Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI HAI


Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM CHÚC LỤY THỨ SÁU MƯƠI SÁU

            Khi đó Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn thưa:
            Bạch đức Thế-Tôn! Tôi nói như vậy, đáp như vậy, có phải là thuận theo pháp mà chẳng phải là chánh pháp chăng?
            Ðức Phật phán dạy:
            Này Kiều Thi Ca! Lời đáp của ngươi đều thuận theo pháp cả.
            Bạch đức Thế-Tôn! Thiệt là hi hữu! Chỗ nói của ngài Tu Bồ Ðề đều là không, là vô tướng là vô tác, là tứ niệm xứ nhẫn đến là vô thượng bồ đề.
            Này Kiều Thi Ca! Tỳ kheo Tu Bồ Ðề lúc hành không, đàn na ba la mật còn là bất khả đắc huống là người hành đàn na ba la mật. Nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật còn bất khả đắc, huống là người hành Bát-Nhã ba la mật. Tứ niệm xứ còn bất khả đắc, huống là người tu tứ niệm xứ. Nhẫn đến bát thánh đạo còn bất khả đắc, huống là người hành bát thánh đạo. Thiền, giải thoát, tam muội định còn bất khả đắc, huống là người tu thiền giải thoát tam muội định. Mười trí lực còn bất khả đắc, huống là người tu mười trí lực. Tứ vô úy còn bất khả đắc, huống là người phát sanh tứ vô úy. Tứ vô ngại trí còn bất khả đắc, huống là người phát sanh tứ vô ngại trí. Ðại từ đại bi còn bất khả đắc, huống là người hành đại từ đại bi. Mười tám pháp bất cộng còn bất khả đắc, huống là người hay sanh mười tám pháp bất cộng. Vô thượng bồ đề còn bất khả đắc, huống là người được vô thượng bồ đề. Nhứt thiết trí còn bất khả đắc, huống là người được nhứt thiết trí. Như Lai còn bất khả đắc, huống là người sẽ làm Như Lai. Pháp vô sanh còn bất khả đắc, huống là người chứng được pháp vô sanh. Ba mươi hai tướng còn bất khả đắc, huống là người được ba mươi hai  tướng. Tám mươi tùy hình hảo còn bất khả đắc, huống là người được tám mươi tùy hình hảo.
            Tại sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Vì Tỳ kheo Tu Bồ Ðề ở nơi tất cả pháp: hành ly, hành vô sở đắc, hành không, hành vô tướng, hành vô tác.
            Này Kiều Thi Ca! Ðem chỗ sở hành của Tỳ kheo Tu Bồ Ðề đây muốn so sánh với hạnh Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần ngàn muôn ức, nhẫn đến toán số thí dụ cũng không bằng được.
            Tại sao vậy? Vì trừ công hạnh của Phật, đối với công hạn của Thanh Văn và Bích Chi Phật, thì công hạnh của Bát-Nhã ba la mật của đại Bồ-Tát là tối tôn tối thượng tối diệu. Thế nên đại Bồ-Tát muốn được tối thượng ở trong tất cả chúng sanh thì phải hành Bát-Nhã ba la mật.
            Lúc hành Bát-Nhã  ba la mật, đại Bồ-Tát vượt trên bực Thanh Văn và Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát, hay dầy đủ Phật pháp được nhứt thiết chủng trí, dứt tất cả tập khí phiền não mà làm Phật.
            Bấy giờ trong đại hội, chư Thiên Ðao Lợi đem hoa mạn đà la cõi trời rải trên đức Phật và chư Tăng.
            Khi đó, tám trăm vị Tỳ kheo đứng dậy rải hoa cúng Phật, trịch y quỳ gối chắp tay bạch rằng:
            Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi sẽ thật hành côn ghạnh vô thượng mà hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật không thể thật hành này.
            Ðức Phật biết tâm niệm của các vị Tỳ kheo nên mỉm cười. Như pháp của chư Phật, những ánh sáng nhiều màu: xanh vàng đỏ trắng hồng tía từ miệng Phật phóng ra chiếu khắp cõi Ðại Thiên, nhiễu quanh đức Phật ba vòng rồi rót vào đảnh đức Phật.
            Ngài A Nan liền đứng dậy trịch y quỳ gối chắp tay bạch rằng:
            Bạch đức Thế-Tôn! Duyên cớ gì mà đức Phật mỉm cười. Chư Phật không bao giờ không nhơn duyên mà cười.
            Ðức Phật phán dạy:
            Này  A Nan! Tám trăm vị Tỳ kheo đây, trong kiếp tinh tú sẽ thành Phật đồng hiệu là Tán Hoa, đại chúng, quốc độ và thọ mạng cũng đều đồng. Mỗi vị đều qua tám muôn tuổi đi xuất gia làm Phật. Thời kỳ đó, các quốc độ của chư Phật ấy thường mưa hoa trời năm màu.
            Thế nên, này A Nan! Ðại Bồ-Tát muốn thật hành công hạnh tối thượng thì phải hành Bát-Nhã ba la mật.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nào có thể thật hành Bát-Nhã ba la mật sâu xa này thì phải biết đó là Bồ-Tát bỏ thân trong loài người mà sanh đến trong đây, hoặc từ trên cung trời Ðâu Suất chết mà đến sanh nơi đây, đã từ trong loài người hoặc trên cung trời Ðâu Suất rộng nghe Bát-Nhã ba la mật sâu xa  này.
            Này A Nan! Ta thấy chư đại Bồ-Tát đó hay thật hành Bát-Nhã ba la mật sâu xa này.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nào nghe Bát-Nhã ba la mật sâu xa này rồi thọ trì đọc tụng thân cận chánh ức niệm lại đem dạy cho người hành đạo Bồ-Tát, phải biết thiện nam thiện nữ đó hiện diện từ chư Phật nghe Bát-Nhã ba la mật sâu xa rồi thọ trì đọc tụng thân cận, cũng đã trồng căn lành từ chỗ chư Phật.
            Thiện nam thiện nữ đó  nên nghĩ rằng: tôi trồng căn lành chẳng phải từ chỗ Thanh Văn nghe Bát-Nhã ba la mật sâu xa.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nào thọ trì đọc tụng thân cận tùy nghĩa tùy pháp thật hành Bát-Nhã ba la mật sâu xa này, phaỉ biết đó là người hiện diện thấy Phật.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nghe Bát-Nhã ba la mật sâu xa này mà  lòng tin thanh tịnh không bị ngăn phá, phải biết đó là người đã từng cúng dường Phật trồng căn lành cùng thiện tri thức tương đắc.
            Này A Nan! Người ở chỗ phước điền của chư Phật trồng căn lành dầu rằng chẳng dối hư nhưng cần được Thanh Văn Bich Chi Phật và  Phật mà được giải thoát. Phải rành rẽ thấu đáo thật hành sáu ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí. Không bao giờ có sự người này chẳng được vô thượng bồ đề mà trụ bực Thanh Văn, Bích Chi Phật.
            Này A Nan! Thế nên ta đem Bát-Nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.
            Này A Nan! Nếu ngươi thọ trì tất cả pháp, trừ Bát-Nhã ba la mật, nếu quên mất thì lỗi còn ít chẳng thành đại tội. Người thọ trì Bát-Nhã ba la mật sâu xa nếu quên mất thì tội rất nhiều. Thế nên ta đem Bát-Nhã ba la mật sâu xa này chúc lụy cho ngươi. Ngươi phải khéo thọ trì, đọc tụng thông thuộc.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ nào, thọ trì Bát-Nhã ba la mật, đó là thọ trì vô thượng bồ đề của tam thế chư Phật: quá khứ vị lai và hiện tại.
            Này A Nan! Nếu có tihện nam thiện nữ  nào hiện tại cúng dường ta với những hoa hương chuỗi ngọc y phục phan lọng và cung kính tôn trọng ca ngợi, thì phải thọ trì Bát-Nhã ba la mật và đọc tụng giảng thuyết thân cận cung kính tôn trọng ca ngợi cúng dường hoa hương chuỗi ngọc phan lọng.
            Này A Nan! Cúng dường Bát-Nhã ba la mật là cúng dường ta, cũng là đã cúng dường tam thế chư Phật rồi.
            Nếu thiện nam thiện nữ nào nghe nói Bát-Nhã ba la mật mà lòng tin thanh tịnh cung kính mống thích đó là đã có lòng tin thanh tịnh cung kính mến thích tam thế chư Phật.
            Này A Nan! Người mến thích chẳng lìa Phật thì phải mến thích chẳng lìa  Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến một câu chớ để quên mất.
            Này A Nan! Ta nói nhơn duyên chúc lụy rất nhiều nay ta chỉ nói tóm lược;
            Như ta là Thế-Tôn thì Bát-Nhã ba la mật cũng là Thế-Tôn. Thế nên vì nhiều nhơn duyên ta đem Bát-Nhã ba la mật chúc lụy cho ngươi.
            Này A Nan! Nay ta ở giữa tất cả thế gian Trời Người A Tu La chúc lụy người: những ai chẳng muốn bỏ Phật bỏ Pháp bỏ Tăng, chẳng bỏ vô thượng bồ đề của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại thì cẩn thận chớ bỏ Bát-Nhã ba la mật.
            Này A  Nan! Ðây chánh là pháp mà ta dạy bảo hàng đệ tử.
            Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ thọ trì Bát-Nhã ba la mật sâu xa, đọc tụng giảng thuyết chánh ức niệm, rồi lại vì người khác nói rộng những ý nghĩa của Bát-Nhã ba la mật đó, chỉ dạy tuyên nói rành rẽ làm cho dễ hiểu. Người này mau được vô thượng bồ đề, mau gần nhứt thiết chủng trí. Vì trong Bát-Nhã ba la mật hay sanh vô thượng bồ đề của chư Phật.
            Này A Nan! Vô thượng bồ đề của chư Phật quá khứ và vị lai đều xuất sanh từ Bát-Nhã ba la mật. Vô thượng bồ đề của mười phương chư Phật hiện nay cũng suất sanh từ Bát-Nhã ba la mật.
            Thế nên đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề phải nên học sáu ba la mật. Vì sáu ba la mật là mẹ của Bồ-Tát, hay sanh ra chư Bồ-Tát.
            Này A Nan! Nếu có đại Bồ-Tát học sáu ba la mật này thì đều sẽ được vô thượng bồ đề. Vì t hế mà ta đem sáu ba la mật chúc lụy cho ngươi lần nữa.
            Này A Nan! Sáu ba la mật đây là tạng pháp vô tận của chư Phật:
            Chư Phật hiện tại thuyết pháp ở mười phương đều ra từ trong tạng pháp sáu ba la mật.
            Chư Phật quá khứ cũng từ trong sáu ba la mật mà học được vô thượng bồ đề.
            Chư Phật vị lai sẽ từ trong sáu ba la mật mà học được vô thượng bồ đề.
            Hàng đệ tử của tam thế chư Phật đều từ trong sáu ba la mật mà học được diệt độ: hoặc đã diệt độ, hoặc đương diệt độ, hoặc sẽ được diệt độ.
            Này A Nan! Người vì hàng Thanh Văn mà thuyết pháp làm cho chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều chứng được quả A La Hán, vẫn chưa phải là sự việc của đệ tử Phật. Nếu ngươi đem một câu đúng với Bát-Nhã ba la mật dạy cho đại Bồ-Tát mới phải là sự việc của đệ tử Phật. Ta cũng rất vui mừng hơn là người dạy cho chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều chứng được quả A La Hán.
            Lại này A Nan! Chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đây, không trước không sau, đồng thời đều chứng được quả A La Hán. Chư A La Hán này thật hành công đức bố thí trì giới, thiền định. Công đức đó có nhiều chăng?
            Bạch đức Thế-Tôn! Công đức đó rất nhiều.
            Vẫn chẳng bằng đệ tử của ta đem pháp đúng với Bát-Nhã  ba la mật nói cho đại Bồ-Tát nhẫn đến chừng một ngày, phước đức người này rất nhiều.
            Chẳng những một ngày, chỉ chừng nửa ngày, chỉ chừng khoảng bữa ăn, hoặc chỉ nói pháp trong giây phút, phước đức cũng rất nhiều. Vì căn lành của đại Bồ-Tát hơn tất cả Thanh Văn và Bích Chi Phật.
            Ðại Bồ-Tát tự mình muốn được vô thượng bồ đề cũng dạy bảo người khác cho họ được vô thượng bồ đề.
            Này A Nan! Bồ-Tát như vậy hành sáu ba la mật, hành tứ niệm xứ nhẫn đến hành nhứt thiết chủng trí thêm lớn căn lành mà chẳng được vô thượng bồ đề thì không bao giờ có.
            Lúc nói Bát-Nhã ba la mật như vậy đức Phật ở giữa tứ chúng Trời, người, quỷ thần bát bộ mà hiện thần thông biến hóa. Tất cả đại chúng đều thấy đức Phật A Súc đương thuyết pháp cho chư Tỳ kheo tăng. Chư tăng này dông nhiều như nước biển cả, đều là bực A La Hán sạch hết phiền não, đều được tự tại giải thoát: tâm giải thoát và huệ giải thoát, tâm điều hòa nhu thuận như đại tượng, chỗ làm đã xong, đã được tự lợi, hết kiết sử, được chánh trí giải thoát, trong tất cả tâm và tâm sở đều được tự tại. Cũng thấy chư đại Bồ-Tát thành tựu vô lượng công đức.
            Bấy giờ đức Phật nhiếp thần túc, đại chúng không còn thấy đức Phật A Súc và đại hội Thanh Văn Bồ-Tát cùng nước Diệu Hỷ đối trước mắt nữa.
            Ðức Phật bảo ngài A Nan:
            Này A Nan! Tất cả pháp chẳng đối lập với mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp biết nhau.
            Như cõi nước Phật A Súc và Thanh Văn Bồ-Tát chẳng đối lập trước mắt, các pháp cũng chẳng đối lập trước mắt: các pháp chẳng thấy nhau, các pháp chẳng biết nhau. Vì các pháp không thấy không biết không tác không động,, chẳng nắm lấy được, chẳng nghĩ bàn được.
            Như huyễn nhơn không lãnh thọ không cảm giác không chơn thiệt. Ðại Bồ-Tát hành như vậy là hành Bát-Nhã  ba la mật, chẳng nắm lấy các pháp.
            Này A Nan! Ðại Bồ-Tát học như vậy gọi là học Bát-Nhã ba la mật.
            Người muốn được các ba la mật phải học Bát-Nhã ba la mật.
            Học như vậy gọi là đệ nhứt học, là tối thượng học, là vi diệu học.
            Học như vậy là an lạc lợi ích tất cả thế gian: kẻ không được cứu hộ thì làm người cứu hộ họ.
            Học như vậy là chỗ học của chư Phật. Chư Phật an trụ trong sự học đó có thể dùng tay hữu cất cõi Ðại Thiên lên rồi đặt lại chỗ cũ mà chúng sanh trong đó vẫn không hay không biết.
            Tại sao vậy? Này A Nan! Chư Phật học Bát-Nhã ba la mật này, được tri kiến vô ngại đối với tất cả pháp quá khứ, vị lai, và hiện tại.
            Này A Nan! Trong các sự học, Bát-Nhã ba la mật là tối tôn đệ nhứt vi diệu vô thượng.
            Này A Nan! Có người nào muốn được ngần mé của Bát-Nhã ba la mật đó là muốn được bờ mé của hư không.
            Tại sao vậy? Vì Bát-Nhã ba la mật là vô lượng. Ta chẳng bao giờ nói lượng của Bát-Nhã ba la mật. Những dnah từ những câu, những chữ là hữu lượng, Bát-Nhã ba la mật là vô lượng.
            Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao Bát-Nhã ba la mật là vô lượng?
            NÀy A Nan! Vì Bát-Nhã ba la mật vô tận nên vô lượng. Vì Bát-Nhã ba la mật ly nên vô lượng.
            Này A Nan! Chư Phật quá khứ học Bát-Nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận. Chư Phật vị lai học Bát-Nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận. Chư Phật hiện tại mười phương học Bát-Nhã ba la mật này mà đắc độ nên là vô tận, đã đương và sẽ vô tận.
            Người nào muốn cùng tận Bát-Nhã ba la mật này đó là kẻ muốn cùng tận hư không.
            Bát-Nhã ba la mật chẳng cùng tận: đã sẽ và đương chẳng cùng tận.
            Năm ba la mật: thiền đến thí ba la mật cũng chẳng cùng tận: đã sẽ và đương chẳng cùng tận.
            Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng như vậy.
            Tại sao vậy? Vì tất cả pháp đó đều vô sanh. Nếu các pháp đó đã vô sanh thì làm sao có tận.
            Khi đó đức Phật hiện tướng lưỡi che trùn cả mặt mà bảo ngài A Nan rằng:
            Từ  ngày nay ở giữa bốn bộ chúng giảng dạy rộng rãi rành rẽ Bát-Nhã ba la mật, phải cho rành rẽ dễ hiểu.
            Tại sao vậy? Vì trong Bát-Nhã  ba la mật sâu xa này nói rộng các pháp tướng. Trong đại chúng đây người cầu Thanh Văn, cầu Bích Chi Phật, cầu Phật đạo đều phải học trong này. Học xong thì đều được thành tựu cả.
            Này A Nan! Bát-Nhã ba la mật  sâu xa này là tất cả tự môn. Hành nơi đây có thể vào môn Ðà La Ni. Bồ-Tát học môn Ðà La Ni này thì được tất cả biện tài vô ngại.
            Này A Nan! Bát-Nhã ba la mật là diệu pháp của tất cả tam thế chư Phật.
            Vì thế nên ta vì người mà giảng dạy rành rẽ.
            Nếu có  người nào thọ trì đọc tụng thân cận Bát-Nhã ba la  mật sâu xa thì có thể thọ trì vô thượng bồ đề của tam thế chư Phật.
            Này A Nan! Ta nói Bát-Nhã ba la mật là đôi chưn của hành giả. Người thọ trì Bát-Nhã ba la mật này thì có thể thọ trì tất cả pháp, vì người được Ðà La Ni vậy.