Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI BA
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM BIẾN HỌC THỨ BẢY MƯƠI
BỐN
-
-
Ngài Tu Bồ Ðề thưa:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát đó thành tựu đại
trí huệ hành pháp rất sâu đó mà cũng chẳng hưởng thọ quả
báo.
-
Ðức Phật phán dạy:
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tátt hành tựu
đại trí huệ hành Bát-Nhã ba la mật sâu xa đó cũng chẳng thọ
lấy quả báo. Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát đó ở trong các pháp
tánh bất động.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Trong các pháp tánh gì bất
động?
-
Này Tu Bồ Ðề! Trong tánh vô hữu bất động. Trong
tánh sắc bất động. Trong tánh thọ, tưởng, hành, thức bất
động. Trong tánh Ðàn na ba la mật bất động. Trong tánh Thi
la ba la mật đến tánh Bát-Nhã ba la mật bất động. Trong tánh
tứ thiền, tánh tứ vô lượng tâm, tánh vô sắc định bất động.
Trong tánh tứ niệm xứ đến tánh bát thánh đạo phần bất động.
Trong tánh tam tam muội, tánh đại từ đại bi bất động.
-
Tại sao vậy? Vì các pháp tánh đó chánh là vô sở
hữu. Vì pháp vô sở hữu chẳng có thể được pháp sở hữu.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp sở hữu có thể được pháp
sở hữu chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp sở hữu có thể được pháp
vô sở hữu chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp vô sở hữu có thể được
pháp vô sở hữu chăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Không.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu pháp vô sở hữu chẳng có
thể được pháp sở hữu, pháp sở hữu chẳng có thể được pháp sở
hữu, pháp sở hữu chẳng thể được pháp vô sở hữu, pháp vô sở
hữu chẳng thể được pháp vô sở hữu, phải chăng đức Thế-Tôn
chẳng được đạo?
-
Này Tu Bồ Ðề! Có được, chẳng do bốn câu đó.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là có được?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chẳng phải sở hữu, chẳng phải
không sở hữu, không các hí luận, đó gọi là được đạo.
-
Bạhc đức Thế-Tôn! Những gì là đại Bồ-Tát hí
luận?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát quan niệm sắc hoặc
là thường, hoặc là vô thường, đó là hí luận. Quan niệm thọ,
tưởng, hành, thức là thường, hoặc vô thường, đó là hí luận.
Quan niệm sắc là khổ hoặc lạc, đó là hí luận. Quan niệm thọ,
tưởng, hành, thức là khổ hoặc lạc, đó là hí luận. Quan niệm
sắc là ngã là vô ngã, đó là hí luận. Quan niệm thọ, tưởng,
hành, thức là ngã là vô ngã, đó là hí luận. Quan niệm sắc là
tịch diệt hoặc chẳng tịch diệt, đó là hí luận. Quan niệm
thọ, tưởng, hành, thức tịch diệt hoặc chẳng tịch diệt, đó là
hí luận. Quan niệm khổ thánh đế phải thấy, tập thánh đế phải
dứt, diệt thánh đế phải chứng, đạo thánh đế phải tu, đó là
hí luận. Quan niệm phải tu tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô
sắc định, đó là hí luận. Quan niệm phải tu tứ niệm xứ, tứ
chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi,
bát thánh đạo phần, đó là hí luận. Quan niệm phải tu không
giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô tác giải thoát
môn, đó là hí luận. Quan niệm phải tu bát bội xả, cửu thứ đệ
định, đó là hí luận. Quan niệm tôi phải hơn quả Tu Ðà Hoàn,
quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, đạo Bích Chi
Phật, đó là hí luận. Tôi phải trọn vẹn Bồ-Tát thập địa, đó
là hí luận. Tôi phải nhập Bồ-Tát vị, đó là hí luận. Tôi phải
tịnh Phật quốc độ đó là hí luận. Tôi phải thành tựu chúng
sanh, đó là hí luận. Tôi phải phát sanh Phật thập lực, tứ
vô sở úy, tứ vô ngại trí, mười tám pháp bất cộng, đó là hí
luận. Tôi sẽ được Nhứt thiết chủng trí, đó là hí luận. Tôi
sẽ dứt tập khí tất cả phiền não, đó là hí luận.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đó lúc hành Bát-Nhã ba
la mật, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến Nhứt thiết
chủng trí chẳng hí luận được nên chẳng hí luận.
-
Tại sao vậy? Tánh chẳng hí luận tánh, vô tánh
chẳng hí luận vô tánh. Rời ngoài tánh và vô tánh không còn
pháp gì có thể được để gọi là kẻ hí luận, là pháp hí luận
và chỗ hí luận.
-
Thế nên, này Tu Bồ Ðề! Sắc nhẫn đến Nhứt thiết
chủng trí không hí luận.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải hành vô
hí luận Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là sắc chẳng hí luận
được, nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí chẳng hí luận được?
-
Này Tu Bồ Ðề! Sắc tánh không, nhẫn đến Nhứt
thiết chủng trí tánh không.
-
Nếu pháp tánh không tức là không hí luận. Vì thế
nên sắc nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí chẳng hí luận được.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát hay hành vô hí luận
Bát-Nhã ba la mật như vậy thì liền được nhập Bồ-Tát vị.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu pháp không có tánh, Bồ-Tát
hành đạo gì mà nhập Bồ-Tát vị? Dùng Thanh Văn đạo, dùng Bích
Chi Phật đạo hay dùng Phật đạo?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chẳng dùng Thanh Văn đạo, chẳng
dùng Bích Chi Phật đạo, chẳng dùng Phật đạo mà được vào
Bồ-Tát vị.
-
Ðại Bồ-Tát học khắp các đạo mà được vào Bồ-Tát
vị.
-
Này Tu Bồ Ðề! Như bát nhơn trước học các đạo rồi
sau mới vào chánh vị, chưa được quả mà trước sanh đạo của
quả.
-
Cũng vậy. Bồ-Tát trước học khắp các đạo rồi sau
mới nhập Bồ-Tát vị, chưa được Nhứt thiết chủng trí mà trước
sanh khởi kim cang tam muội. Bấy giờ dùng một niệm tương ứng
huệ được Nhứt thiết chủng trí.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát học khắp các
đạo nhập Bồ-Tát vị, vậy thì Bát nhơn hướng Tu Ðà Hoàn được
Tu Ðà Hoàn, hướng Tư Ðà Hàm được Tư Ðà Hàm, hướng A Na Hàm
được A Na Hàm, hướng A La Hán được A La Hán, Bích Chi Phật
đạo, Phật đạo. Các đạo như vậy đều riêng khác.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát học khắp các
đạo rồi sau nhập Bồ-Tát vị, Bồ-Tát này nếu sanh bát đạo lẽ
ra phải làm Bát nhơn, nếu sanh kiến đạo lẽ ra phải làm Tu Ðà
Hoàn, nếu sanh tư duy đạo lẽ ra phải làm Tư Ðà Hàm, A Na
Hàm, làm A La Hán, nếu sanh Bích Chi Phật đạo lẽ ra phải làm
Bích Chi Phật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát mà làm Bát
nhơn rồi sau nhập Bồ-Tát vị thì không bao giờ có. Chẳng
nhập Bồ-Tát vị mà được Nhứt thiết chủng trí cũng không bao
giờ có. Nếu đại Bồ-Tát mà làm Tu Ðà Hoàn nhẫn đến làm Bích
Chi Phật rồi sau nhập Bồ-Tát vị cũng không bao giờ có. Chẳng
nhập Bồ-Tát vị mà được Nhứt thiết chủng trí cũng không bao
giờ có.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tôi phải nên biết thế nào về
đại Bồ-Tát khắp học các đạo được nhập Bồ-Tát vị?
-
Ðúng như vậy. Này Tu Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát mà
làm Bát nhơn, được quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến được quả A La
Hán, được quả Bích Chi Phật đạo rồi sau nhập Bồ-Tát vị,
không bao giờ có. Chẳng nhập Bồ Tát vị mà được Nhứt thiết
chủng trí cũng không bao giờ có.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm
hành sáu ba la mật, dùng trí quán tám địa. Những gì là tám?
Ðó là Càn Huệ địa, Tánh địa, Bát nhơn địa, Kiến địa, Bạc
địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa và Bích Chi Phật địa, dùng đạo
chủng trí nhập Bồ-Tát vị, dùng Nhứt thiết chủng trí dứt tất
cả tập khí phiền não.
-
Này Tu Bồ Ðề! Hoặc là trí hoặc là đoạn của bực
Bát nhơn, của bực Tu Ðà Hoàn, nhẫn đến hoặc là trí hoặc là
đoạn của A La Hán, của Bích Chi Phật đều là vô sanh pháp
nhẫn của Bồ-Tát đó.
-
Bồ-Tát đó họa đạo Thanh Văn đạo Bích Chi Phật
như vậy, dùng đạo chủng trí nhập Bồ-Tát vị. Nhập Bồ-Tát vị
rồi dùng Nhứt thiết chủng trí dứt tất cả tập khí phiền não
được Phật đạo.
-
Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát học khắp các
đạo đầy đủ thì được vô thượng bồ đề. Ðược vô thượng bồ đề
rồi thì lợi ích tất cả chúng sanh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðạo của đức Thế-Tôn tuyên nói:
Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo và Phật đạo. Những gì là
đạo chủng trí của Bồ-Tát.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát phải sanh khởi tất cả
đạo chủng tịnh trí.
-
Những gì là đạo chủng tịnh trí?
-
Như tướng mạo các pháp, những pháp có thể thị
hiện được, Bồ-Tát phải chánh tri. Ðã chánh tri rồi vì người
khác mà diễn thuyết khai thị, làm cho chúng sanh được hiểu.
-
Ðại Bồ-Tát này phải hiểu tất cả âm thanh ngữ
ngôn. Dùng âm thanh đó mà thuyết pháp khắp cùng Ðại Thiên
thế giới dường như tiếng vang.
-
Vì thế nên, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát trước phải
học đầy đủ tất cả đạo. Ðạo trí đầy đủ rồi phân biệt biết
thâm tâm của chúng sanh. Ðó là chúng sanh địa ngục đạo, súc
sanh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục súc sanh ngạ quỷ nhơn, địa
ngục súc sanh ngạ quỷ quả, Bồ-Tát phải biết phải ngăn. Long
thần, A Tu La bát bộ đạo nhơn và quả, Bồ-Tát phải biết phải
ngăn. Nhơn thiên đạo nhơn và quả, Bồ-Tát phải biết. Tứ niệm
xứ đến bát th ánh đạo phần nhơn và quả, Bồ-Tát phải biết.
Không vô tướng vô tác giải thoát môn, Phật thập lực, tứ vô
sở úy, tứ vô ngại trí, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi
nhơn và quả Bồ-Tát phải biết.
-
Bồ-Tát dùng đạo này làm cho chúng sanh nhập quả
Tu Ðà Hoàn đến quả A La Hán nhập đạo Bích Chi Phật và đạo vô
thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðó gọi là tịnh đaọ chủng trí của
đại Bồ-Tát.
-
Bồ-Tát học đạo chủng trí này rồi vào tướng thâm
tâm của chúng sanh. Vào xong, tùy theo tâm của chúng sanh mà
thuyết pháp đúng chỗ, lời nói chẳng luống.
-
Tại sao vậy? Vì đại Bồ-Tát đó khéo biết căn
tướng của chúng sanh, khéo biết tâm và tâm sở của tất cả
chúng sanh, sống chết đi về đâu.
-
Này Tu Bồ Ðề! Phải hành Bát-Nhã ba la mật
nhưvậy.
-
Tại sao? Vì tất cả pháp hành, tất cả pháp trợ
đạo đều vào trong Bát-Nhã ba la mật, mà chư đại Bồ-Tát, chư
Thanh Văn, chư Bích Chi Phật phải hành.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tứ niệm xứ đến vô thượng
bồ đề, tất cả pháp đó đều chẳng hiệp chẳng tan, không sắc,
không hình, không đối, là nhứt tướng, đó là vô tướng thì
những pháp trợ đạo đó thế nào lại có thể lấy được vô thượng
bồ đề?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Pháp nhứt thướng chẳng hiệp
chẳng tan không sắc không hình không đối, đó là pháp vô
tướng không chỗ lấy không chỗ bỏ, như hư không không lấy
không bỏ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Các pháp tự tướng
không, không chỗ lấy không chỗ bỏ.
-
Này Tu Bồ Ðề! Có những chúng sanh chẳng biết các
pháp tự tướng không. Vì những chúng sanh đó mà hiển thị pháp
trợ đạo làm cho họ đến vô thượng bồ đề.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bao nhiêu những pháp: sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, lục độ, mười tám không, bốn thiền,
bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, bốn niệm xứ đến bát thánh
đạo phần, ba môn giải thoát, tám bội xả, chín định thứ đệ,
Phật thập lực, bốn vô úy, bốn tứ vô ngại, mười tám pháp vô
cộng, đại từ đại bi, Nhứt thiết chủng trí, trong những thánh
pháp này đều không hiệp không tan,không hình không sắc không
đối là nhứt tướng, đó là vô tướng.
-
Vì dùng pháp thế tục tuyên nói cho chúng sanh
được hiểu, chớ chẳng phải dùng đệ nhứt nghĩa.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ở trong tất cả pháp này, đại
Bồ-Tát phải dùng trí thấy biết mà học. Học xong, phân biệt
các pháp nên dùng hay chẳng nên dùng.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những pháp gì Bồ-Tát phân biệt
rồi nên dùng hay chẳng nên dùng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi
Phật, Bồ-Tát phân biệt biết nhưng chẳng nên dùng.
-
Nhứt thiết chủng trí, Bồ-Tát phân biệt biết và
nên dùng.
-
Như vậy,, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát ở trong những
thánh pháp đó, phải học Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Do cớ gì mà gọi thánh pháp và
những gì là thánh pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Chư Thanh Văn chư Bích Chi Phật,
chư đại Bồ-Tát và chư Phật nơi tham, sân, si, mạn, nghi, ác,
kiến chẳng hiệp chẳng tan, nơi sân khuể, dục nhiễm chẳng
hiệp chẳng tan, nơi sắc nhiễm vô sắc nhiễm điệu cử tán loạn
vô minh chẳng hiệp chẳng tan, nơi sơ thiền đến tứ thiền
chẳng hiệp chẳng tan, nơi từ bi hỉ xả đến phi phi tưởng xứ
chẳng hiệp chẳng tan, nơi tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần
chẳng hiệp chẳng tan, nơi nội không đến đại bi hữu vi tánh
vô vi tánh chẳng hiệp chẳng tan.
-
Tại sao vậy? Vì tất cả pháp đó đều không sắc
không hình không đối nhứt tướng, đó là vô tướng.
-
Pháp sắc với pháp vô sắc không hiệp không tan.
Pháp vô tình với pháp vô hình chẳng hiệp chẳng tan. Pháp vô
đối với pháp vô đối chẳng hiệp chẳng tan. Pháp nhứt tướng
với pháp nhứt thướng chẳng hiệp chẳng tan. Pháp vô tướng
với pháp vô tướng chẳng hiệp chẳng tan.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bát-Nhã ba la mật vô sắc vô hình
vô đối nhứt tướng đó là vô tướng này chư đại Bồ-Tát phải
học. Học xong, chẳng được các pháp tướng.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát chẳng học tướng
sắc, tướng thọ tưởng hành thức chăng?
-
Chẳng học tướng nhãn đến tướng ý, chẳng học
tướng sắc đến tướng pháp, chẳng học tướng địa chủng đến
tướng thức chủng ư?
-
Chẳng học tướng Ðàn na ba la mật đến tướng
Bát-Nhã ba la mật ư?
-
Chẳng học tướng nội không đến tướng vô pháp hữu
pháp không ư?
-
Chẳng học tướng tứ thiền, tướng vô lượng tâm,
tướng vô sắc định ư?
-
Chẳng học tướng tướng tứ niệm xứ đến tướng Bát
thánh đạo phần ư?
-
Chẳng học tướng không, tướng vô tướng, tướng vô
tác ư?
-
Chẳng học tướng bát bội xả, tướng cửu thứ đệ
định ư?
-
Chẳng học tướng thập lực đến tướng đại từ đại bi
ư?
-
Chẳng học tướng tứ đế, tướng thuận nghịch mười
hai nhơn duyên ư?
-
Chẳng học tướng hữu vi tánh, vô vi tánh ư?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu chẳng học các pháp tướng
thì đại Bồ-Tát làm sao lại học các pháp tướng để vượt hơn
bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật?
-
Nếu chẳng vượt hơn bực Thanh Văn bực Bích Chi
Phật thì làm sao nhập Bồ-Tát vị?
-
Nếu chẳng nhập Bồ-Tát vị thì làm sao sẽ được
Nhứt thiết chủng trí?
-
Nếu chẳng được Nhưt thiết chủng trí thì làm sao
sẽ chuyển pháp luân?
-
Nếu chẳng chuyển pháp luân thì làm sao dùng ba
thừa độ chúng sanh thoát sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu các pháp thiệt có tướng Bồ-Tát
nên học tướng đó.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bỡi tất cả pháp thiệt không tướng
không sắc không hình không đối là nhứt tướng đó là vô tướng.
Vì thế nên đại Bồ-Tát chẳng học tướng chẳng học vô tướng.
Tại sao? Vì có Phật hay không Phật các pháp vẫn nhứt tướng
vẫn tánh thường trụ.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu các pháp chẳng phải có
tướng, chẳng phải không tướng, thì đại Bồ-Tát làm sao tu
Bát-Nhã ba la mật? Nếu chẳng tu Bát-Nhã ba la mật thì chẳng
vượt hơn bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật. Nếu chẳng vượt
hơn bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật thì chẳng nhập Bồ-Tát
vị. Nếu chẳng nhập Bồ-Tát vị thì chẳng được vô sanh pháp
nhẫn. Nếu chẳng được vô sanh pháp nhẫn thì không thể được
các thứ thần thông của Bồ-Tát. Nếu chẳng được Bồ-Tàt thần
thông thì không thể tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh.
Nếu chẳng tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh thì không
thể được Nhứt thiết chủng trí. Nếu chẳng được Nhứt thiết
chủng trí thì không thể chuyển pháp luân. Nếu chẳng chuyển
pháp luân thì không thể làm cho chúng sanh được các quả: Tu
Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, đạo Bích Chi Phật và
vô thượng bồ đề. Cũng chẳng thể làm cho chúng sanh được
phước bố thí, trì giới, phước tu thiền định.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Các phap1 vô tướng:
chẳng phải nhứt tướng dị tướng. Nếu tu vô tướng là tu
Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào tu vô tướng là tu
Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Tu các pháp hư hoại là tu Bát-Nhã
ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là tu các pháp hư hoại
là tu Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Tu sắc hoại, thọ, tưởng, hành,
thức hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý hoại, tu sắc thanh
hương vị xúc pháp hoại, tu bất định quán hoại là tu Bát-Nhã
ba la mật.
-
Tu sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hoại
là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu từ bi hỉ xả hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu
xứ, phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ hoại là tu Bát-Nhã ba la
mật.
-
Tu niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới,
niệm xả, niệm Thiên, niệm A na ba na hoại tu Bát-Nhã ba la
mật.
-
Tu tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã,
tướng không, tướng tập, tướng nhơn, tướng sanh, tướng duyên,
tướng bế, tướng diệt, tướng diệu, tướng xuất tướng đạo,
tướng chánh, tướng tích, tướng ly đều hoại là tu Bát-Nhã ba
la mật.
-
Tu thập nhị nhơn duyên hoại, tu tướng ngã nhơn,
chúng sanh, thọ giã, nhẫn đến tướng tri giả, kiến giả hoại
là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu tướng Thường Lạc Ngã tịnh hoại là tu Bát-Nhã
ba la mật.
-
Tu tứ niệm xứ nhẫn đến tu Bát thánh đạo phần
hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu không tam muội vô tướng tam muội, vô tác tam
muội hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu hữu giác hữu quán tam muội, vô giác hữu quán
tam muội, vô giác vô quán tam muội là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế,
đạo thánh đế hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, hoại là
tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu tận trí vô sanh trí hoại là tu Bát-Nhã ba la
mật.
-
Tu pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha tâm trí hoại
là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu sáu ba la mật hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu nội không hoại nhẫn đến vô pháp hữu pháp
không hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu Phật thập lực nhẫn đến bất cộng pháp hoại là
tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán, đạo
Bích Chi Phật hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu Nhứt thiết trí hoại là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tu dứt hẳn tập khí tất cả phiền não hoại là tu
Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào gọi là tu sắc hoại
nhẫn đến tu dứt hẳn tập khí tất cả phiền não hoại là tu
Bát-Nhã ba la mật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại
Bồ-Tát chẳng quan niệm có sắc pháp, có thọ, tưởng, hành,
thức pháp, nhẫn đến chẳng quan niệm có dứt hẳn tập khí tất
cả phiền não pháp,, đó là tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Tại sao vậy?
-
Vì người quan niệm có pháp là chẳng tu Bát-Nhã
ba la mật. Người quan niệm có pháp là chẳng tu Ðàn na ba la
mật đến chẳng tu Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì người đó chấp trước nơi pháp,
chẳng hành Ðàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật.
-
Người c hấp trước như vậy, không có giải thoát,
khôong có đạo, không có Niết Bàn.
-
Tu bát bội xả, cửu thứ đệ định hoại là tu
Bát-Nhã ba la mật.
-
Người có quan niệm có pháp, chẳng tu tứ niệm xứ
đến bát thánh đạo phần, chẳng tu không tam muội đến Nhứt
thiết chủng trí. Vì người đó chấp trước pháp vậy.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là có pháp? Những gì
là không pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Hai là có pháp, không hai là không
pháp.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là hai?
-
Này Tu Bồ Ðề! Sắc tướng đên thức tướng là hai.
Nhãn tướng đến ý thức tướng là hai. Sắc tướng đến pháp tướng
là hai. Ðàn na ba la mật tướng đến Phật tướng là hai. Vô
thượng bồ đề tướng đến tướng vô vi tánh là hai.
-
Này Tu Bồ Ðề! Tất cả tướng là hai cả. Tất cả hai
đều là có pháp.
-
Vừa có pháp liền có sanh tử.
-
Vừa có sanh tử liền chẳng rời được sanh già bịnh
chết lo buồn khổ não.
-
Này Tu Bồ Ðề! Vì thế nên phải biết tướng hai, có
pháp thì không có Ðàn na ba la mật đến Bát-Nhã ba la mật,
không có đạo, không có quả, nhẫn đến không có thuận nhẫn
huống là thấy sắc tướng nhẫn đến thấy Nhứt thiết chủng trí
tướng.
-
Nếu không tu tập đạo hạnh làm sao được quả Tu Ðà
Hoàn đến quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật, vô thượng bồ đề và
dứt hẳn tập khí phiền não!
-
|