Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI BA
-
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM ĐẠI PHƯƠNG TIỆN THỨ
SÁU MƯƠI CHÍN
-
-
Khi đó ngài Tu Bồ Ðề thưa:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát đó thành tựu sức
phương tiện như vậy, từ lúc phát tâm đến nay được bao lâu?
-
Ðức Phật phán dạy:
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đó thành tựu được sức
phương tiện, từ lúc phát tâm đến nay đã vô lượng vô số kiếp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát đó thành tựu sức
phương tiện như vậy là cúng dường bao nhiêu đức Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đó thành tựu sức phương
tiện như vậy cúng dường chư Phật như số cát sông Hằng.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-Tát được sức phương tiện
như vậy là trồng thứ căn lành nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát thành tựu sức phương tiện
như vậy, từ lúc mới phát tâm đến nay đầy đủ cả Ðàn na ba la
mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lô gia ba la
mật, Thiền na ba la mật và Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát thành tựu sức
phương tiện như vậy thiệt là rất ít có.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như mặt trời mặt trăng đi quanh
soi sáng bốn phương thiên hạ đem lại nhiều sự lợi ích.
-
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật chiếu năm ba la mật
kia đem nhiều sự lợi ích.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như Chuyển Luân Thánh Vương, do
thành tựu luân bửu nên được gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.
-
Cũng vậy, năm ba la mật kia nếu rời Bát-Nhã ba
la mật thì chẳng được tên ba la mật. Nếu chẳng rời Bát-Nhã
ba la mật thì năm ba la mật kia được tên ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như phụ nữ không chồng dễ bị xâm
phạm.
-
Cũng vậy, nếu năm ba la mật kia xa lìa Bát-Nhã
ba la mật thì ác ma, hoặc thiên ma phá hoại rất dễ dàng. Nếu
năm ba la mật kia được Bát-Nhã ba la mật thì ma không ngăn
phá được. Như phụ nữ có chồng thì khó bị xâm phạm.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như binh tướng trang bị giáp
trượng đầy đủ thì lân quốc cường địch không xâm lăng được.
-
Cũng vậy, năm ba la mật kia chẳng xa lìa Bát-Nhã
ba la mật thì ác ma hoặc thiên ma, hoặc kẻ tăng thượng
mạng, hoặc Bồ-Tát Chiên đà la không phá hoại được.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như các tiểu vương tùy thời về
chầu Chuyển Luân Thánh Vương.
-
Cũng vậy, năm ba la mật tùy thuận Bát-Nhã ba la
mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như các dòng nước chảy vào sông
Hằng đổ vào biển cả.
-
Cũng vậy, năm ba la mật nhờ Bát-Nhã ba la mật
thủ hộ theo đến nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như tay mặt của người làm việc
tiện lợi, Bát-Nhã ba la mật cũng vậy.
-
Như tay trái của người làm việc chẳng tiện, năm
ba la mật củng vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như các dòng nước hoặc lớn hoặc
nhỏ đều chảy vào biển lớn.
-
Cũng vậy, năm ba la mật được Bát-Nhã ba la mật
thủ hộ, theo Bát-Nhã ba la mật nhập nhứt thiết chủng trí
được tên ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như bốn binh chủng của Chuyển Luân
Thánh Vương, luân bửu dẫn đạo đi trước. Ý vua muốn dừng lại
thì luân bửu liền dừng lại khiến bốn binh chủng đều được
mãn nguyện mà luân bửu cũng chẳng rời khỏi vị trí của nó.
-
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật dẫn đạo năm ba la
mật đến nhứt thiết chủng trí luôn ở trong đó chẳng rời chỗ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như luân bửu dẫn đạo bốn binh
chủng của Luân Vương.
-
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật đến nhứt thiết chủng
trí.
-
An trụ Bát-Nhã ba la mật cũng chẳng phân biệt
rằng bố thí ba la mật tùy tùng tôi còn bốn ba la mật kia thì
không tùy tùng. Bố thí ba la mật cũng chẳng phân biệt rằng
tôi tùy tùng Bát-Nhã ba la mật còn bốn ba la mật kia thì
không tùy tùng. Các ba la mật kia cũng đều chẳng phân biệt
như vậy.
-
Tại sao vậy?
-
Vì tánh của các ba la mật không cỗ năng vi tạo
tác, tự tánh nó là không, là hư dối như huyễn ảo.
-
Khi đó ngài Tu Bồ Ðề thưa:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh không,
thế nào đại Bồ-Tát hành sáu ba la mật lại sẽ được vô thượng
bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc hành sáu ba la mật
nghĩ rằng tâm thế gian này đều điên đảo, nếu tôi không dùng
sức phương tiện thì không thể độ thoát chúng sanh thoát sanh
tử. Vì chúng sanh mà tôi thành Bố thí ba la mật, Trì giới
ba la mật, Nhẫn nhục ba la mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền na
ba la mật và Bát-Nhã ba la mật.
-
Vì chúng sanh mà Bồ-Tát xả thí vật sở hữu trong
thân ngoài thân. Lúc xả nghĩ rằng tôi không xả chi cả. Tại
sao vậy? Vì những vật đó sẽ bại hoại.
-
Suy nghĩ như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được Bố
thí ba la mật.
-
Vì chúng sanh mà Bồ-Tát trọn không phát giới,
nghĩ rằng: tôi vì chúng sanh mà phát tâm vô thượng bồ đề nếu
giết hại chúng sanh thì không phải. Nhẫn đến nghĩ rằng: tôi
vì chúng sanh mà phát tâm vô thượng bồ dề nếu tà kiến hay
ham bực Thanh Văn bực Bích Chi Phật thì không phải.
-
Suy nghĩ như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được
Trì giới ba la mật.
-
Vì chúng sanh mà Bồ-Tát chẳng sanh lòng sân hận
dầu chỉ một niệm, nghĩ rằng: tôi phải làm lợi ích cho chúng
sanh, sao tôi lại sanh khởi sân hận.
-
Suy nghĩ như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được
Nhẫn nhục ba la mật.
-
Vì cúng snah nên từ lúc phát tâm đến lúc được vô
thượng bồ đề, Bồ-Tát không hề sanh lòng lười biếng.
-
Siêng cần như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được
Tinh tấn ba la mật.
-
Vì chúng sanh nên từ lúc phát tâm đến lúc được
vô thượng bồ đề, Bồ-Tát không để tâm tán loạn.
-
Nhiếp tâm như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được
Thiền na ba la mật.
-
Vì chúng sanh nên từ lúc phát tâm đến lúc được
vô thượng bồ đề,, Bồ-Tát trọn chẳng rời trí tuệ. Vì ngoài
trí tuệ không còn pháp nào để có thể độ thoát chúng sanh.
-
Tu trí huệ như vậy, Bồ-Tát có thể trọn vẹn được
Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu các ba la mật không tướng
sai biệt, tại sao ở trong năm ba la mật, Bát-Nhã ba la mật
lại là vi diệu tối thượng đệ nhứt?
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Các ba la mật vẫn
không sai biệt, nhưng nếu không Bát-Nhã ba la mật thì năm ba
la mật kia không được tên ba la mật. Do Bát-Nhã ba la mật mà
năm ba la mật kia được tên ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như những loài chim nhiều màu sắc,
đến kế bên núi Tu Di thì đều đồng một màu.
-
NĂm ba la mật cũng vậy, do Bát-Nhã đến trong
nhứt thiết chủng trí chuyển thành một thứ không sai khác.
Chẳng còn phân biệt là Bố thí ba la mật, Trì giới ba la mật,
Nhẫn nhục ba la mật, Tinh tấn ba la mật, Thiền na ba la mật,
Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại isao vậy? Vì các ba la mật không tự tánh, do
đó mà các ba la mật không sai khác.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu theo thiệt nghĩa không
phân biệt, tạisao ba la mật ở trong năm ba la mật lại là vi
diệu tối thượng?
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Dầu trong thiệt
nghĩa không phân biệt, nhưng vì thế tục mà nói là đàn na ba
la mật đến Bát-Nhã ba la mật.
-
Vì muốn độ chúng sanh thoát ly sanh tử. Nhưng
thiệt thì chúng sanh chẳng sanh chẳng tử chẳng khởi chẳng
thối.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chúng sanhvô sở hữu nên phải
biết tất cả pháp vô sở hữu. Do cớ đó mà Bát-Nhã ba la mật ở
trong năm ba la mật là vi diệu tối tôn tối thượng.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như ở Diêm Phù Ðề trong hàng phụ
nữ, thì ngọc nữ là đệ nhứt tối thượng tối diệu.
-
Cũng vậy, ở trong năm ba la mật thì Bát-Nhã ba
la mật là đệ nhứt tối thượng vi diệu.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Do ý gì mà đức Phật nói
Bát-Nhã ba la mật là tối thượng tối diệu?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì Bát-Nhã ba la mật này giữ lấy
tất cả pháp lành đem đến trong nhứt thiết chủng trí, trụ mà
chẳng trụ vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật có pháp lấy
được bỏ được chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không. Bát-Nhã ba la mật không
phap1 lấy được, không pháp bỏ được. Tại sao? Vì tất cả pháp
chẳng lấy chẳng bỏ vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nơi những pháp nào mà Bát-Nhã
ba la mật chẳng lấy chẳng bỏ?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật: nơi sắc chẳng
lấy chẳng bỏ, nơi thọ, tưởng, hành, thức chẳng lấy chẳng bỏ.
Nhẫn đến vô thượng bồ đề chẳng lấy chẳng bỏ.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao chẳng lấy sắc nhẫn đến
chẳng lấy vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu Bồ-Tát chẳng nhớ nghĩ sắc nhẫn
đến chẳng nhớ nghĩ vô thượng bồ đề, đó gọi là chẳng lấy sắc
nhẫn đến chẳng lấy vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chẳng nghĩ nhớ sắc nhẫn
đến chẳng nghĩ nhớ vô thượng bồ đề, thì thế nào tăng ích
được căn lành. Căn lành chẳng tăng ích thì thế nào trọn vẹn
được các ba la mật. Các ba la mật nếu chẳng trọn vẹn thì làm
sao được vô thượng bồ đề??
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu Bồ-Tát chẳng nghĩ nhớ sắc
nhẫn đến chẳng nghĩ nhớ vô thượng bồ đề, chánh lúc đó căn
lành được tăng ích. Do căn lành tăng ích nên trọn vẹn các ba
la mật. Do trọn vẹn các ba la mật nên được vô thượng bồ đề.
-
Tại sao? Vì lúc chẳng nghĩ nhớ sắc nhẫn đến
chẳng nghĩ nhớ vô thượng bồ đề thì chánh là lúc được vô
thượng bồ đề vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao lúc chẳng nghĩ nhớ sắc
nhẫn đến chẳng nghĩ nhớ vô thượng bồ đề bèn được vô thượng
bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì nhớ nghĩ mà tham trước ba cõi:
dục, sắc và vô sắc. Vì chẳng nhớ nghĩ nên không tham trước.
Thế nên đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật chẳng nên có chỗ
tham trước.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Hành Bát-Nhã ba la mật như
vậy, đại Bồ-Tát an trụ chỗ nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Hành như vậy, đại Bồ-Tát chẳng trụ
nơi sắc, nhẫn đến chẳng trụ nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Do vì cớ gì mà đại Bồ-Tát
chẳng trụ trong sắc nhẫn đến chẳng trụ trong nhứt thiết
chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì chẳng tham trước nên chẳng trụ.
Tại sao? Vì Bồ-Tát này chẳng thấy có pháp nào để trước được
trụ được. Như vậy, đại Bồ-Tát dùng chẳng trước chẳng trụ nơi
pháp mà hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu Bồ-Tát nghĩ rằng hành được
như vậy tu được như vậy đó là hành Bát-Nhã ba la mật. Nay
tôi hành Bát-Nhã ba la mật, tôi tu Bát-Nhã ba la mật. Nếu
Bồ-Tát nắm lấy tướng như vậy thì chánh là xa rời bát-Nhã ba
la mật. Nếu xa rời Bát-Nhã ba la mật thì chánh là xa rời Ðàn
na ba la mật đến nhứt thiết chủng trí .
-
Tại sao? Vì Bát-Nhã ba la mật không chỗ trước,
tự tánh không.
-
Nếu Bồ-Tát trước tướng như vậy thì thối nơi
Bát-Nhã ba la mật. Nếu thối Bát-Nhã ba la mật thì thối vô
thượng bồ đề, chẳng được thọ ký.
-
Nếu Bồ-Tát nghĩ rằng trụ Bát-Nhã ba la mật này
hay sanh Ðàn na ba la mật nhẫn đến hay sanh đaị bi. Nghĩ như
vậy thì mất Bát-Nhã ba la mật. Mất Bát-Nhã ba la mật thì
chẳng sanh được Ðàn na ba la mật nhẫn đến chẳng sanh được
đại bi.
-
Nếu Bồ-Tát lại nghĩ rằng chư Phật vì biết các
pháp không thọ không tưởng nên được vô thượng bồ đề. Nếu
Bồ-Tát diễn thuyết khai thị dạy bảo như vậy thì mất Bát-Nhã
ba la mật.
-
Tại sao? Vì đối với các pháp, chư Phật không chỗ
biết không chỗ được cũng không có pháp nói được huống là có
chỗ được. Không bao giờ có như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật
làm sao không bị lỗi lầm đó?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la
mật nghĩ rằng các pháp vô sở hữu chẳng lấy được. Nếu pháp đã
là vô sở hữu không lấy được thì là vô sở đắc. Hành như vậy
chánh là hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Nếu Bồ-Tát chấp trước pháp vô sở hữu thì xa rời
Bát-Nhã ba la mật. Tại sao? Vì trong Bát-Nhã bala mật không
có pháp chấp trước vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Bát-Nhã ba la mật xa rời
Bát-Nhã ba la mật chăng? Ðàn na ba la mật xa rời Ðàn na ba
la mật chăng? Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí xa rời nhứt
thiết chủng trí chăng?
-
Nếu như vậy thì làm sao Bồ-Tát được Bát-Nhã ba
la mật nhẫn đến được nhứt thiết chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát không quan niệm sắc: đây là sắc, là sắc gì. Nhẫn đến
không quan niệm nhứt thiết chủng trí: đây là nhứt thiết
chủng trí, nhứt thiết chủng trí gì? Như vậy là Bồ-Tát đó hay
sanh được Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến hay sanh được nhứt
thiết chủng trí.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật,
đại Bồ-Tát chẳng quán sắc là thường hay vô thường, là khổ
hay lạc, là ngã hay vô ngã, là không hay bất không, là ly
hay phi ly.
-
Tại sao? Vì tự tánh chẳng sanh được tự tánh.
-
Nhẫn đến với nhứt thiết chủng trí cũng như vậy.
-
Nếu hành Bát-Nhã ba la mật mà quán sắc nhẫn đến
quán nhứt thiết chủng trí như vậy, thì Bồ-Tát hay sanh được
Bát-Nhã ba la mật nhẫn đến hay sanh được nhứt thiết chủng
trí.
-
Như Chuyển Luân Thánh Vương đến chốn nào thì bốn
binh chủng đều tùy tùng.
-
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật đến đâu thì năm ba
la mật đều tùy tùng theo đến an trụ trong nhứt thiết chủng
trí.
-
Như giỏi đánh xe tứ mã chẳng lạc đường bằng
thẳng thì tùy ý đếnchỗ muốn.
-
Cũng vậy, Bát-Nhã ba la mật ngồi trên năm ba la
mật chẳng mất chánh đạo đến nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Gì là đạo gì là phi đạo của
đại Bồ-Tát?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðạo Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật,
chẳng phải là đạo của Bồ-Tát. Ðạo Nhứt thiết trí là đạo của
Bồ-Tát. Ðó gọi là đạo và phi đạo của đại Bồ-Tát.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chư đại Bồ-Tát vì đại sự mà
phát khởi Bát-Nhã ba la mật: đó là hiển thị là đạo và là phi
đạo.
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Vì đại sự mà Bát-Nhã
ba la mật phát khởi: đó là hiển thị là đạo, là phi đạo.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật vì độ vô lượng
chúng sanh mà phát khởi, vì lợi ích vô số chúng sanh mà phát
khởi.
-
Dầu làm sự lợi ích đó mà bát-Nhã ba la mật chẳng
thọ sắc, chẳng thọ thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng thọ
bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật là hướng đạo của
chư đại Bồ-Tát, chỉ bày vô thượng bồ đề, hay làm cho xa rời
bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật, mà an trụ nhứt thiết chủng
trí. Vì Bát-Nhã ba la mật không sanh không diệt, các pháp
thường trụ vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu Bát-Nhã ba la mật không
sanh không diệt, chư đại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật
sao lại phải bố thí, phải trì giới, phải nhẫn nhục, phải
tinh tấn, phải thiền định? Sao lại pải tu trí huệ?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát niệm nhứt thiết chủng
trí phải bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ. Ðại Bồ-Tát đem công đức đó cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng vô thượng bồ đề. Hồi hướng như vậy thì
trọn vẹn sáu ba la mật và tâm từ bi cùng các công đức.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát chẳng xa rời sáu ba
la mật thì chẳng rời nhứt thiết chủng trí.
-
Thế nên đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề thì
phải học, phải hành sáu ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát hành sáu ba la mật thì đầy đủ tất cả
các căn lành sẽ được vô thượng bồ đề.
-
Thế nên đại Bồ-Tát phải tập hành sáu ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát phải tập hành sáu
ba la mật thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải quán như thế này:
-
Sắc chẳng hiệp chẳng tan. Thọ, tưởng, hành và
thức chẳng hiệp chẳng tan. Nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí
chẳng hiệp chẳng tan. Ðây gọi là đại Bồ-Tát tập hành sáu ba
la mật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải suy nghĩ như
vầy:
-
Tôi chẳng nên trụ trong sắc, tôi chẳng nên trụ
trong thọ, tưởng, hành, thức. Nhẫn đến tôi chẳng trụ trong
Nhứt thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì sắc không chỗ trụ, vì
thọ, tưởng, hành, thức không chỗ trụ. Nhẫn đến vì Nhứt
thiết chủng trí không chỗ trụ.
-
Ðại Bồ-Tát dùng pháp vô trụ tập hành sáu ba la
mật thì sẽ được vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như có người muốn ăn trái am la,
trái ba na bà thì phải gieo hột của nó, rồi tùy thời mà tưới
bón vun quén, cây đó lần lần mọc lớn đến thời tiết hòa hiệp
thì có trái để được ăn.
-
Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề
phải học sáu ba la mật: dùng bố thí để nhiếp lấy chúng sanh,
trì giới, nhân nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, để nhiếp
thủ chúng sanh, độ chúng sanh thoát sanh tử. Ðại Bồ-Tát hành
như vậy sẽ được vô thượng bồ đề.
-
Thế nên, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát muốn chẳng
theo lời người thì phải học Bát-Nhã ba la mật, muốn tịnh
Phật quốc độ thành tựu chúng sanh, muốn ngồi đạo tràng, muốn
chuyển pháp luân thì phải học Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại Bồ-Tát muốn ở nơi tất cả pháp được tự tại
thì phải học Bát-Nhã ba la mật. Học Bát-Nhã ba la mật này
thì được tự tại ở trong tất cả pháp.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ở trong tất cả các pháp
Bát-Nhã ba la mật là tối đại. Như biển cả là tối đại trong
muôn dòng sông. Thế nên người muốn cầu Thanh Văn, Bích Chi
Phật và Bồ-Tát đạo thì phải học Bát-Nhã ba la mật, nhẫn đến
Nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như nhà thiện xạ tay cầm cung tên
như ý thì chẳng sợ giặc thù.
-
Cũng vậy, đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật thì
ma và thiên ma chẳng phá hoại được.
-
Thế nên đại Bồ-Tát muốn được vô thượng bồ đề thì
phải hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật này được chư Phật
mười phương hộ niệm.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào chư Phật mười phương
hộ niệm cho đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc hành Ðàn na ba la
mật, chư Phật mười phương đều hộ niệm, lúc hành Thi la ba la
mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la
mật, Bát-Nhã ba la mật thì chư Phật mười phương đều hộ niệm.
-
Hộ niệm thế nào?
-
Bố thí bất khả đắc, trì giới nhẫn đến nhứt thiết
chủng trí bất khả đắc.
-
Ðại Bồ-Tát có thể chẳng được các pháp như vậy
thì chư Phật đều hộ niệm đại Bồ-Tát.
-
Lại này, Tu Bồ Ðề! Chư Phật chẳng vì sắc, chẳng
vì thọ, tưởng, hành, thức mà niệm, nhẫn đến chẳng vì nhứt
thiết chủng trí mà niệm.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát chỗ học rất nhiều,
thiệt ra không chỗ học.
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát chỗ học
rất nhiều, thiệt ra không chỗ học. Tại sao? Vì đại Bồ-Tát
chỗ học các pháp đều bất khả đắc.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Chỗ thuyết pháp hoặc lược,
hoặc rộng của đức Phật. Ở trong các pháp đó, chư đại Bồ-Tát
muốn cầu vô thượng bồ đề, đối với sáu ba la mật hoặc lược,
hoặc rộng phải thọ trì đọc tụng, rồi suy gẫm chánh quán, vì
tâm và tâm sở chẳng hiện hành vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Ðại Bồ-Tát học sáu
ba la mật hoặc lược, hoặc rộng thì phải biết tướng lược
tướng rộng của tất cả pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát biết tướng lược,
rộng của tất cả pháp thế nào?
-
Này Tu Bồ Ðề! Biết sắc tướng như, biết thọ,
tưởng, hành, thức tướng như, nhẫn đến biết Nhứt thiết củng
trí tướng như. Ðó là biết được tướng lược và rộng của tất cả
pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là tướng như của sắc,
thế nào là tướng như của thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến
Nhứt thiết chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Sắc ấy như: Không sanh không diệt
không trụ không dị, đây gọi là tướng như của Nhứt thiết
chủng trí. Trong đây đại Bồ-Tát cần phải học.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc biết thiệt tế
của các pháp đó là biết tướng lược và rộng của tất cả pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là thiệt tế của các
pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Vô tế gọi là thiệt đại tế. Bồ-Tát
học thiệt tế này thì biết tướng lược rộng tất cả pháp.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát biết pháp tánh của
các pháp thì biết được tướng lược rộng của tất cả pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là pháp tánh của các
pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Sắc tánh gọi là pháp tánh.
-
Tánh đó không phần không phi phần. Vì biết pháp
tánh mà Bồ-Tát biết tướng lược, rộng của tất cả pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Lại phải thế nào biết tướng
lược, rộng của tất cả pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát biết tất cả pháp
chẳng hiệp chẳng tan.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những pháp gì chẳng hiệp chẳng
tan?
-
Này Tu Bồ Ðề! Sắc chẳng hiệp chẳng tan, Thọ,
tưởng, hành, thức chẳng hiệp chẳng tan. Nhẫn đến Nhứt thiết
chủng trí chẳng hiệp chẳng tan. Hữu vi tánh vô vi tánh chẳng
hiệp chẳng tan.
-
Tại sao? Vì các pháp đó tự tánh không thì làm
sao có hiệp có tan! Nếu các pháp đã là tự tánh không thì là
phi pháp. Pháp cùng phi pháp chẳng hiệp chẳng tan. Phải nên
biết tướng lược, rộng của tất cả pháp như vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðó gọi là đại Bồ-Tát lược
nhiếp Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong lược nhiếp Bát-Nhã ba la
mật này, hàng Bồ-Tát mới phát tâm cần phải học, nhẫn đến đại
Bồ-Tát bực thập địa cũng phải học.
-
Ðại Bồ-Tát học lược nhiếp Bát-Nhã ba la mật này
thì biết được tướng lược rộng của tất cả pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp môn này, bực đại Bồ-Tát
lợi căn có thể nhập dược.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bực Bồ-Tát độn căn cũng nhập được
pháp môn này. Bực Bồ-Tát trung căn và Bồ-Tát tán tâm cũng
nhập được môn này.
-
Pháp môn này không trở ngại.
-
Nếu đại Bồ-Tát nhứt tâm học, đều nhập được pháp
môn này.
-
Người giải đãi ít tinh tấn, vọng ức niệm loạn
tâm thì chẳng nhập được. Người tinh tấn chẳng giải đãi,
chánh ức niệm nhiếp tâm thì vào được.
-
Người muốn trụ bực bất thối chuyển, người muốn
đến Nhứt thiết chủng trí thì vào được.
-
Các Bồ-Tát này phải học đúng như Bát-Nhã ba la
mật đã nói, nhẫn đến phải học đúng như Ðàn na ba la mật đã
nói.
-
Ðại Bồ-Tát này sẽ được Nhứt thiết chủng trí.
-
Ðại Bồ-Tát này hành Bát-Nhã ba la mật, nếu có
bao nhiêu ma sự vừa phát sanh thì liền diệt mất.
-
Vì thế nên đại Bồ-Tát muốn có sức phương tiện
thì phải hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Nếu đại Bồ-Tát hành, tập và tu Bát-Nhã ba la mật
như vậy thì được hiện tại chư Phật trong vô lượng vô số thế
giới hộ niệm.
-
Tại sao vậy? Vì trong Bát-Nhã ba la mật này xuất
sanh chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, chư Phật hiện tại.
-
Thế nên đại Bồ-Tát phải nghĩ rằng pháp của tam
thế chư Phật được, tôi cũng sẽ được như vậy.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải tập Bát-Nhã ba la
mật. Nếu tập Bát-Nhã ba la mật như vậy, thì mau được vô
thượng bồ đề.
-
Do đó nên đại Bồ-Tát thường chẳng được xa rời
tâm Nhứt thiết chủng trí.
-
Nếu đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật như vậy,,
nhẫn đến chừng khoảng khẩy ngón tay, được phước đức rất
nhiều.
-
Nếu có người giáo hóa chúng sanh trong cõi Ðại
Thiên bố thí vô giá, dạy họ trì giới, thiền định, trí huệ,
dạy họ được giải thoát, giải thoát tri kiến, dạy họ được quả
Tu Ðà Hoàn đến quả Bích Chi Phật, vẫn chẳng bằng Bồ-Tát này
tu Bát-Nhã ba la mật chừng khoảng khẩy móng tay.
-
Tại sao? Vì trong Bát-Nhã ba la mật này hay
xuất sanh bố thí đến trí huệ, hay xuất sanh quả Tu Ðà Hoàn
đến quả Bích Chi Phật.
-
Chư Phật hiện tại mười phương đều từ trong
Bát-Nhã ba la mật mà xuất sanh.
-
Chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai cũng đều trong
Bát-Nhã ba la mật mà xuất sanh.
-
Lại này, Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đúng tâm Nhứt
thiết chủng trí mà hành Bát-Nhã ba la mật, hoặc chừng khoảng
khẩy ngón tay, hoặc nửa ngày hay một ngày, một tháng, trăm
ngày, một năm, hoặc trăm năm, một kiếp, trăm kiếp,, nhẫn đến
hoặc vô lượng vô biên vô số kiếp. Bồ-Tát đó tu Bát-Nhã ba la
mật này, được phước đức rất nhiều, hơn là dạy chúng sanh
trong hằng sa thế giới ở mười phương bố thí,, trì giới,
thiền định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, được
quả Tu Ðà Hoàn đến quả Bích Chi Phật.
-
Tại sao? Vì chư Phật xuất sanh từ trong Bát-Nhã
ba la mật tuyên thuyết bố thí đến giải thoát tri kiến, tuyên
thuyết quả Tu Ðà Hoàn đến quả Bích Chi Phật.
-
Nếu có đại Bồ-Tát an trụ đúng như Bát-Nhã ba la
mật đã nói, phải biết đó là bực Bồ-Tát bất thối chuyển được
chư Phật hộ niệm.
-
Sức phương tiện như vậy thành tựu, phải biết
Bồ-Tát đó gần gũi cúng dường vô lượng ngàn muôn ức chư Phật
trồng căn lành, theo sát các bực thiện tri thức, từ lâu đã
hành sáu ba la mật, từ lâu đã tu mười tám không, tứ niệm xứ
đến bát thánh đạo, mười trí lực đến Nhứt thiết chủng trí.
Phải biết đại Bồ-Tát đó trụ bực pháp vương tử, đầy đủ các
hạnh nguyện thường chẳng rời chư Phật, chẳng rời căn lành,
từ một cõi Phật đến một cõi Phật. Phải biết Bồ-Tát đó biện
tài vô tận, đầy đủ đà la ni, thân sắc đầy đủ, thọ ký đầy đủ,
vì chúng sanh mà họ lấy thân. Phải biết Bồ-Tát đó giỏi biết
tự môn, giỏi biết phi tự môn. Khéo nơi nói, khéo nơi chẳng
nói. Khéo nơi một lời, hai lời và nhiều lời. Khéo biết tiếng
nữ tiếng nam. Khéo biết sắc nhẫn đến thức. Khéo biết tánh
thế gian, tánh Niết Bàn. Khéo biết các pháp tướng. Khéo biết
tiếng hữu vi. Tiếng hữu vi khéo biết pháp hữu, pháp vô. Khéo
biết tự tánh tha tánh. Khéo biết pháp hiệp pháp tan. Khéo
biết pháp tương ứng pháp chẳng tương ứng. Khép biết pháp
tương ứng chẳng tương ứng. Khéo biết như và chẳng như. Khéo
biết pháp tánh, pháp vị. Khéo biết duyên và không duyên.
Khéo biết ấm nhập và giới. Khéo biết tứ đế, khéo biết mười
hai nhơn duyên. Khéo biết tứ thiền, tứ vô lượng tâm và tứ vô
sắc định. Khéo biết sáu ba la mật, tứ niệm xứ nhẫn đến Nhứt
thiết chủng trí. Khéo biết tánh hữu vi, tánh vô vi. Khéo
biết tánh có tánh không. Khéo biết quán sắc, quán thọ,
tưởng, hành, thức nhẫn đến quán Nhứt thiết chủng trí. Khéo
biết sắc sắc tướng không nhẫn đến bồ đề, bồ đề tướng không.
Khéo biết xả đạo và chẳng xả đạo. Khéo biết sanh và diệt.
Khéo biết trụ và dị. Khéo biết dục, sân, si. Khéo biết chẳng
dục, chẳng sân, chẳng si. Khéo biết kiến và bất kiến. Khéo
biết tất cả kiến. Khéo biết danh, khéo biết sắc, khéo biết
danh sắc, khéo biết nhơn duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên,
tăng thượng duyên. Khéo biết hành tướng. Khéo biết khổ, khéo
biết tập, khéo biết diệt, khéo biết đạo. Khéo biết địa ngục
và địa ngục thú. Khéo biết ngạ quỷ và ngạ quỷ thú. Khéo biết
súc sanh và súc sanh thú. Khéo biết nhơn và nhơn thú. Khéo
biết thiên và thiên thú. Khéo biết Tu Ðà Hoàn, quả Tu Ðà
Hoàn và đạo Tu Ðà Hoàn. Khéo biết Tư Ðà Hàm, quả Tư Ðà Hàm
và đạo Tư Ðà Hàm. Khéo biết A Na Hàm, quả A Na Hàm và đạo A
Na Hàm. Khéo biết A La HÁn, quả A La Hán và đạo A La Hán.
Khéo biết Bích Chi Phật, quả Bích Chi Phật và đạo Bích Chi
Phật. Khéo biết Phật, Nhứt thiết chủng trí và đạo Nhứt thiết
chủng trí. Khéo biết các căn và đầy đủ các căn. Khéo biết
huệ, tật huệ, hữu huệ, lợi huệ, xuất huệ, đạt huệ, quảng
huệ, thâm huệ, đại huệ, vô đẳng huệ, thiệt huệ. Khéo biết
đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Khéo biết phương
tiện. Khéo biết thuận chúng sanh. Khéo biết tâm, thân tâm.
Khéo biết nghĩa. Khéo biết ngữ. Khéo biết phân biệt tam
thừa.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật,
sanh Bát-Nhã ba la mật, tu Bát-Nhã ba la mật, được những lợi
íc h như vậy.
-
|