|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
BA MƯƠI
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
-
PHẨM TÁT ĐÀ BA LUÂN THỨ TÁM MƯƠI TÁM
-
Ðức Phật
bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
Ðại Bồ-Tát
cầu Bát-Nhã ba la mật, phải như đại Bồ-Tát Tát Ðà Ba Luân. Ðại
Bồ-Tát ấy hiện nay ở chỗ Ðại Lôi Âm Phật mà hành Bồ-Tát đạo.
-
Ngài Tu Bồ
Ðề bạch đức Phật:
-
Bạch đức
Thế-Tôn! Ðại Bồ-Tát Tát Ðà Ba Luân cầu Bát-Nhã ba la mật như thế
nào?
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ðại Bồ-Tát Tát Ðà Ba Luân trước kia, lúc cầu Bát-Nhã ba la
mật chẳng tiếc thân mạng chẳng màng danh lợi.
-
Ngài ở
trong rừng vắng vẻ, nghe trên hư không có tiếng bảo rằng:
-
Này Thiện
nam tử! Người từ đây đi qua phương đông chớ nhớ đến mỏi mệt, chớ
nhớ đến ngủ nghỉ, chớ nhớ đến uống ăn, chớ nhớ đến ngày đêm, chớ
nhớ đến lạnh nóng, chớ nhớ đến trong ngoài.
-
Khi đi
người chớ nhìn hai bên. Khi đi người chớ phá hoại tướng thân,
chớ phá hoại tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức.
-
Tại sao
vậy?
-
Nếu phá
hoại các tướng ấy thì ở trong Phật pháp có trở ngại.
-
Nếu ở trong
Phật pháp có trở ngại thì qua lại trong năm đường sanh tử, cũng
chẳng được Bát-Nhã ba la mật.
-
Bồ-Tát Tát
Ðà Ba Luân đáp:
-
Tôi sẽ y
theo lời dạy. Tại sao vậy?
-
Vì tôi muốn
vì chúng sanh mà làm ánh sáng lớn; tôi muốn tập họp pháp của tất
cả chư Phật, tôi muốn được vô thượng bồ đề.
-
Trên hư
không lại có tiếng nnói:
-
Lành thay,
lành thay! Người nên có lòng tin pháp không, vô tướng, vô tác.
-
Ðem tâm ly
tướng mà cầu Bát-Nhã ba la mật: ly tướng ngã, nhẫn đến ly tướng
tri giả, kiến giả.
-
Người phải
xa rời ác tri thức, phải gần gũi cúng dường thiện tri thức.
-
Ai là thiện
tri thức?
-
Là người có
thể nói pháp không, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt và Nhứt
thiết chủng trí, làm cho người nghe, tâm họ thâm nhập vui mừng
tin ưa. Ðó là thiện tri thức.
-
Nếu người
đi như vậy không lâu sẽ được nghe Bát-Nhã ba la mật. Hoặc dược
nghe từ trong quyển kinh. Hoặc được nghe từ nơi Bồ-Tát nói.
-
Chỗ mà
người theo đó được nghe Bát-Nhã ba la mật, người phải xem nơi ấy
như đức Phật. Người phải tri ân, phải nghĩ rằng đây ltức là
thiện tri thức của tôi. Do được nghe pháp Bát-Nhã ba la mật ấy
tôi sẽ chóng được chẳng thối chuyển vô thượng bồ đề, được ở gần
chư Phật thường sanh trong nước có Phật, xa rời các chướng nạn,
được đầy đủ chỗ không chướng nạn.
-
Người phải
suy lường công đức ấy, phải ở chỗ được nghe pháp xem như đức
Phật.
-
Người chớ
mống tâm vì thế lợi mà theo bên pháp sư, mà chỉ vì ưa thích
chánh pháp, chỉ vì kính trọng chánh pháp nên theo bên Bồ-Tát
pháp sư.
-
Lúc bấy giờ
người phải cảnh giác biết những ma sự.
-
Nếu ác ma
giả vì pháp mà đem ngũ dục đến dâng cho Bồ-Tát pháp sư.
-
Nếu Bồ-Tát
pháp sư nhập thiệt pháp minh vì công đức lực nên nhận lấy, nhưng
không hề nhiễm ngũ dục ấy.
-
Bồ-Tát pháp
sư lại vì ba việc nên nhận lấy ngũ dục ấy: một là vì sức phương
tiện, hai là vì muốn cho chúng sanh gieo căn lành, ba là vì muốn
cùng chúng sanh đồng sự ấy.
-
Ðối với sự
ấy người chớ sanh tâm chẳng kính tin, mà phải sanh lòng kính
tin, nghĩ rằng: tôi chưa được phương tiện trí. Ðại sư vì độ
chúng sanh nên dùng pháp phương tiện cho họ được phước đức, nên
đại sư mới nhận lấy ngũ dục ấy, nơi Bồ-Tát trí huệ vẫn không
trước không ngại, chẳng bị ngũ dục nhiễm ô.
-
Người liền
phải quán thiệt tướng các pháp, nghĩa là tất cả pháp chẳng cấu
chẳng tịnh. Tại sao vậy? Tất cả pháp tự tánh rỗng không, không
có chúng sanh, không có ngã, không có nhơn. Tất cả pháp như ảo,
như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như hóa.
-
Người quán
các pháp thiệt tướng ấy rồi phải theo pháp sư, không lâu người
sẽ thành tựu Bát-Nhã ba la mật.
-
Lại nữa,
người phải cảnh giác biết ma sự.
-
Nếu Bồ-Tát
pháp sư thấy người muốn học Bát-Nhã ba la mật mà chẳng để ý đến,
thì người chớ sanh lòng oán hận. Người chỉ phải nên vì pháp mà
sanh lòng cung kính, chớ có ý chán lười, phải thường theo bên
pháp sư.
-
Sau khi
nghe lời chỉ bảo từ trên hư không, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát đi qua
phương đông không bao lâu chợt nhĩ rằng sao tôi không nỏi tiếng
trên hư không phải đi đến xứ nào, xa hay gần, sẽ phải theo ai để
được nghe Bát-Nhã ba la mật.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát liền đứng lại ưu sầu khóc than mà nghĩ rằng: tôi ở
lại dây chẳng nhớ đến mỏi nhọc nhẫn đến chẳng nhớ đến đói khát
lạnh nóng, nếu chẳng được nhơn duyên nghe học Bát-Nhã ba la
mật, tôi quyết chẳng rời khỏi nơi đây.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Như người chỉ có một đứa con trai, đứa con ấy bỗng chết,
người ấy âu sầu đau khổ trong lòng chỉ có sầu khổ chớ chẳng nghĩ
gì khác.
-
Cũng vậy,
lúc Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát không nghĩ gì khác ngoài sự mong muốn
được biết bao giờ tôi được nghe Bát-Nhã ba la mật, tại sao tôi
không hỏi tiếng trên hư không: tôi phải đến xứ nào xa hay gần,
sẽ theo ai để học Bát-Nhã ba la mật.
-
Lúc Tát Ðà
Ba Luân Bồ-Tát buồn nghĩ như vậy, trên hư không c ó đức Phật bảo
rằng:
-
Lành thay,
lành thay! Này Thiện nam tử! Chư Phật quá khứ lúc hành Bồ-Tát
đạo cầu Bát-Nhã ba la mật cũng như người ngày nay vậy.
-
Người giữ
gìn tâm siêng năng tinh tiến ưa thích chánh pháp ấy mà đi qua
phương đông cách đây năm trăm do tuần có tòa thành tên Chúng
Hương. Thành ấy có bảy lớp, bảy báu trang nghiêm, nhà cữa bao
lơn đềutrang sức bằng bảy báu, haò bằng bảy báu, hàng cây bảy
báu vòng quanh bảy vòng. Toà thành ấy ngang rộng mười hai do
tuần, giàu vui an tịnh nhơn dân đông đảo, cóo năm trăm thị xã,
đường xá tương đương dẹp tốt như tranh vẽ. Cầu cống rộng rãi
sạch sẽ như đất bằng. Trên bảy lớp thành đều có lâu đài, cây báu
bảy hàng, nhánh lá bằng hoàng kim bạch ngân, ngọc xa cừ, mã não,
san hô, lưu ly, pha lê và chân châu màu hồng. Giây báu kết
giăng, linh lưới bằng vàng trùm lên thành. Gió thổi linh khua
vang tiếng hòa nhã làm vui lòng người nghe, như ngũ nhạc khéo
hòa tất rất là vui vẻ. Tiếng lưới vàng và linh báu cũng như vậy.
Bốn phía thành có ao nước chảy trong sạch, lạnh ấm vừa thích.
Trong ao có những chiếc thuyền bằng bảy báu. Dó là do nghiệp đời
trước của chúng sanh nơi ấy gây nên. Ngồi thuyền báu ấy qua lại
vui chơi. Trong nước ao có các loại hoa sen xanh vàng đỏ trắng
và nhiều thứ hoa khác che khắp mặt ao. Bao nhiêu thứ hoa trong
cõi Ðại Thiên đều có trong ấy. Bốn phía thành lại có năm trăm
khu vườn nhà làm bằng bảy báu trang nghiêm rất đáng ưa thích.
Trong mỗi khu vườn ấy đều có năm trăm ao nước. Mỗi ao rộng mười
dặm cũng bằng bảy báu nhiều màu trang nghiêm. Trong ao nước ấy
cũng có hoa sen xanh vàng đỏ trắng che đầy mặt nước. Hoa sen ấy
lớn như bánh xe: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng,
màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Mặt nước ao lại có
nhiều loại chim: chim le, chim nhạn, chim uyên ương kêu tiếng
hòa nhau. Các khu vườn nhà ấy không thuộc riêng ai. Ðó là do
nghiệp đời trước của chúng sanh xứ ấy gây nên, họ luôn mãi tin
ưa chánh pháp sâu xa và thật hành Bát-Nhã ba la mật nên hưởng
thọ quả báo ấy.
-
Này Thiện
nam tử! Trong thành Chúng Hương c ó tòa đài cao, cung điện của
đại Bồ-Tát Ðàm Vô Kiệt ở trên đài ấy. Cung ấy rộng một do tuần,
bằng bảy báu nhiều màu trang nghiêm rất đáng nưa thích. Tường
rào bảy lớp cũng bằng bảy báu chồng chất xây thành, bảy lớp hàng
cây, nhánh lá bảy báu, bảy lớp vườn bao quanh. Trong cung điện
ấy có bốn khu vườn vui chơi: một khu vườn tên Thường hỉ, khu thứ
hai tên Ly ưu, khu tứ ba tên Hoa sức, khu thứ tư tên Hương sức.
Trong mỗi khu vườn có tám ao: thứ nhứt tên Hiền, ao thứ hai tên
Hiền thượng, ao thứ ba tên Hoan hỉ, ao thứ thư tên Hỉ thượng,
ao thứ năm tên An ổn, ao thứ sáu tên Ða an ổn, ao thứ bảy tên
Viễn ly, ao tứ tám tên Bất thối chuyển. Bốn bên ao, mỗi mặt
riêng một thứ báu: hoàng kim, bạch ngân, lưu ly và pha lê. Ngọc
mai côi làm đáy ao, trên trải cát hoàng kim. Cạnh mỗi ao đều có
thềm bực làm bằng các thứ báu. Khoảng giữa thềm bực có hàng cây
ba tiêu bằng vàng Diêm phù đàn. Trong tất cả ao đều có hoa sen
xanh vàng đỏ trắng che trùm mặt nước. Bốn bên các ao đều có cây
hoa đẹp gió thổi các hoa rơi vào trong nước ao. Nước ao có đủ
tám công đức, thơm như chiên đàn, đầy đủu màu sắc và mùi vị, vừa
nhẹ vừa nhu nhuyến.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát cùng sáu muôn tám ngàn thể nữ, ngũ dục đầy đủ chung vui
cùng hưởng.
-
Nhơn dân
trong thành cũng vào các vườn Thường hỉ và ao Hiền vân ngũ dục
đầy đủ cũng chung vui cùng hưởng.
-
Này Thiện
nam tử! Sau khi cùng các thể nữ dạo chơi vui thú xong, ngày ba
thời, Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật.
-
Nam nữ lớn
nhỏ trong thành Chúng Hương chọn nơi đông người tụ họp thiết
lập pháp tọa lớn. Bốn chưn pháp tọa ấy hoặc bằng hoàng kim, hoặc
bằng bạch ngân, hoặc bằng lưu ly, hoặc bằng pha lê, trên trải
nệm êm dày nhiều màu thòng những tua tụi, dùng bạch điệp đẹp
trùm lên trên, rải những hoa đẹp hương thơm. Pháp tọa ấy cao năm
dặm, giăng trướng bạch châu. Bốn phía khoảng đất ấy rải hoa năm
màu, đốt những hương thơm, nước thơm tưới trên đất. Ðó là để
cúng dường Bát-Nhã ba la mật vậy.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát ngồi trên pháp tòa ấy giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật.
-
Nhơn chúng
nơi thành ấy cúng dường cung kính Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, để nghe
Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðại hội ấy
có năm trăm vạn chúng, chư Thiên cùng người thế gian hòa hiệp
một chỗ. Trong đó có người lắng nghe, có người thọ trì, có người
tụng, có người biên, có người chánh quán, có người thật hành
đúng theo lời dạy.
-
Bấy giờ do
nhơn duyên ấy nên chúng sanh đều chẳng đọa ác đạo, chẳng thối
chuyển vô thượng bồ đề.
-
Này Thiện
nam tử! Người qua đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát sẽ được nghe
Bát-Nhã ba la mật.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát là thiện tri tức trong nhiều đời trước của người, hay dạy
cho người vô thượng bồ đề, chỉ dạy cho người được lợi ích vui
mừng.
-
Thuở trước,
lúc Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát cầu Bát-Nhã ba la mật cũng như người ngày
nay.
-
Người đi
chớ kể ngày đêm, chớ e ngại, không lâu người sẽ được nghe
Bát-Nhã ba la mật.
-
Khi nghe
lời chỉ bảo trên hư không, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát lòng rất vui
mừng nghĩ rằng bao giờ tôi sẽ được thấy vị thiện tri thức ấy để
được nghe Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Ví như có người trúng phải tên độc, trong lòng người ấy
không nghĩ gì khác, chỉ nghĩ rằng lúc nào gặp được lương y nhổ
tên độc ra chữa khỏi nạn khổ cho tôi.
-
Cũng vậy,
Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát không còn nghĩ gì khác, chỉ tâm nguyện lúc
nào tôi được thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát cho tôi được nghe Bát-Nhã
ba la mật dứt hết tâm chấp có.
-
Ở tại chỗ
cũ ấy, Tát Ðà Ba Luân tâm tưởng niệm Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ở trong
tất cả pháp được tri kiến vô ngại, liền được vô lượng môn tam
muội hiện tiền, đó là: chư pháp tánh quán tam muội, chư pháp
tánh bất khả đắc tam muội, phá chư pháp vô minh tam muội, chư
pháp bất dị tam muội, chư pháp bất hoại tự tại tam muội, chư
pháp năng chiếu minh tam muội, chư pháp ly ám tam muội, chư pháp
vô dị tương tục tam muội, chư pháp bất khả đắc tam muội, tán hoa
tam muội, chư pháp vô ngã tam muội, như huyễn oai thế tam muội,
đắc như cảnh tượng tam muội, đắc nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn
tam muội, nhứt thiết chúng sanh hoan hỉ tam muội, nhập phân biệt
âm thanh tam muội, đặc chủng chủng ngữ ngôn tự cú trang nghiêm
tam muội, vô úy tam muội, tánh thường mặc nhiên tam muội, đắc vô
ngại giải thoát tam muội, ly trần cấu tam muội, danh tự ngữ cú
trang nghiêm tam muội, kiến chư pháp tam muội, chư pháp vô ngại
đảnh tam muội, như hư không tam muội, như kim cang tam muội, bất
úy trước sắc tam muội, đắc thắng tam muội, chuyển nhãn tam muội,
tất pháp tánh tam muội, năng giữ an ổn tam muội, sư tử hống tam
muội, thắng nhưt thiết chúng sanh tam muội, hoa trang nghiêm tam
muội, đoạn nghi tam muội, đọan nhứt tiết kiên cố tam muội, xuất
chư pháp đắc thần thông lực vô úy tam muội, năng đạt chư pháp
tam muội, chư pháp tài ấn tam muội, chư pháp vô phân biệt kiến
tam muội, ly chư kiến tam muội, ly nhứt thiết ám tam muội, ly
nhứt thiết tướng tam muội, giải thoát nhứt thiết trước tam muội,
trừ nhứt thiết giãi đãi tam muội, đắc t hâm pháp minh tam muội,
bất khả đoạt tam muội, phá ma tam muội, bất trước tam giới tam
muội, khởi quang minh tam muội, kiến chư Phật tam muội.
-
An trụ
trong các tam muội ấy, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát liền thấy mười
phương vô lượng vô số chư Phật vì chư đại Bồ-Tát mà nói Bát-Nhã
ba la mật.
-
Lúc ấy chư
Phật mười phương an ủi Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát rằng: Lành thay,
lành thay! Này Thiện nam tử! Lúc chúng ta hành Bồ-Tát đạo thuở
trước cầu Bát-Nhã ba la mật được các tam muội ấy cũng như chỗ
được của người hiện nay vậy.
-
Ðược các
tam muội ấy rồi chúng ta khéo vào Bát-Nhã ba la mật thành tựu
sức phương tiện trụ bực bất thối chuyển.
-
Chúng ta
quán tánh các tam muội ấy chẳng thấy có pháp gì xuất tam muội
nhập tam muội, cũng chẳng thấy ai hành Phật đạo cũng chẳng thấy
ai được vô thượng bồ đề.
-
Này Thiện
nam tử! Ðó gọi là Bát-Nhã ba la mật, nghĩa là chẳng quan niệm có
các ấy.
-
Này Thiện
nam tử! Chúng ta an trụ trong pháp vô sở niệm mà được thân màu
hoàng kim rất sáng chói này, có ba mươi hai tướng tám mươi tùy
hình hảo, trí huệ chẳng thể nghĩ bàn được, giới vô thượng, tam
muội vô thượng, Phật vô thượng trí huệ, tất cả công đức thảy đều
đầy đủ.
-
Ðã đầy đủ
tất cả công đức mà đức Phật còn chẳng thể lấy tướng nói hết
được, huống là hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật và những người
khác!
-
Này Thiện
nam tử! Vì lẽ ấy nên ở trong Phật pháp này phải càng cung kính
mến nhớ, sanh lòng tin thanh tịnh. Ðối vơí thiện tri thức phải
xem như đức Phật.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì nhờ
thiện tri thức thủ hộ mà Bồ-Tát mau được vô thượng bồ đề.
-
Lúc ấy Tát
Ðà Ba Luân Bồ-Tát bạch chư Phật mười phương:
-
Ai là thiện
tri thức của tôi, mà tôi phải thân cận cúng dường.
-
Chư Phật
mười phương bảo Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát:
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát đã nhiều đời giáo hóa vô thượng bồ đề cho người thành
tựu. Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát thủ hộ người dạy cho người sức phương
tiện Bát-Nhã bala mật, Bồ-Tát ấy là thiện tri thức của người.
-
Dầu người
có cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát hoặc một kiếp, hai kiếp ba
kiếp, nhẫn đến hơn trăm kiếp đầu đội cung kính, đem tất cả đồ
sắc, thanh, hương, vị, xúc vui thích trong cõi Ðại Thiên cúng
dường hết cũng chưa đáp được ơn trong khoảnh khắc.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì do nhơn
duyên của Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát làm cho người được những tam muội
như vậy, được sức phương tiện Bát-Nhã ba la mật như vậy.
-
Chư Phật an
ủi giáo hóa Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát như vậy, làm cho ngài vui
mừng xong, bỗng nhiên chẳng hiện.
-
Từ tam muội
dậy, Tát Ðà Ba Luân chẳng còn thấy chư Phật bèn nghĩ rằng: chư
Phật ấy từ đâu đến đi về đâu?
-
Vì chẳng
thấy chư Phật nên ngài lại buồn rầu chẳng vui: ai sẽ dứt hết chỗ
nghi ngờ của tôi.
-
Ngài lại
nghĩ rằng Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát từ lâu xa đã thường hành Bát-Nhã ba
la mật được sức phương tiện và các Ðà la ni, nơi pháp Bồ-Tát
được tự tại, cúng dường nhiều chư Phật quá khứ, nhiều đời lal2m
thầy tôi, thường làm lợi ích cho tôi. Tôi sẽ hỏi Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát: chư Phật từ đâu đến đi đến đâu?
-
Lúc ấy đối
với Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, Tát Ðà Ba luân sanh lòng cung kính tôn
trọng mến ưa, nghĩ rằng: tôi phải lấy gì cúng dường Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát?
-
Hiện nay
tôi nghèo cùng không có ho ahương vàng bạc châu báu. Không có
những vật khả dĩ cúng dường Bát-Nhã ba la mật và pháp sư Ðàm Vô
Kiệt Bồ-Tát. Tôi không nên đi tay không để đến chỗ Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát. Nếu tôi đi không thì khó sanh lòng mừng rỡ. Vì Bát-Nhã
ba la mật tôi phải bán thân có tài vật cúng dường Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát.
-
Từ nhiều
đời tôi đã mất vô số thân. Trong vô thỉ sanh tử hoặc chết hoặc
bán hoặc vì dục vọng mà nhiều đời chịu vô lượng khổ não ở trong
địa ngục. Chưa bao giờ vì pháp thanh tịnh, vì pháp sư mà mất
thân.
-
Giữa đường,
Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát vào một thành đến giữa chợ rao lớn rằng:
ai cần người! ai cần người! ai muốn mua người!
-
Bấy giờ ác
ma nghĩ rằng, vì mến chánh pháp mà Tát Ðà Ba Luân này tự bán
thân, vì Bát-Nhã ba la mật mà cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát. Ông
ấy sẽ chánh vấn Bát-Nhã ba la mật và sức phương tiện: đại Bồ-Tát
hành Bát-Nhã ba la mật thế nào để chóng được vô thượng bồ đề.
Ông ấy sẽ được đầy đủ đa văn như nước biển cả, lúc đó chẳng thể
ngăn trở phá hoại được. Ông ấy sẽ được đầy đủ tất cả công đức
lợi ích chư đại Bồ-Tát nơi vô thượng bồ đề, qua khỏi cảnh giới
của ta, và cũng dạy người khác ra khỏi cảnh giới của ta để được
vô thượng bồ đề. Ta phải phá hoại công việc của ông ấy.
-
Bấy giờ ác
ma che các nhà Bà la môn, cư sĩ c hẳng cho nghe tiếng rao bán
thân của Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát, chỉ trừ một trưởng giả nữ, vì
nhơn duyên đời trước nên ác ma chẳng che được.
-
Tát Ðà Ba
Luân rao bán thân chẳng ai hỏi mua, bèn buồn rầu khóc lóc đứng
lại một nơi rơi lệ tự nghĩ rằng vì tôi có tội lớn nên bán thân
mà chẳng ai mua, vì Bát-Nhã ba la mật mà tôi tự bán thân để cúng
dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
-
Bấy giờ
Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn nghĩ rằng Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát mên
chánh pháp mà tự bán thân, vì Bát-Nhã ba la mật nên muốn cúng
dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, ta sẽ thử ông ấy coi có phải thiệt vì
thâm tâm mến pháp mà xả thân chăng?
-
Thiên Ðế
Thích liền hóa làm người Bà la môn đi ngang qua chỗ Tát Ðà Ba
Luân đứng hỏi rằng: cớ chi mà người đứng nơi đây khóc than buồn
rầu nhan sắc tiều tụy như vậy?
-
Thưa Bà la
môn! Tôi mến kính chánh pháp. Vì Bát-Nhã ba la mật nên tôi bán
thân để cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát nhưng không ai mua. Tôi
nghĩ mình phước bạc không có của báu, muốn bán thân cũng chẳng
ai mua. Tôi lấy gì cúng dường Bát-Nhã ba la mật và Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát.
-
Bà la môn
nói:
-
Tôi chẳng
cần người. Hiệnnay tôi muốn tế trời, cần có tim máu và tủy
người. Ông c ó thể bán những vật ấy cho tôi không?
-
Tát Ðà Ba
Luân nghĩ rằng tôi được lợi lớn, được lợi đệ nhứt. Nay tôi vì
đầy đủ Bát-Nhã ba la mật, phương tiện lực nên được người mua tim
máu và tủy.
-
Nghĩ xong,
Tát Ðà Ba Luân trong lòng rất vui mừng không còn bbuồnrầu bảo Bà
la môn rằng:
-
Tôi bằng
lòng trao cho ông những vật ông muốn dùng.
-
Bà la môn
hỏi:
-
Ông lấy giá
bao nhiêu?
-
Tát Ðà Ba
Luân đáp:
-
Tùy ý ông
cho bao nhiêu cũng được.
-
Liền đó,
Tát Ðà Ba Luân tay mặt cầm dao bén đâm vào cánh tay tả tuôn náu
ra, rồi cắt thịt bắp vế bên mặt muốn chặt xương để lấy tủy.
-
Khi ấy có
một trưởng giả nữ ở trên gác cao thấy Tát Ðà Ba Luân tự cắt
thân thể chẳng tiếc mạng sống, muốn biết duyên do, nàng liền
xuốn gác đến hỏi Tát Ðà Ba Luân rằng:
-
Người ơi
sao lại tự hủy thân khốn khổ đến như vậy. Dùng tim máu này để
làm gì?
-
Tát Ðà Ba
Luân đáp:
-
Tôi bán cho
ông Bà la môn đây, để có tiền vật cúng dường Bát-Nhã ba la mật
và Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
-
Trưởng giả
nữ hỏi:
-
Ông muốn
đem bán tim máu và tủy để cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát sẽ được
công đức gì?
-
Tát Ðà Ba
Luân đáp:
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát khéo học Bát-Nhã ba la mật và phương tiện lực. Ngài sẽ
giảng dạy tôi việc phải làm của Bồ-TÁt và đạo sở hành của
Bồ-Tát.
-
Tôi học
pháp ấy đạo ấy, lúc được vô thượng bồ đề làm y chỉ cho chúng
sanh sẽ được thân màu hoàng kim đủ ba mươi hai tướng, tám mươi
tùy hình hảo quang minh vô lượng, đại từ đại bi đại hỉ đại xả,
bốn vô úy, bốn trí vô ngại, phật thập lực, mười tám pháp bất
cộng, sáu thần thông chẳng thể nghĩ bàn, giới định trí huệ thanh
tịnh được vô thượng bồ đề. Ở trong các pháp được tri kiến nhứt
thiết vô ngại. Ðem pháp bảo thượng phân bố cho tất cả chúng
sanh.
-
Những công
đức lợi ích như vậy tôi sẽ được từ nơi Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ấy.
-
Trưởng giả
nữ nghe Phật pháp thượng diệu ấy lòng rất vui mừng kinh ngạc
rởn ốc nói:
-
Rất là hi
hữu. Chỗ ông nói vi diệu khó được nghe. Vì mỗi pháp công đức ấy
đáng xả cả hằng sa t hân mạng. Chỗ ông nói đó rất là vi diệu.
-
Nay ông cần
những gì tôi sẽ cung cấp hết. Những vàng bạc châu báu hoa hương
phan lọng y phục nhạc khí, tôi sẽ cấp cho ông tất cả để ông cúng
dường Bát-Nhã ba la mật và Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
-
Ông chớ nên
hủy hoại thân thể. Tôi cũng sẽ đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát cùng
ông gieo căn lành để được pháp vi diệu như lời ông nói đó.
-
Lúc ấy
Thích Ðế Thích hoàn lại bổn hình khen:
-
Lành thay,
lành thay! Ông bền chịu sự đau khổ như vậy mà chẳng động tâm.
Chư Phật quá khứ lúc hành đạo Bồ-Tát cũng như vậy mà cầu Bát-Nhã
ba la mật và phương tiện lực nên được vô thượng bồ đề.
-
Tôi thiệt
chẳng dùng tim máu tủy người, chỉ đến thử nhau thôi. Ông cầu
mong điều gì tôi sẽ ban cho?
-
Tát Ðà Ba
Luân nói:
-
Tôi cầu
mmong vô thượng bồ đề.
-
Thiên Ðế
Thích nói:
-
Ðiều ấy sức
tôi làmkhông được. Ðó là cảnh giới chư Phật.
-
Tôi quyết
phải báo đền, vậy ông nên cầu việc khác.
-
Tát Ðà Ba
Luân nói:
-
Nếu như
vậy, xin thân thể tôi bình phục như cũ.
-
Liền đó
thân thể của Tát Ðà Ba Luân bình phục không còn thương tích y
như trước không khác.
-
Thiê Ðế
Thích bỗng nhiên chẳng hiện.
-
Trưởng giả
nữ bảo Tát Ðà Ba Luân:
-
Người đến
nhà tôi, cần thứ gì tôi sẽ xin cha mẹ tôi cấp cho. Tôi cũng sẽ
từ giả cha mẹ tôi rồi mang theo kẻ hầu hạ cùng người đi đến chỗ
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát để cúng dường và cầu pháp.
-
TÁt Ðà Ba
Luân liền đứng ngoài cửa nhà trưởng giả nữ. Nàng vào thưa cha mẹ
xin đủ đồ dùng để cúng dường và xin phép cha mẹ cho nàng mang
theo năm trăm thị nữ vốn là kẻ hầu hạ nàng cùng đi với Tát Ðà Ba
Luân đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát để cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
Bồ-Tát ấy sẽ vì chúng con mà thuyết pháp. Con sẽ thật hành đúng
theo và sẽ được pháp của chư Phật.
-
Cha mẹ nàng
hỏi:
-
Tát Ðà Ba
Luân là người nào?
-
Nàng thưa:
-
Người ấy
hiện đứng ngoài cửa.
-
Người ấy
dùng thân tâm cầu voô thượng bồ đề muốn độ tất cả chhúng sanh
khỏi vô lượng khổ sanh tử. Vì cầu pháp mà người ấy tự bán thân
mình để cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
-
Bát-Nhã ba
la mật có tên là đạo sở học của Bồ-Tát.
-
Vì cúng
dường Bát-Nhã ba la mật và Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát mà Tát Ðà Ba Luân
ở giữc chợ rao lớn: ai muốn cần người, ai muốn mua người!
-
Bán thân
không ai hỏi mua, người ấy đứng một chỗ buồn rầu khóc than.
-
Thiên Ðế
Thích hóa làm người Bà la môn đến thử thách hỏi duyên cớ.
-
TÁt Ðà Ba
Luân nói tôi muốn bán thân để cúng dường Bát-Nhã ba la mật và
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, nhưng vì phước bạc nên chẳng ai hỏi mua.
-
Bà la môn
nói tôi chẳng cần người, tôi muốn tế trời, phải dùng tim máu và
tủy người. Ông có bán đượ ckhông?
-
Tát Ðà Ba
Luân nghe nói hết buồn rầu vui mừng ưng bán không cần giá cả.
-
Lúc ấy Tát
Ðà Ba Luân tay mặt cầm dao bén đâm vào cánh tay trái lấy máu,
rồi cắt thịt bắp vế mặt muốn chẻ xương lấy tủy.
-
Con ở trên
gác ngó thấy vội xuống hỏi duyên cớ.
-
Khi biết rõ
duyên do, con hứa cung cấp đủ đồ cúng dường và ngăn người ấy hủy
hoại thân thể. Con cũng hứa sẽ xin phép cha mẹ cùng đi với người
ấy cúng dường Bát-Nhã ba la mật và Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
-
Cha mẹ nàng
nói:
-
Thật là hi
hữu khó có. Người ấy tinh tiến vì phap1 và rất thích pháp tướng.
-
Những Phật
pháp ấy chẳng thể nghĩ bàn, là tối đệ nhứt ở tất cả thế gian, là
nhơn duyên an lạc của tất cả chúng sanh.
-
Vì pháp ấy
mà người ấy đại thệ trang nghiêm.
-
Cha mẹ cho
phép con đến gặp Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát để thân cận cúng dường. Vì
con đã phát tâm lớn muốn được Phật pháp. Con tinh tiến như vậy
cha mẹ đâu được chẳng tùy hỉ.
-
Ðược cha mẹ
cho phép, trưởng giả nữ rất vui mừng liền trang nghiêm xe bảy
báu năm trăm cỗ. Ðích thân nàng cùng năm trăm thị nữ sắm sửa đồ
cúng dường, đem các thứ hoa tươi và hoa bằng vàng bằng bạc, nhữn
gy phục tran6 báu, chuỗi ngọc, hương tốt, đồ ăn uống thơm ngon,
rồi cùng Tát Ðà Ba Luân và năm trăm thị nữ mỗi người ngồi một xe
cung kính trang trọng đi lần về phương đông, thấy thành Chúng
Hương bảy báutrang nghiêm, bảy lớp vây quanh, hào bằng bảy báu
và hàng cây bảy báu cũng đều bảy lớp. Thành ấy rộng mười hai do
tuần, giàu thịnh an tĩnh rất là vui sướng. Trong thành nhơn dân
đông đúc, có năm trăm thị xã,, đường sá tương đương như tranh
vẽ. Cầu kỳ bằng phẳng rộng rãi sạch sẽ.
-
Ðến khi vào
trong thành thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ngồi trên pháp tòa giữa đài
cao đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn muôn ức thính chúng
vây quanh.
-
Lúc thấy
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, Tát Ðà Ba Luân lòng liền vui mừng như Tỳ
kheo nhập đệ tam thiền nhiếp tâm an tĩnh, tự nghĩ rằng theo
nghĩa thì chúng ta chẳng nên ngồi xe đến Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát. Suy
nghĩ xong liền xuống xe đi bộ.
-
Trưởng giả
nữ cùng năm trăm thị nữ cũng xuống xe đi bộ.
-
Bấy giờ Tát
Ðà Ba Luân cùng trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ châu báu trang
nghiêm cung kính vây quanh đồng đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát có đài bảy báu trang nghiêm với ngưu đầu chiên đàn đỏ,
màn lưới chơn châu che trùm phía trên, bốn góc đều treo bửu châu
ma ni để làm đèn sáng, và có bốn lò hương báu thường đốt hương
thơm để cúng dường Bát-Nhã ba la mật.
-
Trong đài
có giường lớn bảy báu, giường nhỏ bốn báu đặt trên giường lớn.
-
Bát-Nhã ba
la mật được biên vào lá vàng hoàng kim và an trí trên giường
nhỏ.
-
Các thứ
phan lọng trang nghiêm treo che phía trên.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát cùng chúng nữ nhơn thấy đài báu thờ Bát-Nhã ba la
mật ấy có các châu báu trang nghiêm. Lại thấy Thiên Ðế Thích Ðề
Hoàn Nhơn cùng vô lượng trăm ngàn vạn chư Thiên dùng hoa trời
mạn đà la, chiên đàn nghiền bột, mạt các thứ báu rải trên đài.
Trên hư không trỗi kỹ nhạc trời để cúng dường đài báu ấy.
-
Tát Ðà Ba
Luân hỏi Thiên Ðế Thích:
-
Ngài Kiều
Thi Ca! Có duyên cớ gì mà ngài cùng vô lượng trăm ngàn vạn chư
Thiên đem hoa hương trời và kỹ nhạc trời cúng dường đài ấy như
vậy?
-
Thiên Ðế
Thích đáo:
-
Người chẳng
biết ư! Ðây là Ma Ha Bát-Nhã ba la mật, là mẹ của chư đại
Bồ-Tát, hay sanh chư Phật và nhiếp trì Bồ-Tát.
-
Bồ-Tát học
Bát-Nhã ba la mật ấy thành tựu tất cả công đức được các Phật
pháp và Nhứt thiết chủng trí.
-
Tát Ðà Ba
Luân liền vui mừng hỏi Thiên Ðế Thích:
-
Ngài Kiều
Thi Ca! Bát-Nhã ba la mật ấy là mẹ của chư dại Bồ-Tát, hay sanh
chư Phật và nhiếp trì Bồ-Tát. Bồ-Tát học Bát-Nhã ba la mật ấy
thành tựu tất cả công đức được các Phật pháp và Nhứt thiết chủng
trí nay ở tại chỗ nào?
-
Thiên Ðế
Thích đáp:
-
Trong đài
cao ấy có giường lớn bảy báu, trên giường lớn đặt giường nhỏ bốn
báu, Bát-Nhã ba la mật được biên trên lá vàng hoàng kim an trí
trên giường nhỏ ấy. Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát dùng ấn bảy báu ấn lên.
Chúng ta không thể mở được để cho người xem.
-
Lúc ấy Tát
Ðà Ba Luân Bồ-Tát cùng Trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đem đồ
cúng dường như hoa hương chuỗii ngọc phan lọng chia làm hai
phần: một phần cúng dường Bát-Nhã ba la mật, một phần cúng dường
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát đang ngồi trên pháp tọa.
-
Sau khi
cúng dường phần Bát-Nhã ba la mật xong, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát
cùng các nữ nhơn đem phần cúng dường thứ hai đến chỗ Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát. Thấy ÐàmVô Kiệt Bồ-Tát ngồi trên pháp tọa, liền vì pháp
lấy đồ cúng dường dâng lên Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát. Những đồ cúng
dường ấy hiện lên hư không, phía trên Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, hóa
thành hoa đài, bửu trướng, bửu cái, bốn phía bửu cái treo thòng
những phan báu.
-
Tát Ðà Ba
Luân và nữ nhơn thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát biến hóa như vậy lòng
rất vui mừng nghĩ rằng: thiệt chưa từng có. Công đức thần thông
của Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát là như vậy. Lúc hành Bồ-Tát đạo mà sức
thần thông còn được từng ấy huống là lúc được vô thượng bồ đề.
-
Trưởng giả
nữ và năm trăm thị nữ lòng tin thanh tịnh kính trọng Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát, đêu phát tâm vô thượng bồ đề, đồng nguyện rằng:
-
Như Ðàm VÔ
Kiệt Bồ-Tát được các thâm pháp Bồ-Tát, nhu Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát
cúng dường Bát-Nhã ba la mật, như Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ở trong đại
chúng hiển thị diễn thuyết nghĩa Bát-Nhã ba la mật, như Ðàm Vô
Kiệt Bồ-Tát được sức phương tiện Bát-Nhã ba la mật, thành tựu
thần thông, ở nơi công việc Bồ-Tát được tự tại, chúng tôi sẽ
được như vậy.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát và các nữ nhơn cúng dường Bát-Nhã ba la mật và Ðàm
Vô Kiệt Bồ-Tát rồi đồng đảnh lễ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát. Sau đó cùng
đứng qua một phía.
-
Ðứng qua
một phía xong, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát bạch Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát
rằng:
-
Ngày trước
lúc tôi cầu Bát-Nhã ba la mật, ở trong rừng vắng vẻ nghe tiếng
trê hư không dạy rằng này Thihện nam tử! Từ đây người đi qua
phương đông sẽ được nghe Bát-Nah4 ba la mật. Tôi theo lời đi qua
phương đông. Chẳng bao lâu tôi nghĩ rằng sao tôi chẳng nhỏi nơi
tiếng hư không: tôi phải đi đến xứ nào, xa gần, nghe pháp nơi
ai? Tôi quá buồn khổ khóc lóc ở lại đó bảy ngày dêm, vì quá buồn
khổ nên tôi không màng ăn uống chỉ nghĩ rằng lúc nào tôi được
nghe Bát-Nhã ba la mật? Ðương lúc tôi buồn rầu nhứt tâm niệm
Bát-Nhã ba la mật như vậy, tôi thấy đức Phật hiện thân trên hư
không bảo tôi rằng: nhà ngươi chớ buông bỏ tâm đại nguyện đại
tinh tiến. Dùng tâm dại nguyện đại tinh tiến ấy, nhà ngươi đi
qua phương đông cách đây năm trăm do tuần có tòa thành tên
Chúng Hương. Trong thành ấy có đại Bồ-Tát tên Ðàm Vô Kiệt. Nhà
ngươi sẽ được nghe Bát-Nhã ba la mật nơi Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát.
Bồ-Tát ấy là thiện tri thức nhiều đời của nhà ngươi, thường thủ
hộ nhà ngươi.
-
Ðược đức
Phật chỉ bảo xong, tôi đi qua phương đông, trong lòng chẳng nghĩ
gì khác, chỉ tâm niệm bao giờ tôi được thấy Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát
vì tôi mà nói Bát-Nhã ba la mật?
-
Lúc ấy tôi
dừng lại giữa đường, nơi tất cả pháp tôi được trí kiến vô ngại,
được các tam muội quán chư pháp tánh vân vân hiện ra trước. Tôi
an trụ trong các tam muội ấy thấy mười phương vô lượng vô số
chư Phật giảng thuyết Bát-Nhã ba la mật. Chư Phật khen tôi rằng:
lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử! Thuở trước, lúc cầu
Bát-Nhã ba la mật, ta được các tam muội cũng như nhà ngươi hôm
nay vậy. Ðược các tam muội ấy rồi thì được khắp các Phật pháp.
-
Chư Phật vì
tôi thuyết pháp và an tủi tôi xong, bỗng nhiên chẳng hiện.
-
Tôi từ tam
muội dậy suy nghĩ rằng: Chư Phật từ đâu đến và đi đến đâu?
-
Vì không
còn thấy chư Phật nên tôi rất buồn rầu.
-
Tôi lại
nghĩ rằng Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát trước đã cúng dường chư Phật gieo
căn lành, từ lâu hành Bát-Nhã ba la mật và sức phương tiện, ở
trong Bồ-Tát đạo đã được tự tại, là thiện tri thức của tôi, thủ
hộ tôi.
-
Tôi sẽ hỏi
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát sự việc ấy: Chư Phật từ đâu đến và đi đến
đâu.
-
Nay tôi hỏi
Ðại sư: Chư Phật ấy từ đâu đến và đi đến đâu?
-
Ðại sư vì
tôi nói chỗ chư Phật từ đâu đến và đi cho tôi được biết.
-
Tôi biết
rồi cũng thường chẳng rời thấy chư Phật.
-
- --o0o--
|
|