|
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
QUYỂN THỨ
BA MƯƠI
Hán
dịch: Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
PHẨM ĐÀM VÔ KIỆT THỨ TÁM MƯƠI CHÍN
-
Lúc ấy Ðàm
Vô Kiệt đại Bồ-Tát bảo Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát:
-
Này Thiện
nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu.
-
Tại sao
vậy?
-
Chư Pháp
như tướng chẳng động.
-
Chư Pháp
như tức là chư Phật.
-
Pháp vô
sanh không đến không đi. Pháp vô sanh tức là chư Phật.
-
Pháp vô
diệt không đến không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
-
Pháp thiệt
tế không đến không đi. Pháp thiệt tế tức là chư Phật.
-
Pháp không
không đến không đi. Pháp không là chư Phật.
-
Pháp vô
nhiễm không đên không đi. Pháp vô nhiễm là chư Phật.
-
Pháp tịch
diệt không đến không đi. Pháp tịch diệt là chư Phật.
-
Tánh hư
không không đến không đi. Tánh hư không là chư Phật.
-
Này Thiện
nam tử! Rời các pháp ấy không còn có Phật.
-
Chư Phật
như, các pháp như, một như không sai không khác.
-
Này Thiện
nam tử! Như ấy thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài
các pháp số, vì là vô sở hữu.
-
Ví như
tháng cuối xuân, giữa ngày lúc nắng nóng, có người thấy ánh
nắng dợn động bèn đổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghĩ sao.
Nước ấy từ ao nào núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu,
hoặc là chảy về biển đông, biển tây, biển nam, biển bắc ư?
-
Tát Ðà Ba
Luân thưa:
-
Thưa Ðại
sư! Trong ánh nắng còn khônog có nước, làm sao có được chỗ nước
đến nước đi!
-
Này Thiện
nam tử! Kkẻ ngu vô trí bị sự khát bức ngặt thấy nắng dợn bèn
tưởng là nước.
-
NÀy Thiện
nam tử! Nếu có người phân biệt chư Phật có đi, phải biết các
người ấy đều là ngu phu.
-
Tại sao
vậy?
-
NÀy Thiện
nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy sắc thân thấy được. Chư Phật
pháp thân không đên không đi, cũng không chỗ đến chỗ đi.
-
Này Thiện
nam tử! Thí như nhà ảo thuật, thuật ra các thứ như voi, ngựa,
bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao. Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến
đâu?
-
Thưa Ðại
sư! Ảo sự không thiệt làm sao có chỗ đến chỗ đi.
-
Này Thiện
nam tử! Người mà phân biệt đức Phật có đến có đi cũng như vậy.
-
Này Thiện
nam tử! Ví như chiêm bao thấy voi ngựa, bò dê, nam nữ. Ý ông
nghĩ sao. Cảnh vật được thấy trong chiêm bao có chỗ đến chỗ đi
chăng?
-
Thưa Ðại
sư! Cảnh vật được thấy trong chiêm bao đều là hư vọng, làm sao
lại có đến có đi.
-
Này Thiện
nam tử! Nếu người mà phân biệt đức Phật có đến có đi cũng như
vậy.
-
Này Thiện
nam tử! Ðức Phật nói các pháp chư chiêm bao. Nếu có chúng sanh
nào chẳng biết pháp nghĩa ấy, cho danh tự sắc thân là Phật,
người ấy phân biệt chư Phật có đến có đi.
-
Vì chẳng
biết tướng thiệt tế của các pháp, nên đều là hạng ngu phu vô
trí.
-
Các người
ấy mãi mãi qua lại trong năm đường, xa rời Bát-Nhã ba la mật, xa
rời các Phật pháp.
-
Này Thiện
nam tử! Ðức Phật nói các pháp như ảo như mộng. Nếu có chúng sanh
nào biết đúng thiệt, thì ingười ấy chẳng phân biệt các pháp,
hoặc đến hoặc đi, hoặc sanh hoặc diệt.
-
Nếu chẳng
phân biệt các pháp hoặc đến hoặc đi, hoặc sanh hoặc diệt, thì
có thể biết được thiệt tướng của các pháp mà đức Phật đã nói.
Người ấy hành Bát-Nhã ba la mật gần vô thượng bồ đề, gọi là
chơn Phật đệ tử, chẳng hư vọng ăn của tín thí. Người ấy đáng
nhận cúng dường. Là phước điền thế gian.
-
Này Thiện
nam tử! Ví như ở đại hải, những châu báu trong nước chẳng từ
phương đôn glại, chẳng từ phương nam lại, chẳng từ phương tâ
ylại, chẳng từ phương bắc lại, cũng chẳng từ bốn phương cạnh và
trên dưới lại. Vì do nơi căn lành của chúng sanh mà biển sanh
châu báu ấy. Châu báu ấy cũng chẳng phải không nhơn duyên mà
sanh. Châu báu ấy đều từ nhơn duyên hòa hiệp mà sanh. Châu báu
ấy nếu diệt mất, nó cũng chẳng đi đến mười phương. Các duyên hòa
hiệp thời có. Các duyên rời tan thì diệt.
-
Này Thiện
nam tử! Thân chư Phật cũng vậy, từ bổn nghiệp nhơn duyên quả báo
mà sanh. Lúc sanh chẳng từ mười phương đến, lúc diệt cũng chẳng
đi đến mười phương. Chỉ các duyên hiệp tihì có, các duyên rời
thì diệt.
-
Này Thiện
nam tử! Ví như đờn không hầu, lúc tiếng phát ra không chỗ đến,
lúc tiếng diệt không chỗ đi. Vì các duyên hòa hiệp nên có tiếng.
-
Có thùng,
có cổ, có da, có giây, có trụ, có cần, có người lấy tay khảy,
các duyên ấy hòa hiệp mà có âm thanh ấy. Âm thanh ấy cũng chẳng
từ thùng đờn nhẫn đến chẳng từ tay người phát ra. Các duyên hòa
hiệp bèn có âm thanh. Lúc các duyên ấy rời tan âm thanh cũng
không có chỗ đi.
-
Này Thiện
nam tử! Thân chư Phật cũng như vậy từ vô lượng công đức nhơn
duyên sanh, chẳng từ một nhơn một duyên, một công đức sanh, cũng
chẳng không nhơn duyên mà có. Vì các duyên hòa hiệp nên có. Thân
chư Phật chẳng riêng từ một sự mà thành. Ðến nkhông từ đâu, đi
không đến đâu.
-
Này Thiện
nam tử! Phải biết chư Phật tướng đến tướng đi như vậy.
-
Này Thiện
nam tử! Cũng phải biết tất cả pháp không có tướng đến đi.
-
Nệ1u ông
biết chư Phật và các pháp không có tướng đến đi, sanh diệt thì
tất là được vô thượng bồ đề, cũng hay hành Bát-Nhã ba la mật và
phương tiện lực.
-
Lúc ấy
Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn đem hoa trời mạn đà la trao cho Tát
Ðà Ba Luân Bồ-Tát mà nói rằng:
-
Ngài lấy
hoa này cúng dường Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát. Tôi phải thủ hộ cúng
dường ngài.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì do nơi
ngài mà hôm nay đem sự lợi ích đến cho trăm ngàn muôn ức chúng
sanh khiến họ được vô thượng bồ đề.
-
Này Ngài!
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ấy rất là khó gặp được. Vì lợi ích cho tất cả
chúng sanh, mà đại Bồ-Tát ấy chịu những sự nhọc nhằn khổ sở
trong vô lượng vô số kiếp.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát nhận thấy hoa Mạn đà la rải trên Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát
mà bạch rằng:
-
Thưa Ðại
sư! Từ ngày hôm nay, thân tôi thuộc về Ðại sư dùng cung cấp cúng
dường.
-
Lúc ấy
Trưởng giả nữ cùng năm trăm thị nữ thưa với Tát Ðà Ba Luân
Bồ-Tát rằng:
-
Từ hôm nay,
chúng tôi cũng đem thân thuộc về Ngài. Do căn lành nhơn duyên
này chúng tôi sẽ được pháp như vậy, cũng như Ngài đã được. Chúng
tôi cùng Ngài đời đời cúng dường chư Phật, đời đời thường cúng
dường ngài.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát bảo chúng nữ nhơn:
-
Các người
lấy tâm chí thành thuộc tôi, tôi sẽ nhận các người.
-
Chúng nữ
thưa:
-
Chúng tôi
lấy tâm chí thành thuộc về Ngài, tùy theo chỗ Ngài dạy bảo.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát cùng chúng nữ nhơn đem những đồ bửu vật trang nghiêm
cùng năm trăm cổ xe bảy báu dâng lên Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát mà bạch
rằng:
-
Tôi đem năm
trăm nữ nhơn này phụng cấp Ðại sư. Năm trăm cổ xe này tùy Ðại
sư dùng.
-
Thiên Ðế
thích liền khen rằng:
-
Lành thay!
Lành thay! Này Ngài! Ðại Bồ-Tát thí xả tất cả sở hữu phải như
vậy. Bố thí như vậy sẽ chóng được vô thượng bồ đề.
-
Cúng dường
người thuyết pháp như vậy ắt có thể được nghe Bát-Nhã ba la mật
và phương itện lực.
-
Chư Phật
quá khứ, thuở trước lúc hành Bồ-Tát đạo cũng an trụ trong sự bố
thí như vậy mà được nghe Bát-Nhã ba la mật và phương tiện lực
rồi được vô thượng bồ đề.
-
Lúc ấy Ðàm
Vô Kiệt Bồ-Tát muốn cho Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát được căn lành đầy
đủ nên thọ lấy năm trămcỗ xe, năm trăm thị nữ và Trưởng giả nữ
thọ lấy xong bèn đem cho lại Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát thuyết pháp cho đến khi mặt trời lặn, ngài rời khỏi pháp
tọa vào cung.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát nghĩ rằng: tôi vì pháp mà đến đây, vậy tôi chẳng nên
ngồi và nằm. Tôi phải dùng hai oai nghi: hoặc đi hoặc đứng để
chờ Pháp sư từ nội cung ra thuyết pháp.
-
Lúc ấy Ðàm
Vô Kiệt Bồ-Tát trọn bảy năm nhứt tâm nhập Vô lượng a tăng kỳ
Bồ-Tát tam muội, và hành Bát-Nhã ba la mật cùng phương tiện lực.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát cũng trọn bảy năm đi tu kinh hành hoặc đứng, chẳng
ngồi chẳng nằm không có ngủ nghỉ, không tham dục giận phiền,
lòng chẳng chấp luyến, chỉ niệm tưởng Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát bao giờ
xuất định ra thuyết pháp.
-
Quá bảy
năm, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát nghĩ rằng tôi phải vì Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát mà trần thiết pháp tọa để ngài sẽ ngồi trên đó thuyết
pháp. Tôi phải rưới quét sạch sẽ, rải các thứ hoa trang nghiêm
chỗ thuyết pháp, vì Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát sẽ thuyết Bát-Nhã ba la
mật và phương tiện lực.
-
Lúc ấy Tát
Ðà Ba Luân Bồ-Tát cùg Trưởng giả nữ cùng năm trăm thị nữ đặt
giường bảy báu. Năm trăm nữ nhơn đều cởi thượng y của mình trải
trên pháp tọa tâm niệm Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát sẽ ngồi trên pháp tọa
này thuyết Bát-Nhã ba la mật và phương tiện lực.
-
Sắp đặt
pháp tọa xong, tìm nước rưới đất mà tìm không được. Tại sao? Vì
ác ma che ngăn làm cho nước chẳng hiệp.
-
Ma nghĩ
rằng Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát tìm nước chẳng được, ở nơi vô thượng
bồ đề nếu mống khởi chừng một niệm kémkhác thì trí huệ chẳng
chiếu, căn lành chẳng thêm, se chậm trễ nơi Nhứt tiết trí.
-
Lúc ấy Tát
Ðà Ba Luân Bồ-Tát nghĩ rằng tôi phải tự đâm thân mình lấy máu
rưới đất để bụi khônog bay thấm dơ Ðại sư. Tôi còn cần gì thân
thể này, nnó sẽ hư hại. Từ vô thỉ đến nay, tôi luôn luôn mất
thân mạng chưa từng được có pháp.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát liền cầmdao bén tự đâm vào thân lấy máu rưới đất.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát với Trưởng giả nữ và năm trăm thị nữ đều không có
tâm niệm khác, ma cũng không có dịp hại được.
-
Thiên Ðế
Thích Ðề HoànNhơn nghĩ rằng: thiệt chưa từng có, Tát Ðà Ba Luân
Bồ-Tát mến yêu chánh pháp đến đỗi như vậy. Tự đâm thân mình lấy
máu rưới đất. Bồ-Tát ấy cùng chúng nữ nhơn tâm chẳng động
chuyển. Ác ma Ba Tuần chẳng phá được căn lành của họ. Tâm họ
kiên cố phát đại trang nghiêm chẳng tiếc thân mạng. Dùng thâm
tâm cầu vô thượng bồ đề. Sẽ độ tất cả chúng sanh khỏi vô lượng
khổ sanh tử.
-
Thiên Ðế
Thích khen ngợi Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát.
-
Thiện nam
tử! Ngài có sức tinh tiến kiên cố khó lay động chẳng nghĩ bàn
được. Ngài yêu mến chánh pháp cầu được chánh pháp rất là vô
thượng.
-
Này Thiện
nam tử! Chư Phật thuở quá khứ cũng như vậy. Dùng thâm tâm yêu
pháp tiếc pháp trọng pháp tập họp các công đức được vô thượng bồ
đề.
-
Tát Ðà Ba
Luân Bồ-Tát nghĩ rằng tôi đã vì ÐàmVô Kiệt Bồ-Tát trần thiết
pháp tọa quét rưới đất sạch sẽ rồi, tôi phải tìmở đâu để được
hoa đẹp thơm để trang nghiêm đất chỗ thuyết pháp này. Và lúc
Bồ-Tát ngồi trên pháp tọa thuyết pháp còn phải rải hoa cúng
dường.
-
Biết tâm
niệm Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát, Thiên Ðế Thích Ðề liền đem ba ngàn
thạch hoa trời mạn đà la trao cho Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát.
-
Ðược h oa
rồi, Tát Ðà Ba Luân dùng phân nửa số hoa rải đất, còn phân nửa
số hoa chờ lúc Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát ra ngồi thuyết pháp sẽ cúng
dường.
-
Lúc ấy Ðàm
Vô Kiệt Bồ-Tát nhập tam muội quá bảy năm rồi, từ tam muội dậy,
vì thuyết Bát-Nhã ba la mật nên cùng vô lượng trăm ngàn vạn
chúng cung kính vây quanh đến ngồi trên pháp tọa.
-
Lúc thấy
Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát lòng rất vui mừng như
tỳ kheo nhập đệ tam thiền, bèn cùng Trưởng giả nữ và năm trăm
thị nữ đến chỗ Ðàm Vô Kiệt Bồ-Tát rải hoa cúng dường, đầu mặt
đảnh lễ rồi ngồi qua một phía.
-
Ðàm Vô Kiệt
Bồ-Tát thấy đại chúng ngồi xong, bèn bảo Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát
rằng:
-
Này Thiện
nam tử! Lắng nghe và lãnh thọ kỹ. Nay tôi sẽ vì ông mà thuyết
tướng Bát-Nhã ba la mật.
-
Này Thiện
nam tử! Vì các pháp bình đẳng nên phải biết Bát-Nhã bala mật
cũng bình đẳng. Vì các pháp rời lìa nên phải biết Bát-Nhã ba la
mật cũng rời lìa. Vì các pháp bất động nên phải biết Bát-Nhã ba
la mật cũng bất động. Vì các pháp vô niệm nên phải biết Bát-Nhã
ba la mật cũng vô niệm. Vì các pháp vô úy nên phải biết Bát-Nhã
ba la mật cũng vô úy. Vì các pháp nhứt vị nên phải biết Bát-Nhã
ba la mật cũng nhứt vị. Vì các pháp vô biên nên phải biết
Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên. Vì các phápvô sanh nên phải
biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô sanh. Vì các pháp vô diệt nên
phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô diệt. Vì hư không vô biên
nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên. Vì nước đại hải vô
biên nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên. Vì núi Tu Di
trang nghiêm nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng trang nghiêm.
Vì hư không vô phân biệt nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô
phân biệt. Vì sắc vô biên nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng
vô biên. Vì thọ tưởng hành thức vô biên nên phải biết Bát-Nhã
ba la mật cũng vô biên. Vì địa chủng vô biên nên phải biết
Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên. Vì thủy chủng, hỏa chủng, phong
chủng vô biên nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô biên. Vì
không chủng vô biên nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô
biên. Vì như kim cang bình đẳng nên phải biết Bát-Nhã ba la mật
cũng bình đẳng. Vì các pháp vô phân biệt nên phải biết Bát-Nhã
ba la mật cũng vô phân biệt. Vì các tánh bất khả đắc nên phải
biết Bát-Nhã ba la mật cũng bất khả đắc. Vì các pháp vô sở hữu
bình đẳng nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô sở hữu bình
đẳng. Vì các pháp vô tác nên phải biết Bát-Nhã ba la mật cũng vô
tác. Vì các pháp bất khả tư nghị nên phải biết Bát-Nhã ba la mật
cũng bất tư nghị.
-
Liền lúc
ấy, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát tại chỗ ngồi được các tam muội. Những
là chư pháp đẳng tam muội, chư pháp ly tam muội, chư pháp vô úy
tam muội, chư pháp nhứt vị tam muội, chư pháp vô biên tam muội,
chư pháp vô sanh tam muội, pháp vô diệt tam muội, hư không vô
biên tam muội, đại hải thủy vô biên tam muội, Tu di sơn trang
nghiêm tam muội, hư không vô phân biệt tam muội, sắc vô biên
tam muội, thọ, tưởng, hành, thức vô biên tam muội, địa chủng vô
biên tam muội, thủy hỏa phong không chủng vô biên tam muội, nhu
kim cang đẳng tam muội, chư pháp vô phân biệt tam muội, chư pháp
bất khả tư nghị tam muội. Ðược sáu trăm vạn môn tam muội như
vậy.
-
Ðức Phật
bảo ngài Tu Bồ Ðề:
-
Như ta hôm
nay ở trong tam thiền Ðại Thiên thế giới cùng chư Tăng Tỳ Kheo
vây quanh lấy tướng ấy, lấy tướng mạo ấy, lấy danh tự ấy thuyết
Bát-Nhã ba la mật.
-
Tát Ðà Ba
Luân được sáu trăm muôn môn tam muội ấy thấy mười phương hằng
sa chư Phật ở trong Ðại Thiên thế giới cùng chư Tăng Tỳ Kheo
cung kính vây quanh lấy tướng như vậy, lấy tướng mạo như vậy,
lấy danh tự ấy thuyết đại Bát-Nhã ba la mật ấy cũng như vậy.
-
Từ thuở về
sau, Tát Ðà Ba Luân Bồ-Tát đa văn trí huệ chẳng nghĩ bàn được,
như nước đại hải thường chẳng rời chư Phật, sanh nơi nước có
Phật, nhẫn đến trong giấc mơ cũng có lúc nào chưa từng thấy
Phật, tất cả các nạn thảy đều đã dứt, tại cõi nước Phật tùy theo
nguyện sanh về.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Phải biết nhơn duyên Bát-Nhã ba la mật ấy có thể thành tựu
tất cả công đức đại Bồ-Tát được Nhứt thiết chủng trí.
-
Này Tu Bồ
Ðề! Vì thế nên chư đại Bồ-Tát nếu muốn học sáu ba la mật, muốn
thâm nhập chư Phật trí huệ, muốn được Nhứt thiết chủng trí thì
phải thọ trì Bát-Nhã ba la mật ấy, đọc tụng chánh ức niệm, rộng
vì người mà giảng thuyết, cũng biên chép quyển kinh, tôn trọng
tán thán cúng dường hương hoa nhẫn đến kỹ nhạc.
-
Tại sao
vậy?
-
Vì Bát-Nhã
ba la mật là mẹ của mười phương chư Phật quá khứ, vị lai, hiện
tại. Mười phương chư Phật đều tôn trọng Bát-Nhã ba la mật vậy.
-
- --o0o--
|
|