Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI MỐT


Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

 

PHẨM TÙY HỶ THỨ SÁU MƯƠI BỐN
 
             Khi đó Thích Ðề Hoàn Nhơn nghĩ rằng: lúc đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật, thiền ba la mật, tấn ba la mật, nhẫn ba la mật, giới ba la mật, thí ba la mật, nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, thì lên trên tất cả chúng sanh, huống là lúc được vô thượng bồ đề.
            Các chúng sanh nghe nhứt thiết chủng trí này, nếu người nào tin nhiểu thì được lợi lành trong hàng người, được hơn hết trong hàng có thọ mạng, huống là phát tâm vô thượng bồ đề. Chúng sanh này hay phát được tâm vô thượng bồ đề. các chúng sanh khác đều phải mong  muốn.
            Thhích Ðề Hoàn Nhơn đem bông mạn đà la cõi Trời rải trên đức Phật mà tuyên lời rằng: do phước đức này, nếu có ai phát tâm vô thượng bồ đề thì làm cho người ấy đầy đủ Phật pháp, đầy đủ nhứt thiết trí, đầy đủ pháp tự nhiên, nếu ai cầu Thanh Văn thì làm cho họ đầy đủ pháp Thanh Văn.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có Bồ-Tát phát tâm vô thượng bồ đề, tôi trọn chẳng sanh một niệm muốn họ thối chuyển, tôi cũng chẳng sanh một niệm khiến họ thối chuyển sa vào bực Thanh Văn Bích Chi Phật.
            Bạch đức Thế-Tôn! Tôi nguyện cho chư Bồ-Tát thêm tinh tấn nơi vô thượng bồ đề hơn, thấy chúng sanh ở trong sanh tử bị nhiều khổ não nên muốn lợi ích an vui vho tất cả thế gian Thiên, Nhơn, A Tu La, do tâm đó mà nguyện rằng: tôi đã tự độ cũng sẽ độ người chưa được độ, tôi đã tự giải thoát cũng sẽ giải thoát người chưa giải thoát, tôi đã an ổn cũng sẽ an người chưa được an, tôi đã diệt độ cũng sẽ khiến người chưa diệt độ được diệt độ.
            Bạch đức Thế-Tôn! Ðối với Bồ-Tát mới phát tâm, thiện nam thiện nữ có tâm tùy hỉ công đức thì được bao nhiêu phước? Với Bồ-Tát phát tâm lâu có tâm tùy hỉ công đức thì được bao nhiêu phước? Với Bồ-Tát bất thối chuyển có tâm tùy hỉ công đức thì được bao nhiêu phước? Với nhứt sanh bổ xứ Bồ-Tát có tâm tùy  hỉ công đức thì được bao nhiêu phước?
            Ðức Phật phán dạy:
            Này Kiều Thi Ca! Cõi nước tứ thiên hạ có thể cân biết được cân lượng, không thể cân lường được phước đức tùy hỉ này. Cõi Ðại Thiên có thể cân biết được cân lượng, không thể cân lường được phước đức tùy hỉ này.
            Lại này Kiều Thi Ca! Cõi nước Ðại Thiên, nước biển đầy trong đó, lấy một sợi tóc chẻ ra làm trăm phần, đem một phần sợi tóc đó chấm lấy nước biển có thể biết được số giọt, không thể đếm biết được phước đức tùy hỉ này.
            Thích Ðề Hoàn Nhơn thưa:
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chúng sanh nào tâm chẳng tùy hỉ vô thượng bồ đề thì đều là quyến thuộc của ma. Các người tâm chẳng tùy hỉ là từ trong ma sanh ra. Tại sao? Vì những người phát tâm tùy hỉ đều vì phá cảnh giới ma mà thọ sanh. Thế nên muốn ái kính tam bảo thì phải có tâm tùy hỉ, rồi hồi hướng vô thượng bồ đề, do vì chẳng một tướng chẳng hai tướng.
            Ðức Phật phán dạy:
            Ðúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Với chư Bồ-Tát, nếu người có tâm tùy hỉ hồi hướng như vậy thì thường gặp chư Phật. Người đó trọn chẳng thấy sắc ác, trọn chẳng nghe tiếng ác, trọn chẳng ngửi mùi ác, trọn chẳng ăn vị ác, trọn chẳng chạm vật ác, trọn chẳng theo niệm ác, trọn chẳng xa rời chư Phật. Người đó sẽ sanh từ một cõi Phật đến một cõi Phật, luôn gần bên Phật và gieo trồng căn lành.
            Tại sao vậy? Vì người đó ở nơi vô lượng vô số thiện căn của chư Bồ-Tát mới phát tâm, của chư Bồ-Tát đệ nhị địa đến cữa đệ thập địa nhứt sanh bổ xứ chư đại Bồ-Tát mà tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề, do nhơn duyên căn lành này mà người đó mau gần vô thượng bồ đề.
            Chư Bồ-Tát này được vô thượng bồ đề rồi độ thoát vô lượng vô biên vô số chúng sanh.
            Này Kiều Thi Ca! Vì thế nên thiện nam thiện nữ ở nơi thiện căn của Bồ-Tát mới phát tâm phải tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề, chẳng phải tâm cũng chẳng phải rời tâm. Ở nơi thiện căn của Bồ-Tát phát tâm lâu, của Bồ-Tát bất thối chuyển, của Bồ-Tát nhứt sanh bổ xứ phải tùy hỉ hồi hướng vô thượng bồ đề, chẳng phải tâm cũng chẳng phải rời tâm.
            Ngai Tu Bồ Ðề thưa:
            Bạch đức Thế-Tôn! Tâm ấy như huyển làm sao có thể được vô thượng bồ đề?
            Này Tu Bồ Ðề! Ngươi có thấy tâm như huyễn đó chăng?
            Bạch đức Thế-Tôn! Không. Tôi chẳng thấy huyễn cũng chẳng thấy tâm như huyễn.
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu không huyễn cũng không tâm như huyễn, ngươi có thấy tâm đó chăng?
            Bạch đức Thế-Tôn! Không.
            Này Tu Bồ Ðề! Rời huyễn và rời tâm như huyễn, ngươi có thấy pháp nào được vô thượng bồ đề chăng?
            Bạch đức Thế-Tôn! Không. Tôi chẳng thấy rời huyễn và rời tâm như huyễn lại có pháp được vô thượng bồ đề.
            Bạch đức Thế-Tôn! Tôi chẳng thấy lại có pháp nào có thể nói được là có là không, vì pháp tướng đó rốt ráo ly, nên chẳng sa vào có chẳng sa vào không.
            Nếu pháp rốt ráo ly thì chẳng thể được vô thượng bồ đề.
            Pháp vô sở hữu cũng chẳng thể được vô thượng bồ đề. Tại sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu, trong đó không có ai cấu không có ai tịnh vậy.
            Thế nên Bát-Nhã ba la mật rốt ráo ly, thiền ba la mật, tấn ba la mật, nhẫn ba la mật, giới ba la mật và thí ba la mật đều rốt ráo ly, nhẫn đến vô thượng bồ đề cũng rốt ráo ly.
            Nếu pháp đã rốt ráo ly thì chẳng  nên tu, chẳng nên hoại. Hành Bát-Nhã ba la mật cũng không có pháp có thể được, vì rốt ráo ly vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu Bát-Nhã ba la mật rốt ráo ly, sao lại nhơn nơi Bát-Nhã ba la mật để được vô thượng bồ đề. Vô thượng bồ đề cũng rốt ráo ly. Trong hai thứ rốt ráo ly đó làm sao có thể có cái bị được.
            Ðức Phật phán  dạy:
            Lành thay!!Lành thay! Bát-Nhã ba la mật rốt ráo ly, thiền, tấn, nhẫn, giới và thí ba la mật đều rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí rốt ráo ly.
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu Bát-Nhã ba la mật rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí rốt ráo ly. Vì thế nên có thể được vô thượng bồ đề.
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu chẳng phải rốt ráo ly thì chẳng gọi là Bát-Nhã ba la mật, chẳng gọi là thiền, tấn, nhẫn, giới thí ba la mật, nhẫn đến chẳng gọi là nhứt thiết chủng trí.
            Này Tu Bồ Ðề! Nếu là Bát-Nhã bab la mật thì rốt ráo ly, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí rốt ráo ly. Vì thế nên chẳng phải chẳng nhơn nơi Bát-Nhã  ba la mật mà được vô thượng bồ đề. Cũng chẳng do nơi ly mà được ly. Nhưng được vô thượng bồ đề chẳng phải chẳng nhơn nơi Bát-Nhã ba la mật.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nghĩa sở hành của đại Bồ-Tát thật là rất sâu.
            Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Nghĩa sở hành của đại Bồ-Tát rất sâu.
            Này Tu Bồ Ðề! Chư đại Bồ-Tát có thể làm những sự khó làm: đó là hành nghĩa sâu mà chẳng chứng bực Thanh Văn bực Bích Chi Phật.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như tôi nghe nghĩa của đức Phật dạy thì sở hành của đại Bồ-Tát chẳng lấy làm khó. Tại sao? Vì đại Bồ-Tát chẳng được nghĩa sâu đó để tác chứng, cũng chẳng được Bát-Nhã ba la mật để tác chứng, cũng không người tác chứng.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng thể được, những nghĩa gì có thể tác chứng, những gì là Bát-Nhã ba la mật tác chứng, những gì là người tác chứng, tác chứng rồi được vô thượng bồ đề?
            Bạch đức Thế-Tôn! Ðây gọi là hạnh của đại Bồ-Tát. Bồ-Tát hành như vậy thì đều được sáng tỏ nơi tất cả pháp.
            Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát nghe pháp đó mà tâm chẳng kinh sợ mê mờ thì gọi là hành Bát-Nhã ba la mật.
            Ðại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật chẳng thấy mình hành Bát-Nhã ba la mật, chẳng thấy là Bát-Nhã ba la mật, cũng chẳng thấy mình sẽ được vô thượng bồ đề.
            Tại sao vậy? Vì lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng nghĩ rằng: Thanh Văn Bích Chi Phật cách  xa tôi, nhứt thiết chủng trí cách tôi gần.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như hư không kia chẳng nghĩ rằng có pháp cách xa nó hay gần nó, vì hư khôong vô phân  biệt.
            Cũng vậy, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật chẳng nghĩ rằng: bực Thanh Văn Bích Chi Phật cách tôi xa, nhứt thiết chủng trí cách tôi gần. Vì trong Bát-Nhã ba la mật vô phân biệt vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như người huyễn chẳng nghĩ rằng huyễn sư cách tôi gần, khán giả cách tôi xa. Vì người huyễn vô phân biệt.
            Cũng vậy, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật chẳng nghĩ là gần là xa, vì vô phân biệt vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như tượng trong gương chẳng nghĩ rằng hình vật sở nhơn gần tôi, thứ khác thì xa tôi. Vì tượng vô phân biệt.
            Cũng vậy, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mậtchẳng nghĩ là gần là xa, vì vô phân biệt vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật không thương không ghét. Vì tự tánh của Bát-Nhã ba la mật bất khả đắc vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như đức Phật không thương không ghét. Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật cũng không thương không ghét. Vì trong Bát-Nhã ba la mật không thương không ghét.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như đức Phật, tất cả phân biệt tưởng niệm đã dứt mất. Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật tất cả phân biệt tưởng niệm cũng vậy dứt mất. Vì rốt ráo không vậy.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như đức Phật hiện ra hóa nhơn. Hóa nhơn đó chẳng nghĩ rằng: bực Thanh Văn Bích Chi Phật cách tôi xa, vô thượng bồ đề cách tôi gần, vì hóa nhơn đó vô phân biệt vậy.
            Cũng vậy, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật chẳng nghĩ rằng Thanh Văn Bích Chi Phật cách tôi xa, vô thượng bồ đề cách tôi gần.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như người vì có chỗ làm nên biến hóa, sự việc biến hóa đó vô phân biệt.
            Bát-Nhã ba la mật cũng vậy, vì có việc phải làm mà tu. Việc ấy thành tựu mà Bát-Nhã ba la mật cũng không phân biệt.
            Bạch đức Thế-Tôn! Như người thợ, vì có việc phải làm nên thầy trò tạo ra người gỗ hoặc voi ngựa trâu dê gỗ. Các hình gỗ đó cũng làm được việc mà vô phân biệt.
            Bát-Nhã ba la mật cũng vậy, vì có sự việc phải làm nên nói sự việc ấy thành tựu, nhưng Bát-Nhã ba la mật vô phân biệt.
            Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu  Bồ Ðề:
            Chỉ có Bát-Nhã ba la mật vô phân biệt thôi, còn năm ba la mật kia có vô phân biệt chăng?
            Ngài Tu Bồ Ðề nói:
            Năm ba la mật kia cũng đều vô phân biệt.
            Ngài Xá Lợi Phất  hỏi ngài Tu Bồ Ðề:
            Sắc vô phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức vô phân biệt, thập nhị nhập, thập bát giới vô phân biệt, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ bát thánh đạo, không vô tướng, vô tác, mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng, vô thượng bồ đề, vô vi tánh cũng đều vô phân biệt.
            Thưa ngài Tu Bồ Ðề! Nếu tất cả pháp từ sắc đến vô vi tánh đều vô phân biệt thì làm sao phân biệt có sáu đạo sanh tử: đó là địa ngục, là ngạ quỷ, là súc sanh, là thiên, là nhơn là A Tu La? Làm sao phân biệt là Tu Ðà Hoàn, là Tư Ðà Hàm, là A Na Hàm, là A La Hán, là Bích Chi Phật,, là chư Phật?
            Ngài Tu Bồ Ðề nói:
            Vì nhơn duyên chúng sanh điên đảo tạo nghiệpp nơi thân, khẩu, ý, theo nghiệp trước mà thọ thân sáu đạo: thân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La, Nhơn, Thiên.
            Như lời ngài nói làm sao phân biệt có Tu Ðà Hoàn nhẫn đến chư Phật?
            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tu Ðà Hoàn tức là vô phân biệt mà có. Quả Tu Ðà Hoàn cũng là vô phân biệt mà có. Nhẫn đến Phật và quả Phật cũng là vô phân biệt mà có.
            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật quá khứ cũng là vô phân biệt, do dứt phân biệt mà có.
            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Vì thế nên phải biết tất cả pháp không có phân biệt, vì tướng bất hoại, các pháp như, pháp tánh, thiệt tế vậy.
            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Thế nên đại Bồ-Tát phảỉ hành Bát-Nhã ba la mật vô phân biệt. Hành Bát-Nhã ba la mật vô phân biệt rồi thì được vô thượng bồ đề vô phân biệt.