Kinh
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI LĂM
-
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM TAM THỨ ĐỆ HÀNH BẢY MƯƠI LĂM
-
-
Lúc ấy ngài Tu Bồ Ðề bạch đức Phật:
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu có pháp tướng hãy còn
chẳng được thuận nhẫn huống là đắc đạo.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không pháp tướng thì sẽ
được thuận nhẫn chăng? Thì sẽ được các bực này chăng? hoặc
càn huệ địa, hoặc tánh địa, hoặc bát nhơn địa, hoặc kiến
địa, hoặc bạc địa,, hoặc ly dục địa, hoặc dĩ biện địa,,
hoặc Bích Chi Phật địa, hoặc Bồ-Tát địa, hoặc Phật địa, hoặc
tu đạo, do tu đạo này sẽ dứt được phiền não chăng? Vì những
phiền não ấy nên chẳng vượt qua được bực Thanh Văn, bực Bích
Chi Phật để nhập Bồ-Tát vị. Nếu chẳng nhập Bồ-Tát vị thì
chẳng được Nhứt thiết chủng trí. Nếu chẳng được Nhứt thiết
chủng trí thì chẳng dứt được tất cả tập khí phiền não.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu không có pháp tướng thì
những đạo pháp ấy chẳng phát sanh. Nếu chẳng phát sanh,
những đạo pháp ấy thì chẳng thể được Nhứt thiết chủng trí.
-
Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
Ðúng như vậy. Nếu người không có pháp thì có
thuận nhẫn cho đến dứt tất cả tập khí phiền não.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật,
đại Bồ-Tát có pháp tướng chăng? Ðó là tướng sắc đến tướng
thức, tướng nhãn đến tướng ý, tướng sắc đến tướng pháp,
tướng nhãn giới đến tướng ý thức giới, tướng tứ niệm xứ đến
tướng Nhứt thiết chủng trí, tướng sắc tướng sắc đoạn đến
tướng thức tướng thức đoạn, tướng thập nhị xứ, tướng thập
nhị thức đoạn, tướng thập bát giới tướng thập bát giới đoạn,
thập nhị nhơn duyên tướng thập nhị nhơn duyên đoạn, tướng
tham dục tướng tướng tham dục đoạn, tướng sân tướng sân
đoạn, tướng si tướng si đoạn, tướng tứ đế tướng tứ đế đoạn,
nhẫn đến tướng Nhứt thiết chủng trí, tướng đoạn tất cả tập
khí phiền não.
-
Không. Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật,
đại Bồ-Tát không có tướng pháp và tướng phi pháp, chính đây
là thuận nhẫn.
-
Nếu không có tướng pháp và tướng phi pháp thì là
tu đạo, là đạo quả.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nơi đại Bồ-Tát, có pháp là Bồ-Tát
đạo, không pháp là Bồ-Tát quả. Vì như vậy nên phải biết tất
cả pháp đều không có tánh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không c ó
tánh, thì làm sao đức Phật do vì biết tất cả pháp không tánh
mà được thành Phật có sức tự tại nơi tất cả pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Ðúng như vậy. Tất cả pháp không có
tánh.
-
Ngày trước lúc ta hành đạo Bồ-Tát, ta tu sáu ba
la mật, lìa các ái dục, lìa các pháp ác bất thiện, có giác
có quán lìa dục ái sanh hỉ lạc nhập sơ thiền, nhẫn đến nhập
tứ thiền. Nơi các thiền ấy cùng những chỉ thiền, ta nắm lấy
tướng của nó, ta chẳng nghĩ là có các thiền ấy, ta chẳng
hưởng thọ thiền vị cũng chẳng thấy được thiền, ta hành bốn
thiền mà vẫn thanh tịnh không nhiễm trước. Nnơi các thiền ấy
ta chẳng nhận lấy quả báo. Y trụ nơi bốn thiền ta phát khởi
năm thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng
thông, tha tâm không và thân thông. Nơic ác thần thông ấy ta
chẳng nắm lấy tướng, chẳng nghĩ là có thần thông ấy, chẳng
hưởng thọ thần thông vị, chẳng thấy được thần thôong, nơi
năm thần thông ấy ta chẳng phân biệt.
-
Này Tu Bồ Ðề! Khi ấy ta dùng một niệm tương ưng
huệ được vô thượng chánh giác, đó là khổ thánh đế, tập thánh
đế, diệt thánh đế, đạo thánh đế, thành tựu mười trí lực, bốn
vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại
bi, được thành bực Phật biết rõ ba tụ chúng sanh: chánh định
tụ, tà định tụ, và bất định tụ.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ở trong các pháp không có
tánh, làm sao đức Thế-Tôn phát khơỉ bốn thiền, năm thần
thông? chúng sanh cũng không có, sao lại phân biệt làm ba
tụ?
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu các pháp dục ác bất thiện có
tánh tự tánh tha thì lúc làm hạnh Bồ-Tát trước kia, ta không
thể quán các pháp dục ác bất thiện là không có tánh để nhập
sơ thiền.
-
Bỡi các pháp dục ác bất thiện không có tánh tự
tánh tha, đều là không có tánh, nên lúc làm hạnh Bồ-Tát
trước kia, ta rời lìa các pháp dục ác bất thiện nhập sơ
thiền nhẫn đến nhập tứ thiền.
-
Này Tu Bồ Ðề! Nếu các thần thông có tánh tự tánh
tha thì ta không thể biết được các thần thông là không có
tánh để chứng vô thượng bồ đề.
-
Bỡi các thần thông không có tánh tự tánh tha đều
là không có tánh. Vì thế nên chư Phật ở nơi các thần thông
biết là không có tánh mà được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát biết các pháp
không có tánh, nhơn tứ thiền và ngũ thần thông mà được vô
thượng bồ đề, thì hàng tân học Bồ-Tát ở trong các pháp không
có tánh, sao lại thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo, rồi
do thứ đệ hành, thứ đệ học và thứ đệ đạo mà được vô thượng
bồ đề?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát lúc ban sơ hoặc từ chư Phật
mà được nghe, hoặc từ nơi sự cúng dường nhiều chư Phật chư
Bồ-Tát mà được nghe, hoặc từ chư A La Hán, chư A Na Hàm, chư
Tư Ðà Hàm, chư Tu Ðà Hoàn mà được nghe, rằng vì được vô sở
hữu nên là Phật, vì được vô sở hữu nên là A La Hán, là A Na
Hàm, là Tư Ðà Hàm, là Tu Ðà Hoàn. Rằng tất cả Hiền Thánh đều
vì được vô sở hữu mà có danh hiệu. Tất cả pháp hữu vi tạo
tác đều không có tánh, nhẫn đến không có mảy may như chừng
lông tơ.
-
Bồ-Tát đó được nghe như vậy rồi nghĩ rằng nếu
tất cả pháp đều không có tánh, vì được tánh vô sở hữu nên
là Phật vì được vô sở hữu tánh nên là A La Hán là A Na Hàm,
là Tư Ðà Hàm, là Tu Ðà Hoàn.
-
Tôi sẽ được vô thượng bồ đề nếu tôi chẳng được
tất cả pháp thường, không có tánh. Tại sao tôi không phát
tâm được vô thượng bồ đề!
-
Tôi được vô thượng bồ đề rồi, tất cả chúng sanh
đi trong hữu tướng, tôi sẽ làm cho họ an trụ trong vô sở
hữu.
-
Này Tu Bồ Ðề! Sau khi suy nghĩ như vậy rồi,
Bồ-Tát phát tâm vô thượng bồ đề, để độ tất cả chúng sanh,
chỗ làm thứ đệ hành, thứ đệ h ọc và thứ đệ đạo của Bồ-Tát đó
đúng như chỗ làm của quá khứ chư Bồ-Tát được vô thượng bồ
đề.
-
Hàng tân học Bồ-Tát đó nên học sáu môn ba la
mật: bồ thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la
mật, tinh tiến ba la mật, thiền định ba la mật và Bát-Nhã ba
lal mật.
-
Bồ-tát lúc đó hành bố thí ba la mật: tự bố thí
cũng dạy người bố thí, khen công đức bố thí và vui mừng ca
ngợi người làm việc bố thí.
-
Do nhơn duyên bố thí ấy mà Bồ-Tát được giàu có
lớn. Bồ-Tát này rời xa lòng bỏn sẻn, đem đồ uống ăn, y phục,
đồ nằm phòng nhà, đèn đuốc, hương hoa, chuỗi ngọc, những vật
dụng sanh sống đều cung cấp cho tất cả chúng sanh.
-
Bồ-Tát này hành bố thí, trì giới như vậy nên
sanh trong nhơn thiên được bực tôn qúy lớn. Do bố thí trì
giới như vậy nên được những thiền định. Do bố thí, trì giới
thiền định như vậy nên được những trí huệ, những giải thoát,
những giải thoát tri kiến, vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi
Phật mà vào bực Bồ-Tát. Ðược vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh
Phật quốc độ. Ðược tịnh Phật quốc độ rồi được thành tựu
chúng sanh. Ðược thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết
chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân,
đem pháp tam thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát đem sự bố thí ấy mà thứ đệ
hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo dầu là bất khả đắc cả. tại sao?
Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm
đến nay, tự trì giới, cũng dạy người trì giới, khen công đức
trì giới, vui mừng ca ngợi người trì giới. Do nhơn duyên trì
g iới nên sanh trong trời người được rất tôn qúy, thấy
người nghèo cùng ban cho của cải, thấy người chẳng trì giới
dạy họ trì giới, thấy người loạn tâm dạy họ thiền định,
thấy người si mê dạy họ trí huệ, thấy người không giải
thoát dạy họ giải thoát, thấy người không giải thoát tri
kiến dạy họ giải thoát tri kiến. Do sự trì giới, thiền, định
trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến nên vượt hơn bực
Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát
rồi được tịnh Phật quốc độ. Ðược tịnh Phật quốc độ rồi thành
tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt thiết
chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp luân,
đem pháp ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Dùng trì giới ấy, Bồ-Tát thứ đệ
hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy, sự đó đều bất khả đắc.
Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phátt âm
đến nay, tự hành nhẫn nhục, cũng dạy người nhẫn nhục, khen
công đức nhẫn nhục, vui mừng ca ngợi người nhẫn nhục. Lúc
hành nhẫn nhục ba la mật như vậy, Bồ-Tát bố thí cho chúng
sanh được đầy đủ, dạy họ trì giới, dạy họ thiền định, dạy họ
trí huệ, dạy họ giải thoát, dạy họ giải thoát tri kiến. Do
nhơn duyên bố thí, trì giới, thiền định,, trí huệ như vậy
nên vượt hơn bực Thanh Văn Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát.
Ðược vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Ðược tịnh
Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh
rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi
chuyển pháp luân đem ba thừa độ chúng sanh thoát khỏi sanh
tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Dùng nhẫn nhục ba la mật, Bồ-Tát
thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất
khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm
đến nay, tự hành tinh tiến ba la mật, cũng dạy người tinh
tiến, khen công đức tinh tiến, vui mừng ca ngợi người tinh
tiến. Lúc hành tinh tiến ba la mật như vậy, Bồ-Tát bố thí
cho chúng sanh được đầy đủ, dạy họ trì giới, thiền định,
trí huệ giải thoát, giải thoát tri kiến. Do nhơn duyên đó
nên vượt bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà vào bực Bồ-Tát. Vào
bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ. Tịnh Phật quốc độ rồi
thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh rồi được Nhứt
thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng trí rồi chuyển pháp
luân, đem pháp ba thừa giáo hóa chúng snah thoát khỏi sanh
tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Dùng tinh tiến ba la mật, Bồ-Tát
thứ đệ hành thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất
khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ pháp tâm,
tự nhập thiền, tự nhâp vô lượng tâm, nhập vô sắc định cũng
dạy người nhập thiền định, khen công đức nhập thiền định,
vui mừng ca ngợi người nhập thiền định. Trụ những thiền
định, Bồ-Tát bố thí cho chúng sanh được đầy đủ, dạy họ trì
giới, thiền định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Do nhơn duyên đó nên vượt bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà
vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ.
Tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng
sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng
trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa độ chúng sanh
thoát khỏi sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Dùng thiền định ba la mật, Bồ-Tát
thứ đệ hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất
khả đắc. Tại sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh vậy.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm
đến nay, tự hành Bát-Nhã ba la mật, bố thí cho chúng sanh
được đầy đủ, dạy họ trì giới, thiền định, trí huệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến. Lúc hành Bát-Nhã ba la mật như
vậy, Bồ-Tát tự hành sáu ba la mật, cũng dạy người hành sáu
ba la mật, khen công đức người hành sáu, vui mừng ca ngợi
người hành sáu ba la mật. Bồ-Tát do nhơn duyên bố thí ba la
mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tiến ba
la mật, thiền định ba la mật, Bát-Nhã ba la mật như vậy và
sức phương tiện nên vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà
vào bực Bồ-Tát. Vào bực Bồ-Tát rồi được tịnh Phật quốc độ.
Tịnh Phật quốc độ rồi thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng
sanh rồi được Nhứt thiết chủng trí. Ðược Nhứt thiết chủng
trí rồi chuyển pháp luân, đem pháp ba thừa độ chúng sanh
thoát khỏi sanh tử.
-
Này Tu Bồ Ðề! Dùng sáu ba la mật, Bồ-Tát thứ đệ
hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo như vậy. Sự đó đều bất khả đắc.
Tại sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh vậy.
-
Ðây gọi là Bồ-Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành,
thứ đệ học, thứ đệ đạo.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm
đến nay, do tâm tương ứng Nhứt thiết chủng trí, tin hiểu các
pháp khôong có tánh mà tu sáu niệm. Ðó là niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả, và niệm Thiên.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Phật?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Phật chẳng lấy sắc để
niệm, chẳng lấy thọ tưởng hành thức để niệm. Tại sao? Vì sắc
không tự tánh, thọ tưởng hành thức không tự tánh. Nếu pháp
không có tự tánh đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó
là niệm Phật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Phật chẳng lấy ba
mươi hai tướng để niệm, cũng chẳng lấy thân kim sắc, chẳng
lấy vầng trượng quang, chẳng lấy tám mươi tùy hình hảo để
niệm. Tại sao? Vì thân Phật đó không có tự tánh. Nếu pháp
không có tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là
niệm Phật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy để niệm Phật.
Chẳng nên lấy những định, những huệ những giải thoát, những
giải thoát tri kiến để niệm Phật. Tại sao? Vì những giới vân
vân ấy không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh đó là vô
sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy mười trí lực,
bốn vô s ở úy, bốn vô ngại trí, mười sáu pháp bất cộng, đại
từ đại bi để niệm Phật. Tại sao? Vì không tự tánh. Nếu pháp
không có tự tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ, đó
là niệm Phật.
-
Lại này Tu Bồ Ðề! Chẳng nên lấy mười hai nhơn
duyên để niệm Phật. Tại sao? Vì pháp nhơn duyên không có tự
tánh. Nếu pháp không có tự tánh, đó là vô sở hữu. Tại sao?
Vì không nhớ, đó là niệm Phật.
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát
phải nên niệm Phật như vậy.
-
Ðây là Bồ-Tát ban sơ phát tâm thứ đệ hành, thứ
đệ học, thứ đệ đạo.
-
Bồ-Tát đó an trụ trong thứ đệ hành, thứ đệ học,
thứ đệ đạo hay đầy đủ tứ niệm xứ, tứ c hánh cần, tứ như ý
túc, ngũ căn, ngũ lựa, thất giác phần, bát thánh đạo phần,
tu hành không, vô tướng vô tác tam muội nhẫn đến Nhứt thiết
chủng trí vì các pháp không có tánh vậy. Bồ-Tát đó biết các
pháp không có tánh, trong ấy không tánh có, không tánh
không.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm pháp?
-
Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát
chẳng niệm pháp thiện, chẳng niệm pháp bất thiện, chẳng niệm
pháp ký, chẳng niệm pháp vô ký, chẳng niệm pháp thế gian,
chẳng niệm pháp xuất thế gian, chẳng niệm pháp tịnh, chẳng
niệm pháp bất tịnh, chẳng niệm pháp thánh, chẳng niệm pháp
phàm, chẳng niệm pháp hữu lậu, chẳng niệm pháp vô lậu,
chẳng niệm pháp thuộc dục giới, thuộc sắc giới, thuộc vô sắc
giới, chẳng niệm pháp hữu vi, pháp vô vi. Tại sao? Vì các
pháp ấy không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, đó là
vô sở hữu. Tại sao? Vì không nhớ đó là niệm Pháp. Vì học
trong pháp không có tánh nên sẽ được đầy đủ tứ niệm xứ nhẫn
đến sẽ được Nhứt thiết chủng trí. Lúc Bồ-Tát này được vô
thượng chánh giác, được các pháp không có tánh. Trong không
có tánh ấy: chẳng phải tướng có chẳng phải tướng không.
-
Bồ-Tát phải nên tu niệm pháp như vậy. Ở trong
pháp ấy, nhẫn đến không có chút niệm huống là niệm Pháp.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Tăng?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát niệm Tăng vì pháp vô vi nên
phân biệt có chúng đệ tử Phật. Trong đó nhẫn đến không có
chút niệm huống là niệm Tăng. Bồ-Tát phải nên niệm Tăng như
vậy.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Giới?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ ban sơ mới phát tâm đến
nay phải niệm Thánh Giới: giới không khuyết, giới không hở,
giới không tì, giới không đục, giới không tính, giới tự
tại, giới của bực trí khen giới cụ túc, giới theo chánh
định. Phải niệm giới đó không có tự tánh, nhẫn đến không có
chút niệm huống là niệm giới.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Xả?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát từ ban sơ mới phát tâm đến
nay phải nên niệm Xả: hoặc niệm tự xả, hoặc niệm tha xả,
hoặc xả tài, hoặc xả pháp, hoặc xả phiền não, vì quán sự xả
ấy không có được, nhẫn đến không có chút niệm huống là niệm
xả.
-
Thế nào là Bồ-Tát tu niệm Thiên?
-
Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát nghĩ rằng chư Thiên cõi
trời Tứ Thiên Vương có tín, giới, thí, văn, huệ. Ở tại đây
chết sanh về cõi trời ấy. Tôi cũng có tín, giới, thí, văn,
huệ đó. Nhẫn nđến trời Tha Hóa trời Tự Tại có những tín
giới thí văn huệ. Ở tại đây chết sanh về cõi trời ấy. Tôi
cũng có tín giới thí văn huệ đó. Bồ-Tát phải nên niệm trong
các cõi trơì không có tự tánh, còn không có chút niệm huống
là niệm Thiên.
-
Bồ-Tát hành sáu niệm như vậy thì gọi là thứ đệ
hành, thứ đệ học, thứ đệ đạo.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không có tánh,
những là niệm sắc không có tánh, thọ, tưởng, hành, thức
không có tánh, nhãn đến ý, sắc đến pháp đều không có tánh,
nhãn giới đến ý thức giới không có tánh, Ðàn na ba la mật
đến Bát-Nhã ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không
đều không có tánh, tứ niệm xứ đến Nhứt thiết chủng trí đều
không c ó tánh.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nếu tất cả pháp không có tánh
thời không đạo không trí không quả?
-
Này Tu Bồ Ðề! Người thấy sắc tánh đó có thiệt
chăng? Nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí tánh đó thiệt có chăng?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Không thấy có.
-
Này Tu Bồ Ðề! Ngươi chẳng thấy các pháp thiệt
có, sao lại hỏi như vậy?
-
Bạch đức Thế-Tôn! Nơi đây tôi không dám có nghi,
mà chỉ vì đời sau những Tỳ Kheo cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật
đạo, Bồ-Tát đạo sẽ bảo rằng: nếu tất cả pháp không có tánh
thì ai cấu ai tịnh, ai triền phược, ai giải thoát? Vì chẳng
hiểu biết, họ có thể phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá
tịnh mạng. Vì phá như vậy họ sẽ đọa vào ba ác đạo.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Tôi sợ đời sau sẽ có sự tệ hại
như vậy nên tôi hỏi đức Phật.
-
Bạch đức Thế-Tôn! Ở trong pháp không có tánh,
tôi tin hiểu, không nghi ngờ, không ăn năn.
-
|