Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI BA
-
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM BỒ TÁT HẠNH THỨ BẢY MƯƠI HAI
-
-
Ngài Tu Bồ Ðề thưa:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðức Thế-Tôn nói Bồ-Tát hành
những gì là Bồ-Tát hạnh?
-
Ðức Phật phán dạy:
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát hạnh là vì vô thượng bồ đề
mà thật hành đây gọi là Bồ-Tát hạnh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là đại Bồ-Tát vì vô
thượng bồ đề mà thật hành, gọi đó là Bồ-Tát hạnh?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hành sắc không hành
thọ tưởng hành thức không, hành nhãn không đến ý, hành sắc
không đến pháp, hành nhãn giới không đến ý thức giới, hành
đàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật, hành nội không,
ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ
nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô thỉ không, tán không, chư pháp không, tánh không, tự
tướng không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp
không, hành sơ thiền đên tứ thiền, hành từ bi hỉ xả, hành hư
không vô biên xứ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành tứ
niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất
giác phần, bát thánh đạo phần, hành không tam muội, vô
tướng tam muội, vô tác tam muội, hành bát bội xả, hành cửu
thứ đệ định, hành Phật thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại
trí, hành mười tám pháp bất cộng, hành đại từ đại bi, hành
tịnh Phật quốc độ, hành thành tựu chúng sanh, hành các thứ
biện tài, hành văn tự, hành không văn tự, hành các môn đà la
ni, hành tánh hữu vi, hành tánh vô vi, tất cả hành đều như
thượng bồ đề duy nhứt, chẳng hành có hai sai khác.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã
ba la mật gọi là vô thượng bồ đề hạnh, đây là Bồ-Tát hạnh.
-
Bạhc đức Thế-Tôn! Ðức Thế-Tôn nói Phật. Có nghĩa
gì mà gọi là Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Biết thiệt nghĩa của các pháp nên
gọi là Phật.
-
Ðược thiệt tướng của các pháp nên gọi là Phật.
-
Thông đạt thiệt nghĩa nên gọi là Phật.
-
Biết tất cả các pháp đúng như thiệt nên gọi là
Phật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Có nghĩa gì mà gọi là bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nghĩa không là nghĩa bồ đề. Nghĩa
như,,nghĩa pháp tánh, nghĩa thiệt tế là nghĩa bồ đề.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Danh tướng ngôn thuyết là
nghĩa bồ đề.
-
Này Tu Bồ Ðề! Thiệt nghĩa của bồ đề chẳng hoại
được, chẳng phân biệt được, đó là nghĩa bồ đề.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Thiệt tướng của các pháp
chẳng hư dối chẳng dị biệt là nghĩa bồ đề. Vì thế nên gọi
là bồ đề.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ đề đó là sở hữu của chư
Phật nên gọi là Bồ Ðề.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Chư Phật chánh biến tri nên
gọi là Bồ Ðề.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát vì bồ đề đó mà
hành sáu ba la mật nhẫn đến hành Nhứt thiết chủng trí, đối
với các pháp, gọi là đắc là thất là tăng là giảm là sanh là
diệt là cấu là tịnh?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát vì bồ đề mà hành
sáu ba la mật nhẫn đến hành Nhứt thiết chủng trí, đối với
các pháp, không được không mất không thêm không bớt không
sanh không diệt không nhơ không sạch.
-
Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la
mật, chẳng vì được mất thêm bớt sanh diệt nhơ sạch mà phát
xuất.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba
la mật chẳng vì được mất thêm bớt sanh diệt nhơ sạch mà phát
xuất, thì đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật làm sao có thể
lấy được Ðàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật, làm sao
hành nội không đến vô pháp hữu pháp không, làm sao hành tứ
thiền tứ vô lượng tâm tứ vô sắc định, làm sao hành tứ niệm
xứ đến bát thánh đạo, làm sao hành vô tướng vô tác giải
thoát môn, làm sao hành Phật thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô
ngại trí, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, làm sao
hành Bồ-Tát thập địa, làm sao hơn bực Thanh Văn bực Bích Chi
Phật nhập trong Bồ-Tát vị?
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát vì chẳng lấy hai pháp mà hành sáu ba la mật nhẫn đến
vì chẳng lấy hai pháp mà hành Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát vì chẳng lấy
hai pháp mà hành sáu ba la mật, nhẫn đến vì c hẳng lấy hai
pháp mà hành Nhứt thiết chủng trí, thì Bồ-Tát từ lúc mới
phát tâm đến tối hậu tâm làm sao thêm lớn căn lành?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu lấy hai pháp mà hành thì căn
lành chẳng thêm lớn được.
-
Tại sao? Vì tất cả phàm phu đều nương hai pháp
mà chẳng thêm lớn được căn lành. Ðại Bồ-Tát chẳng lấy hai
pháp nên từ sơ tâm đến hậu tâm căn lành được thêm lớn. Vì
thế nên tất cả thế gian Trời Người A Tu La đều không thể
phục không thể hoại được căn lành của đại Bồ-Tát để làm cho
sa vào bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật và các pháp ác bất
thiện, đều không thể chế ngự được đại Bồ-Tát khiến chẳng thể
hành sáu ba la mật để thêm lớn căn lành.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải như vậy mà hành
Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Có phải vì đại Bồ-Tát vì căn
lành mà hành Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không phải vì căn lành, cũng chẳng
phải chẳng vì căn lành, và cũng chẳng phải vì chẳng phải căn
lành mà đại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao vậy?
-
Này Tu Bồ Ðề! Theo pháp đại Bồ-Tát, chưa cúng
dường chư Phật, chưa đầy đủ căn lành, chưa được chơn thiện
trí thức, thì chẳng có t hể được Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là đại Bồ-Tát cúng
dường chư Phật đầy đủ căn lành được chơn thiện trí thức có
thể được Nhứt thiết chủng trí?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm
cúng dường chư Phật, mười hai bộ kinh của chư Phật tuyên
nói: Tu đa la nhẫn đến luận nghị, đại Bồ-Tát đó nghe thọ trì
tụng thuộc suy gẫm thấu rõ. Vì thấu rõ nên được đà la ni. Vì
được đà la ni nên phát khởi được vô ngại trí. Vì phát khởi
vô ngại trí nên sanh về đâu nhẫn đến khi được Nhứt thiết trí
trọn chẳng quên mất. Ðại Bồ-Tát cũng ở chỗ chư Phật trồng
căn lành. Do thiện căn đó hộ trì mà trọn chẳng sa vào ác đạo
các nạn. Do nhờ thiện căn đó mà được thâm tâm thanh tịnh. Vì
được thâm tâm thanh tịnh nên có thể tịnh Phật quốc độ thành
tựu chúng sanh. Nhờ thiện căn đó gia hộ nên luôn chẳng xa
rời thiện tri thức, đó là chư Phật, chư đại Bồ-Tát và chư
Thanh Văn hay tán thán Phật Pháp Tăng.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải cúng
dường chư Phật, trồng căn lành, gần gũi chơn thiện tri thức.
-
|