Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ HAI MƯƠI SÁU

Hán dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

PHẨM LỤC DỤ THỨ BẢY MƯƠI BẢY

          Ngài Tu Bồ Ðề bạch Phật:
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là ở trong các pháp vô tướng tự tướng không chẳng phân biệt mà trọn vẹn tu sáu ba la mật đó là thí ba la mật, giới ba la mật, nhẫn ba la mật, tiến ba la mật, thiền ba la mật và Bát-Nhã ba la mật?
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là ở trong các pháp không biệt dị mà phân biệt nói tướng dị biệt?
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế naòlà Bát-Nhã ba la mật nhiếp lấy thí, giới, nhẫn, tiến và thiền?
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là thật hành pháp có tướng biệt dị rồi dùng đạo nhứt tướng mà đắc quả?
          Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát an trụ trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa mà thật hành bố thí trì giới, mà tu nhẫn nhục tinh tiến, mà nhập thiền định, mà rèn trí huệ, biết năm ấm này như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, biết năm ấm vô tướng như mộng cho đến năm ấm vô tưởng như hóa.
          Tại sao? Vì mộng không tự tánh, hưởng, ảnh, diệm, huyễn, hóa đều không tự tánh. Nếu pháp không tự tánh thì là  pháp vô tướng. Nếu pháp vô tướng thì là pháp nhứt tướng, đó là vô tướng.
          Này Tu Bồ Ðề! Do nhơn duyên như vậy nên biết Bồ-Tát bố thí vô tướng: người thí vô tướng, người thọ cũng vô tướng. Có thể biết bố thí như vậy thì hay đầy đủ bố thí ba la mật nhẫn đến hay đầy đủ Bát-Nhã ba la mật, hay đầy đủ tứ niệm xứ, đến bát thánh đạo, hay đầy đủ nội không đến vô pháp hữu pháp không, hay đầy đủ không vô tướng vô tác tam muội, hay đầy đủ bát bội xả, cửu thứ đệ định, năm thần thông, năm trăm môn đà la ni, hay đầy đủ mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô trí ngại, mười tám pháp bất cộng.
          Bồ-Tát này an trụ trong pháp báo đắc vô lậu bay qua vvô lượng cõi nước phương đông, nhẫn đến bay qua vô lượng  cõi nước mười  phương, cúng dường chư Phật và lợi ích chúng sanh. Chúng sanh nào nên dùng bố thí để nhiếp, thì dùng bố thí nhiếp họ, nên dùng trì giới để nhiếp thì dùng trì giới để dạy họ, nên dùng nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định trí huệ để nhiếp thì dạy họ nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, nhẫn đến nên dùng các thứ pháp lành để nhiếp thì dùng các thứ  pháp lành để nhiếp lấy họ.
          Bồ-Tát này thành tựu tất cả pháp lành như vậy thọ thân thế gian chẳng bị thế gian sanh tử làm ô nhiễm. Do vì chúng sanh nên Bồ-Tát ở trên trời trong  người thọ sự tôn quý giàu vui, đem sự tôn quý giàu vui này nhiếp lấy chúng sanh.
          Vì Bồ-Tát này biết tất cả pháp vô tướng nên biết quả Tu Ðà Hoàn mà chẳng an trụ trong đó, biết quả Tư Ðà Hàm, quả  A Na Hàm, quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật mà chẳng an trụ trong đó. Tại sao? Vì Bồ-Tát này dùng Nhứt thiết chủng trí biết tất cả pháp rồi sẽ phải được  Nhứt thiết chủng trí nên chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-tát biết tất cả pháp vô tướng như vậy rồi biết sáu ba la mật vô tướng nhẫn đến biết tất cả Phật pháp vô tướng.
          Lại nữa này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát an trụ năm ấm như mộng, như  hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, thì hay đầy đủ giới ba la mật vô tướng. Giới inày chẳng thiếu chẳng hư chẳng tạp chẳng chấp, là giới vô lậu mà thánh nhơn khen ngợi vào tám phần thánh đạo. An trụ trong giới này trì tất cả giới, đó là danh tự giới, tự nhiên g iới, luật nghi giới, tác giới, vô tác giới, oai nghi giới, phi oai nghi giới.
          Ðại Bồ-Tát này thành tựu các giới chẳng nguyện cầu sanh vào dòng lớn Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, cư sĩ, cũng chẳng nguyện cầu sanh vào nhà tiểu vương hay Chuyển Luân thánh vương, chẳng nguyện cầu sanh các cõi trời, chẳng nguyện cầu được quả Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật. Tại sao? Vì tất cả pháp vô tướng đó là nhứt tướng, pháp vô tướng không thể được pháp vô tướng, pháp hữu tướng không thể được pháp hữu tướng, pháp hữu tướng không thể được pháp vô tướng, pháp vô tướng không thể được pháp hữu tướng.
          Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát này lúc hành Bát-Nhã ba la mật như vậy hay đầy đủ giới ba la mật mà vào Bồ-Tát vị, vào Bồ-Tát vị rồi được vô sanh pháp nhẫn hành đạo chủng trí được báo đắc năm thần thông, an trụ năm trăm môn đà la ni được bốn trí vô ngại,, từ một cõi Phật đến một cõi Phật cúng dường chư Phật thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ, dầu vào trong năm đường chúng sanh mà  nghiệp báo sanh tử không làm ô nhiễm được.
          Này Tu Bồ Ðề! Víi như hóa chuyển luânthánh vương dầu ngồi nằm đi đứng chẳng thấy chỗ đến, chẳng thấy chỗ đi, chẳng thấy chỗ đứng chỗ ngồi chỗ nằm mà hay lợi ích, cũng chẳng thấy có chúng sanh. Bồ-Tát này cũng như vậy.
          Này Tu Bồ Ðề! Ví như Tu Phiến Ða Phật được vô thượng bồ đề vì ba thừa mà chuyển pháp luân không có ai được thọ ký Bồ-Tát, hóa làm Phật rồi xả thọ mạng nhập vô dư Nniết-Bàn. Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật, cũng như vậy, hay đầy đủ giới ba la mật. Ðầy đủ ba la mật rồi nhiếp tất cả pháp lành.
          Lại nữa này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát an trụ năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa đầy đủ nhẫn nhục ba la mật vô tướng.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát an trụ trong hai thứ nhẫn thì có thể đầy đủ nhẫn nhục ba la mật, đó là sanh nhẫn và pháp nhẫn. Từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng, nếu có bất luận chúng sanh nào đến mắng chửi đánh đập chém giết Bồ-Tát, Bồ-Tát này vì muốn đầy đủ nhẫn nhục ba la mật nên chẳng sanh lòng  giận thù dầu chỉ một niệm.
          Bồ-Tát này suy nghĩ như vầy: ai mắng ta? ai đánh ta? ai chém ta?
          Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát này ở trong tất cả các pháp được vô tướng nhẫn, nên chẳng bao giờ nghĩ rằng người đó mắng ta hại ta.
          Nếu thật hành như vậy, đại Bồ-Tat hay đầy đủ nhẫn nhục ba la mật. Do đầy đủ nhẫn nhục ba la mật nên được vô sanh pháp nhẫn.
          Ngài Tu Bồ Ðề thưa:
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là vô sanh pháp nhẫn? Nhẫn này đoạn dứt những gì và biết những gì?
          Ðức Phật bảo ngài Tu Bồ Ðề:
          Này Tu Bồ Ðề! Ðược pháp nhẫn, nhẫn đến chẳng sanh mảy may pháp chẳng lành nên gọi là vô sanh pháp nhẫn. Tất cả phiền não sở đoạn của Bồ-Tát đều hết, đó gọi là đoạn dứt. Dùng trí  huệ biết tất cả pháp chẳng sanh đây gọi là biết.
          Bạch đức Thế-Tôn! Vô sanh pháp nhẫn của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật cùng vô sanh pháp nhẫn của Bồ-Tát có gì khác nhau?
          Này Tu Bồ Ðề! Hoặc trí hoặc đoạn của Tu Ðà Hoàn gọi là nhẫn của Bồ-Tát, hoặc trí hoặc đoạn của Tư Ðà Hàm gọi là nhẫn của Bồ-Tát, hoặc trí hoặc đoạn của A Na Hàm gọi là nhẫn của Bồ-Tát, hoặc trí hoặc đoạn của A La Hán gọi là nhẫn của Bồ-Tát, hoặc trí hoặc đoạn của Bích Chi Phật gọi là nhẫn của Bồ-Tát, đó là sai khác.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát thành tựu nhẫn này hơn cả hàng Thanh Văn Bích Chi Phật.
          An trụ trong báo đắc vô sanh nhẫn này, đại Bồ-Tát hành Bồ-Tát đạo đầy đủ đạo chủng trí. Vì đầy dủ đạo chủng trí nên thường chẳng rời lìa ba mươi bảy phẩm trợ đạo nhẫn đến không vô tướng vô tác tam muội, thường chẳng rời lìa năm thần thông. Vì chẳng rời lìa năm mthần thông nên hay thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ. Thàh tựu chúng snah thanh tịnh Phật độ xong, sẽ được Nhứt thiết chủng trí.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát đầy đủ nhân4 nhục ba la mật vô tướng như vậy.
          Lại nữa này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát an trụ trong năm ấm vô tướng  như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa mà thật hành thân tinh tiến và tâm tinh tiến.
          Do thân tinh tiến mà khởi thần thông. Do khởi thần thông mà đến thế giới mười phương cúng dường chư Phật lợi ích chúng sanh. Dùng sức thân tinh tiến mà giáo hóa chúng sanh cho họ an trụ nơi ba thừa.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật hay đầy đủ tinh tiến ba la mật vô tướng như vậy.
          Bồ-Tát này do tâm tinh tiến, tinh tiến vô lậu của bực thánh mà nhập trong tám phần thánh dạo hay đầy đủ tinh tiến ba la mật. Tinh tiến ba la mật này nhiếp hết tất cả pháp lành, những là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát thánh đạo, tứ thiền tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định,, bát b ội xả, cửu thứ đệ định, mười trí lực, bốn vô úy, bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng. Bồ-Tát thật hành những pháp lành trong đây tất phải đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
          Ðầy đủ Nhứt thiết chủng trí rồi dứt tất cả tập chủng phiền não, đầy đủ ba mươi hai tướng, thân phóng vô lượng vô đẳng quang minh.
          Phóng quang minh rồi chuyển ba lần mười hai hành pháp luân.
          Do chuyển pháp luân nên Ðại Thiên thế giới chấn động sáu cách, quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới.
          Chúng sanh trong Ðại Thiên thế giới nghe âm thanh thuyết pháp đều được do ba thừa mà được độ thoát.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát qn trụ trong tinh tiến ba la mật hay lợi ích lớn cho chúng sanh, hay đầy đủ Nhứt thiết chủng trí như vậy.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát an trụ trong năm ấm vô tướng như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, hay đầy đủ thiền ba la mật.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát nhập sơ thiền nhẫn đến   nhập đệ tứ thiền, nhập tứ vô lượng tâm: từ bi hỉ xả, nhập hư không vô biên xứ nhẫn đến nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập không tam muội đến nhập vô tướng vô tác tam muội, nhập như điện quang tam muội, nhập như kim cang tam muội, nhập thánh chánh tam muội. Trừ tam muội của chư Phật,, những tam  muội khác, hoặc những tam muội cùng đồng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ-Tát này đều chứng đều nhập. Dầu nhập, nhưng cũng chẳng thọ mùi vị tam muội, cũng chẳng thọ quả tam muội.
          Tại sao? Vì Bồ-Tát này biết những tam muội ấy không tướng, không tánh sở hữu thì có đâu lại ở trong pháp không tướng mà thọ mùi vị pháp không tướng, ở trong pháp vô sở hữu mà thọ mùi vị pháp vô sở hữu.
          Nếu chẳng thọ mùi vị chẳng theo sức của thiền định sanh trời cõi Sắc hay vô Sắc.
          Tại sao? Vì Bồ-Tát này chẳng thấy hai cõi ấy, cũng chẳng thấy thiền định ấy, cũng chẳng thấy người nhập thiền, cũng chẳng thấy người nhập pháp ấy nhập thiền, chẳng thấy chỗ nhập thiền.
          Nếu ở nơi pháp ấy mà chẳng có được. Bấy giờ Bồ-Tát liền hay đầy đủ Thiền na ba la mật vô tướng vô tướng.
          Bồ-Tát dùng Thiền na ba la mật vô tướng này có thể vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là Bồ-Tát do đầy đủ Thiền na ba la mật vô tướng mà vượt hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật?
          Này Tu Bồ Ðề! Bồ-Tát này khéo học nội không, khéo học ngoại không, nhẫn đến khéo học vô pháp hữu pháp không. Nơi các thứ không ấy, không có pháp để làm chỗ an trụ được, như hoặc là quả Tu Ðà Hoàn, hoặc quả Tư Ðà Hàm, nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí. Những pháp không này cũng không.
          Ðại Bồ-Tát thật hành những pháp không như vậy hay vào trong bực Bồ-Tát.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là bực đại Bồ-Tát? Thế nào là chẳng phải bực.
          Này Tu Bồ Ðề ! Tất cả hữu sở đắc là chẳng  phải bực Bồ-Tát. Tất cả vô sở đắc là bực Bồ-Tát.
          Bạch đức Thế-Tôn! Những gì là hữu sở đắc. Những gì là vô sở đắc?
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc là hữu sở đắc, thọ, tưởng, hành, thức là hữu sở đắc. Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý là hữu sở đắc, nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí là hữu sở đắc. Ðây là chẳng phải bực Bồ-Tát.
          Này Tu Bồ Ðề! Bực Bồ-Tát là các pháp ấy chẳng chỉ bày được, chẳng nói phô được.
          Các pháp nào chẳng chỉ bày được, chẳng nói phô được? Ðó là sắc nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí.
          Tại sao?
          Này Tu Bồ Ðề! Sắc tánh là chẳng chỉ được chẳng nói được, nhẫn đến Nhứt thiết chủng trí tánh là chẳng chỉ được chẳng nói được. Như thế gọi là Bồ-Tát.
          Bồ-Tát vào trong bực Bồ-Tát rồi, tất cả thiền định tam  muội đầy đủ còn chẳng theo sức của thiền định để sanh, huống là an trụ trong tham sân si để sanh khởi những tội nghiệp ư!
          Bồ-Tát an trụ trong pháp như huyễn lợi ích cho chúng sanh, nhưng cũng chẳng thấy có chúng sanh, cũng chẳng thấy có huyễn. Nếu tất cả không thấy có được thì hay thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật độ.
          Này Tu Bồ Ðề! Như thế gọi là Bồ-Tát đầy đủ Thiền ba la mật, vô tướng hay chuyển pháp luân, đó là pháp luân không có được.
          Lại nữa, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật biết tất cả pháp như  mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như  hóa.
          Bạch đức Thế-Tôn! Thế nào là đại Bồ-Tát biết tất cả pháp như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa?
          Này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, chẳng thấy hưởng, chẳng thấy người nghe hưởng, chẳng thấy ảnh, chẳng thấy người thấy ảnh, chẳng thấy diệm, chẳng thấy người thấy diệm, chẳng thấy huyễn, chẳng thấy người thấy huyễn, chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
          Tại sao? Vì những mộng, hưởng, ảnh, diệm, và hóa ấy là pháp điên đảo của kẻ phàm người ngu vậy.
          A La Hán chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, nhẫn đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
          Bích Chi Phật, đại Bồ-Tát và chư Phật đều chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, nhẫn đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy người thấy hóa.
          Tại sao? Vì tất cả pháp không có tánh sở hữu, chẳng sanh chẳng định.
          Nếu là pháp không có tánh sở hữu chẳng sanh chẳng định, thì thế nào dại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật lại ở trong ấy nắm lấy tướng sanh tướng định, việc ấy chẳng phải vậy.
          Tại sao? Vì các pháp nếu có ít nhiều tánh, có sanh có định thì chẳng gọi là Bát-Nhã ba la mật.
          Thiệt vậy, này Tu Bồ Ðề! Hành Bát-Nhã ba la mật, Bồ-Tát chẳng trước chấp nơi sắc nhẫn đến chẳng trước chấp nơi thức, chẳng trước chấp nơi thức, chẳng trước chấp dục sắc vô sắc ba cõi, chẳng trước chấp các thiền các giải thoát tam muội, chẳng trước chấp tứ niệm xứ nhẫn đến bát thánh đạo, chẳng trước chấp không tam muội vô tướng tam muội vô tác tam  muội, chẳng trước chấp Ðàn na ba la mật nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật.
          Do vì chẳng trước chấp nên hay đầy đủ Bồ-Tát sơ địa. Trong sơ địa cũng chẳng trước chấp.
          Tại sao? Vì Bồ-Tát này còn chẳng thấy có được địa ấy huống là sanh lòng trước chấp! Nhẫn đến thập địa cũng vậy.
          Ðại Bồ-Tàt này hành Bát-Nhã ba la mật cũng chẳng thấy có được Bát-Nhã ba la mật.
          Nếu lúc hành Bát-Nhã ba la mật chẳng thấy có được Bát-Nhã ba la mật, thì lúc ấy thấy tất cả pháp đều vào trong Bát-Nhã  ba la mật, cũng chẳng thấy có được các pháp ấy. Vì các pháp ấy cùng Bát-Nhã ba la mật không hai không khác.
          Tại sao? Vì các pháp vào trong như, pháp tánh, thiệt tế, nên là vô phân biệt.
          Bạch đức Thế-Tôn! Nếu các pháp vô tướng vô phân biệt, sao lại nói là thiện, bất thiện, là hữu lậu là bất lậu, là thế giain, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi?
          NÀy Tu Bồ Ðề! Theo ý ông thế nào, trong thiệt tướng của các pháp, có pháp nào nói được là thiên, là bất thiện, nhẫn đến hữu vi, vô vi chăng? Có pháp nào nói được là quả Tu Ðà Hoàn, nhẫn đến A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ-Tát vô thượng bồ đề chăng?
          Bạch đức Thế-Tôn! Chẳng nói được.
          Này Tu Bồ Ðề! Vì nhơn duyên như vậy nên phải  biết tất cả pháp vô tướng vô phân biệt, không sanh, không định, chẳng chỉ bày nói phô được.
          Này Tu Bồ Ðề! Ngày trước lúc ta hành Bồ-Tát đạo, cũng không pháp nào có tánh được hoặc là sắc, hoặc là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến hoặc là hữu vi hoặc là vô vi, hoặc là quả Tu Ðà Hoàn nhẫn đến vô thượng bồ đề.
          Như vậy, này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát hành Bát-Nhã ba la mật từ lúc mới phát tâm đến lúc thành vô thượng bồ đề phải khéo học các pháp tánh.
          Vì khéo học các pháp tánh nên gọi là đạo vô thượng bồ đề.
          Hành đạo ấy, hay đầy đủ sáu ba la mật, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.
          An trụ trong pháp ấy được vô thượng bồ đề, dùng pháp tam thừa độ thoát chúng sanh. Cũng chẳng chấp trước pháp tam thừa.
          Này Tu Bồ Ðề! Ðại Bồ-Tát dùng pháp vô tướng phải học Bát-Nhã ba la mật như vậy.

 

--o0o--