|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
HAI MƯƠI
CHÍN
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM QUYẾT ĐỊNH THỨ TÁM MƯƠI BA
-
Ngài Tu Bồ
Ðề bạch đức Phật:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát ấy là quyết định h ay chẳng quyết định?
-
Ðức Phật
dạy:
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát quyết định không phải chẳng quyết định.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Quyết định nơi đâu; trong đạo Thanh Văn, trong đạo Bích
Chi Phật, hay trong đạo Phật?
-
Ðại Bồ-Tát
chẳng phải quyết định trong đạo Thanh Văn Bích Chi Phật, mà
quyết định trong Phật đạo.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Là sơ phát tâm Bồ-Tát quyết định hay là tối hậu thân
Bồ-Tát quyết định?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sơ phát tâm Bồ-Tát quyết định, bất thối Bồ-Tát quyết định,
hậu thân Bồ-Tát quyết định.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Quyết định Bồ-Tát có đọa sanh ác đạo chăng?
-
Không. Này
Tu Bồ Ðề! Ý ông nghĩ sao? Hoặc bực bát nhơn, hoặc bực Tu Ðà
Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, BíchChi Phật có đdọa sanh
trong ác đạo chăng?
-
Bạch đức
Thế-Ton6! Không.
-
Cũng vậy.
Này Tu Bồ Ðề! Từ lúc mới phát tâm trở lại, đại Bồ-Tát bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, hành thiền tu huệ, dứt tất cả
nghiệp bất thiện, không bao giờ còn đọa ác đạo, hoặc không bao
giờ sanh trời trường thọ, hoặc sanh chỗ chẳng được tu pháp làm
lành, hoặc sanh biên địa, hoặc sanh nhà ác tà kiến, địa phương
không tên Phật, không tên Phật, không tên Pháp, không tên Tăng.
Bồ-Tát ấy không bao giờ còn sanh vào những n nơi đó.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Sơ phát tâm Bồ-Tát ở nơi vô thượng bồ đề không bao giờ dùng
thâm tâm hành mười điều bất thiện.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu đại Bồ-Tát có thiện căn công đức thành tựu như vậy
thì tất chẳng thọ lấy quả báo bất thiện.
-
Như đức
Phật tự thuật đời trước của mình thọ lấy quả báo bất thiện. Lúc
đó thiện căn công đức ở đâu?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì lợi ích cho chúng sanh, đại Bồ-Tát tùy theo đó mà thọ lấy
thân, rồi dùng thân ấy làm lợi ích cho chúng sanh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát lúc làm súc sanh có sức phương tiện lớn. Nếu bị
kẻ oán tặc muốn tìm giết hại, Bồ-Tát dùng sức nhẫn nhục vô
thượng dùng tâm từ bi vô thượng bỏ thân mà chẳng não hại kẻ oán
tặc.
-
Hàng Thanh
Văn, Bích Chi Phật các ông có sức phương tiện ấy chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không có.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì lẽ ấy nên phải biết rằng đại Bồ-Tát muốn đầy đủ tâm đại
từ bi, vì thương xót lợi ích cho chúng sanh mà thọ thân súc
sanh.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát an trụ trong những căn lành gì mà thọ những
thân như vậy?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát từ lúc ban sơ mới phát tâm nhẫn đến lúc ngồi đạo
tràng thành Phật, trong khoảng thời giani ấy không c ó căn lành
nào mà chẳng đầy đủ. Ðầy đủ rồi sẽ được vô thượng bồ đề.
-
Vì thế nên
từ ban sơ phát tâm, đại Bồ-Tát phải học đầy đủ tất cả căn lành.
Học căn lành rồi sẽ được Nhứt thiết chủng trí, sẽ dứt tất cả tập
khí phiền não.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tại sao đại Bồ-Tát thành tựu pháp lành vô lậu như vậy
mà lại sanh vào loài ác đạo súc sanh?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ý ông nghĩ sao? Ðức Phật có thành tựu pháp lành vô lậu
chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Tất cả pháp lành vô lậu đức Phật đều đã thành tựu.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu đức Phật tự hóa làm thân súc sanh để làm Phật sự độ
chúng sanh, thì có phải là thiệt súc sanh chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Không phải.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát cũng như vậy, thành tựu pháp lành vô lậu, vì độ
chúng sanh mà thọ thân súc sanh, dùng thân ấy để giáo hóa chúng
sanh.
-
Này Tu Bồo
Ðề! Như A La Hán biến hóa các thứ thân có thể làm cho chúng sanh
hoan hỉ chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Có thể.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðúng như vậy. Ðại Bồ-Tát dùng pháp lành vô lậu ấy tùy theo
chỗ nên mà thọ lấy thân, dùng thân ấy làm lợi ích chúng sanh,
cũng chẳng thọ đau khổ.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ý ông nghĩ sao. Như nhà ảo thuật, thuật ra các thứ thân
hình, nào là voi ngựa, bò dê, nam nữ vân vân để trình bày cho
mọi người.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Những vật và người ấy có thiệt chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Chẳng thiệt.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Cũng vậy. Ðại Bồ-Tát thành tựu pháp lành vô lậu hiện làm các
thứ thân để dùng các thứ thân ấy làm lợi ích cho tất cả chúng
sanh, cũng chẳng thọ các sự khổ.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát được thánh vô lậu trí huệ mà tùy theo thân
hình nào thích ứng để độ chúng sanh thì hiện các thứ thân hình
ấy.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát an trụ pháp lành nào để có thể làm những
phương tiện như vật mà chẳng bị ô nhiễm?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Bồ-Tát dùng Bát-Nhã ba la mật làm sức phương tiện như vậy ở
trong hằng sa quốc độ mười phương làm lợi ích cho chúng sanh,
cũng chẳng tham lấy những thân ấy.
-
Tại sao? Vì
kẻ nắm lấy, pháp lấy và chỗ lấy, cả ba thứ ấy đều bất khả đắc,
vì tự tánh rỗng không vậy. Không chẳng lấy không. Trong không
chẳng có kẻ lấy, cũng chẳng có chỗ lấy. Tại sao? Vì tướng rỗng
không, trong rỗng không bất khả đắc vậy.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðây gọi là bất khả đắc không. Bồ-Tát an trụ trong đây có thể
được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Bồ-Tát chỉ an trụ trong nbát-Nhã ba la mật được vô
thượng bồ đề, mà chẳng an trụ trong pháp khác chăng?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Có pháp nào chẳng vào trong Bát-Nhã ba la mật chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Nếu Bát-Nhã ba la mật tự tánh không, thì tất cả pháp
sao lại vào trong Bát-Nhã ba la mật.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Trong không chẳng có pháp vào hay chẳng vào.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tất cả pháp, tất cả pháp tướng có không chăng?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðều không cả.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu tất cả pháp, tất cả pháp tướng không, sao ông lại nói
tất cả pháp chẳng vào trong không?
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Thế nào là đại Bồ-Tát lúc hành Bát-Nhã ba la mật an trụ
trong tất cả pháp không mà có thể khởi thần thông ba la mật ấy,
đi đến hằng hà sa quốc độ mười phương cúng dường hiện tại chư
Phật, nghe chư Phật thuyết pháp ở chỗ chư Phật gieo căn lành?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát xem hằng hà sa quốc
độ mười phương đều không. Chư Phật trong quốc độ ấy cũng tánh
không, chỉ vì giả danh tự nên chư Phật hiện thân. Giả danh tự ấy
cũng không.
-
Nếu quốc độ
mười phương và chư Phật tánh chẳng không, thì thành ra không ấy
có thiên lệch.
-
Bỡi khôn
gấy chẳng nt hiên lệch nên tất cả pháp tướng không. Vì lẽ ấy nên
tất cả pháp, tất cả pháp tướng không. Thế nên đại Bồ-Tát hành
Bát-Nhã ba la mật dùng sức phương tiện sanh thần thông ba la
mật. An trụ rtong thần thông ba la mật khởi thiên nhãn, thiên
nhĩ, như ý túc, tri tha tâm, túc mạng trí, biết chúng sanh sanh
tử.
-
Nếu rời lìa
thần thông ba la mật, Bồ-Tát chẳng có thể làm lợi ích chúng
sanh, cũng chẳng có thể được vô thượng bồ đề.
-
Thần thông
ba la mật ấy của đại Bồ-tát là đạo lợi ích vô thượng bồ đề.
-
Tại sao? Vì
dùng thiên nhãn ấy tự thấy các pháp lành của mình và cũng dạy
người khác được các phap1 lành. Ðối với pháp lành ấy cũng chẳng
nắm, lấy vì tự tánh không vậy. Rỗng không chẳng có chỗ nắm lấy.
Nếu nắm lấy thì thọ mùi vị, trong rỗng không chẳng có mùi vị.
-
Ðại Bồ-Tát
ấy lúc hành Bát-Nhã ba la mật hay sanh thiên nhãn như vậy. Dùng
thiên nhãn ấy xem tất cả pháp rỗng không.
-
Thấy pháp
rỗng không ấy chẳng lấy tướng, chẳng tác nghiệp, và cũng nói
pháp ấy cho người, cũng chẳng thấy có tướng chúng sanh, chẳng
thấy có tên chúng sanh.
-
Ðại Bồ-Tát
vì dùng pháp vô sở đắc nên khởi thần thông ba la mật.
-
Dùng thần
thông ba la mật ấy, bao nhiêu chỗ nên làm của thần thông, Bồ-Tát
ấy đều có thể làm được.
-
Bồ-Tát dùng
thiên nhãn quá hơn thiên nhãn, thấy quốc độ mười phương. Thấy
rồi, Bồ-Tát ấy bay đến mười phương làm lợi ích chúng sanh; hoặc
dùng bố thí, hoặc dùng trì giới, hoặc dùng nhẫn nhục, hoặc dùng
tinh tiến, hoặc dùng thiền định, hoặc dùng trí huệ làm lợi ích
chúng sanh. Hoặc dùng ba mươi bảy pháp trợ đạo, các thiền giải
thoát tam muội, hoặc dùng pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật,
pháp Bồ-Tát, hoặc dùng pháp Phật lợi ích chúng sanh.
-
Bồ-Tát vì
kẻ xan tham mà nói pháp như vầy: các người nên bố thí. Nghèo
cùng là sự khổ não. Người nghèo cùng còn chẳng tự lợi ích làm
sao có thể lợi ích người khác. Vì thế nên các người phải siêng
bố thí. Bố thí thì tự mình được vi sướng, cũng làm cho kẽ khác
vui sướng. Chớ vì nghèo cùng mà ăn nuốt trộm cắp lẫn nhau, để
rồi chẳng nrời khỏi ba ác đạo.
-
Bồ-Tát vì
kẻ phá giới mà nói pháp như vầy: Này các người: sự phá giới rất
là khổ não. Người phá giới còn chẳng tự mình lợi ích làm sao có
thể lợi ích người khác. Sự phá giới phải nhận quả báo khổ: hoặc
ở địa ngục, hoặc ở ngạ quỷ, hoặc ở súc sanh. Các người phá giới
bị đọa trong ba ác đạo, còn chẳng tự cứu được làm sao cứu được
người. Vì thế nên các người chớ nên chiều theo tâm niệm phá
giới, đến lúc chết sẽ hối hận.
-
Với những
người giận hờn cãi lộn nhau Bồ-Tát nói pháp như vầy: các người
chớ nên giận nhau. Sự giận làm rối loạn lòng người, chẳng thuận
với pháp lành. Nay các người giận nhau loạn tâm hoặc sẽ bị đọa
địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh. Vì thế nên các người còn chẳng
nên sanh một niệm giận thù huống là nhiều.
-
Với nhữngn
gười giải đãi, Bồ-Tát thuyết pháp làm cho họ tinh tiến.
-
Với
nhữngngười tâm loạn, Bồ-Tát thuyết pháp làm cho họ thiền định.
-
Với những
người ngu si, Bồ-Tát thuyết pháp cho họ được trí huệ.
-
Với kẻ hành
dâm dục, dạy họ quán bất tịnh.
-
Với kẻ giận
hờn, dạy họ quán từ bi.
-
Với kẻ ngu
si, dạy họ quán mười hai nhơn duyên.
-
Chúng sanh
hành phi đạo, dạy họ vào chánh đạo, đó là Thanh Văn đạo, Bích
Chi Phật đạo, Phật đạo.
-
Vì chúng
sanh ấy, Bồ-Tát thuyết pháp như vầy:
-
Cứ như chỗ
chấp trước của các người, chỗ pháp ấy tánh nó rỗng không. Trong
pháp tánh rỗng không ấy chẳng nên chấp trước. Tướng chẳng chấp
trước là rỗng không.
-
Như vậy,
này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát an trụ
trong thần thông ba la mật làm lợi ích cho chúng sanh.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Nếu xa rời thần thông, Bồ-Tát chẳng thể tùy thuận ý của
chúng sanh để khéo thuyết pháp.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì thế nên lúc hành Bát-Nhã ba la mật đại Bồ-Tát phải phát
khởi thần thông.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ví như chim kia không cánh thì chẳng bay cao được.
-
Cũng vậy,
không thần thông thì Bồ-Tát chẳng thể gi áo hóa chúng sanh theo
ý mình.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì thế nên lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải phát
khởi thần thông, phát khởi thần thông rồi, nếu muốn lợi ích
chúng sanh thì tùy ý có thể làm lợi ích.
-
Bồ-Tát ấy
dùng thiên nhãn thấy hằng sa quốc độ, cũng thấy chúng sanh trong
các quốc độ ấy. Thấy rồi dùng nsức thần thông qua đến các nơi
ấy, biết rõ tâm chúng sanh rồi theo chỗ thích ứng mà thuyết pháp
cho họ được lợi ích. Hoặc nói bố thí, hoặc nói trì giới, hoặc
nói nhẫn nhục, hoặc nói tinh tiến, hoặc nói thiền định, hoặc nói
trí huệ, nhẫnđến hoặc nói pháp Niết-Bàn.
-
Dùng thiên
nhĩ, Bồ-Tát ấy nghe haih loại âm thanh: của người và của phi
nhơn.
-
Dùng thiên
nhĩ, Bồ-Tát ấy nghe chư Phật mười phương thuyết pháp, nghe rồi
đều có thể thọ trì. Bồ-Tát ấy đúng như chỗ đã được nghe đem dạy
lại cho chúng sanh.
-
Bồ-Tát ấy
dùng tha tâm trí biết rõ tâm chúng sanh rồi tùy theo chỗ thích
ứng để thuyết pháp. Hoặc nói bố thí, nhẫn đến hoặc nói pháp
Niết-Bàn.
-
Bồ-Tát ấy
dùng túc mạng trí nhớ biết những đời trước của mình, cũng nhớ
biết đời trước của những người khác.
-
Dùng túc
mạng trí, Bồ-Tát ấy nhớ biết danh tự của chư Phật và thánh chúng
thuở quá khứ cùng các nơi chỗ.
-
Có chúng
sanh nào tin ưa túc mạng, Bồ-Tát ấy vì họ mà hiện sự việc đời
trước để huyết pháp cho họ: hoặc nói bố thí, nhẫn đến hoặc nói
pháp Niết-bàn.
-
Dùng sức
như ý thần thông, Bồ-Tát ấy qua đến vô lượng quốc độ của chư
Phật, cúng dường chư Phật, theo chư Phật gieo căn lành rồi trở
về bổn quôc.
-
Dùng lậu
tận t hần thông trí chứng, Bồ-Tát này tùy theo chỗ thích ứng mà
thuyết pháp cho chúng sanh. Hoặc nói bố thí, hoặc nhẫn đến nói
pháp Niết-Bàn.
-
Như vậy,
này Tu Bồ Ðề! Lúc hành Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát phải phát
khởi các thần thông như vậy.
-
Do tu những
thần thông ấy nên Bồ-Tát tùy ý thọ thân, sự khổ, cảnh vui, chẳng
làm nhiễu được.
-
Lúc hành
Bát-Nhã ba la mật, đại Bồ-Tát du hí thần thông như vậy thì có
thể tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh.
-
Lại này, Tu
Bồ Ðề! Nếu đại Bồ-Tát chẳng tịnh Phật quốc độ, chẳng thành tựu
chúng sanh thì chẳng thể được vô thượng bồ đề. Tại sao? Vì chẳng
đầy đủ nhơn duyên nên chẳng thể được vô thượng bồ đề.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Những gì là nhơn duyên đầy đủ, do đó đại Bồ-Tát được vô
thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Tất cả pháp lành là nhơn duyên vô thượng bồ đề của đại
Bồ-Tát.
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Những gì là pháp lành, do những pháp lành ấy nên được
vô thượng bồ đề?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Bồ-Tát từ lúc ban sơ phát tâm nhẫn lại, Bố thí ba la mật là
nhơn duyên pháp lành, trong ấy chẳng phân biệt người thí, kẻ
nhận, vì là tánh rỗng không.
-
Dùng Bố thí
ba la mật này, Bồ-Tát có thể tự lợi ích cà lợi ích chúng sanh,
từ chốn sanh tử cứu họ ra khỏi cho họ được Niết-Bàn.
-
Các pháp
lành ấy đều là nhơn duyên vô thượng bồ đề của đại Bồ-Tát.
-
Hành đạo
ấy, chư đại Bồ-Tát quá khứ, vị lai, hiện tại được ra khỏi sanh
tử, đã ra khỏi may ra khỏi sẽ ra khỏi.
-
Trì giới ba
la mật nhẫn đến Bát-Nhã ba la mật, bốn thiền, bốn vô lượng tâm,
bốn vô sắc định, bốn niệm xứ nhẫn đến tám phần thánh đạo, mười
tám không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, những công đức như
vậy đều là đạo vô thượng bồ đề.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðó gọi là pháp lành, đại Bồ-Tát đầy đủ những pháp lành ấy
rồi sẽ được Nhứt thiết chủng trí.
-
Ðược Nhứt
thiết chủng trí rồi, đại Bồ-Tát sẽ chuyển pháp luân độ tất cả
chúng sanh.
-
- --o0o--
|
|