học quán các
pháp không mà chẳng chứng lấy thiệt tế, vì chẳng chứng lấy nên
chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Quán vô tướng, vô
tác, vô khởi, vô sanh, vô sở hữu, cũng chẳng chứng lấy thiệt tế
mà tu Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Lúc thử hỏi như trên nếu đại Bồ-Tát đó đáp như thế này: đại
Bồ-Tát, chỉ nên quán không, chỉ nên quán vô tướng, vô tác, vô
khởi, vô sanh, vô sở hữu. Ðại Bồ-tát chẳng nên học không, vô
tướng, vô tác, vô sanh, vô khởi, vô sở hữu, chẳng nên học pháp
trợ đạo.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Phải biết Bồ-Tát đó chưa được chư Phật thọ ký vô thượng bồ
đề. Tại sao vậy? Vì người này chẳng nói được chỗ sở học của bực
Bồ-Tát bất thối chuyển,, chẳng trình bày được, chẳng giải đáp
được.
-
Nếu đại
Bồ-Tát đó nói được, trình bày được, giải đáp được chỗ sở học của
bực bất thối chuyển, phải biết đó là bực đã học đạo Bồ-Tát nhập
bực Bạc địa như chư đại Bồ-Tát bất thối chuyển khác.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! hừng có Bồ-Tát chưa được bất thối chuyển mà giải đáp
được chăng?
-
Ðức Phật
phán dạy:
-
Có. này Tu
Bồ Ðề! Bồ-Tát đó nơi Bát-Nhã ba la mật hoặc đã nghe hoặc chẳng
nghe, có thể giải đáp được như bực đại Bồ-Tát bất thối chuyển.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề thưa:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Rất đông Bồ-Tát cầu Phật đạo mà ít có Bồ-Tát giải đáp
được như các bực đại Bồ-tát bất thối chuyển trong hàng học và vô
học như vậy.
-
Ðức Phật
phán dạy:
-
Ðúng như
vậy. Bồ-tát đó rất ít. Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát ít có được thọ
ký bực Càn huệ bất thối chuyển. Nếu người nào thọ ký thì có thể
giải đáp được. Thiện căn của người đó sáng rõ. tất cả chư Thiên
cùng người đời không ai phá hoại được.
-
- --o0o--
|
|