|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
LỜI VÀNG
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Trí Nghiêm
Tác Giả: Dương Tú Hạc
- --o0o--
- TIỂU SỬ
- H. T. Thích Trí
Nghiêm
-
-
Thân
Thế:
-
Hòa Thượng Thích Trí
Nghiêm thế danh là Phan Diệp, sinh ngày 9 tháng Giêng năm Tân
Hợi (1911) tại Thôn Chánh Lộc, Xã Xuân Lộc, Huyện Đồng Xuân,
(thuộc Huyện Sông Cầu ngày nay), Tỉnh Phú Yên. Thân phụ là Cụ
Ông Phan Châm. Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Tham. Ngài là người
con thứ hai trong gia đình có năm anh chị em. Gia đình Ngài là
một gia đình có truyền thống nhiều đời uy tín Tam Bảo.
-
Xuất gia
tu học:
-
Ngài húy là Tâm Bổn,
tự là Truyền Lai, hiệu là Trí Nghiêm dòng Lâm Tế đời thứ 43.
-
Năm 15 tuổi (1926)
xuất gia thọ giới với Ngài Vĩnh Hảo Đại Sư (cũng là cậu ruột của
Ngài) tại chùa Phước Long, Xã Xuân Lộc, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh
Phú Yên.
-
Năm 22 tuổi (1933),
Ngài thọ Đại Giới, tại Giới Đàn Chùa Bảo Sơn Phú Yên do Hòa
thượng Vạn Ân làm Đàn Đầu.
-
Năm 27 tuổi (1938)
Ngài được trúng tuyển vào tu học tại Phật Học Đường Bảo Quốc
Huế. Tại đây Ngài đã được sự truyền dạy của Hòa Thượng Thích Trí
Độ, một vị Đốc Giáo danh đức thời bấy giờ. Chính nơi đây đã đào
tạo nhiều vị Tăng tài lỗi lạc cho Phật Giáo nước nhà hiện nay.
Ngài đã tu học tại Phật Học Đường này 8 năm.
-
Đạo
Nghiệp :
-
- Năm 1944 (34 tuổi),
sau khi mãn học, Ngài đã bắt đầu công việc hoằng hóa bằng việc
lưu hành diễn giảng Giáo lý tại các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên…
-
Năm 1945 (35 tuổi),
Ngài trở về Phú Yên làm trụ trì chùa Thiên Tôn ở Tuy An 9 năm.
Trong thời gian này Ngài đã tham gia Phật Giáo Cứu Quốc thuộc
liên khu V.
-
Năm 1955 Ngài lại
tiếp tục công cuộc hoằng hóa, chuyên lo giảng dạy Phật Pháp tại
các Tỉnh Hội Phật Học : Phú Yên, Khánh Hòa. Lúc này Ngài được
coi là vị Giảng Sư kỳ cựu của Hội Phật Học Miền Trung.
-
Năm 1956, Ngài chủ
trương xây dựng Trường Bồ Đề Tuy Hòa và Cô nhi viện Phước Điền
Tuy Hòa, Phú Yên.
-
Năm 1957, theo thỉnh
cầu của Giáo Hội, Ngài ra giữ chức Hội Trưởng Hội Phật Học Thừa
Thiên Huế.
-
Năm 1960, Ngài vào
thường trú để lo Phật sự tại chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh Giáo -
Hội Phật Giáo Khánh Hòa Nha Trang hiện nay.
-
Năm 1964, Ngài là
thành viên của Hội Đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam thống nhất.
-
Năm 1966, Ngài giữ
chức Chánh Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất Khánh
Hòa - Nha Trang.
-
Năm 1968, Ngài là
Chứng Minh Đạo Sư của Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống
nhất Khánh Hòa - Nha Trang.
-
Năm 1968, Ngài là Đệ
nhị Tôn Chứng tại Đại Giới Đàn Hải Đức Nha Trang (lần 2).
-
Năm 1973, Ngài làm
Giáo Thọ tại Đại Giới Đàn Phước Huệ Phật Học Viện Hải Đức Nha
Trang.
-
Năm 1974, Ngài làm
giám luật Ban Quảng trị Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha
Trang.
-
Năm 1977, Ngài được
Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đệ nhị Tăng Thống GH. PG.
VN TN. tấn phong Hòa Thượng.
-
Năm 1980 - Dịch xong
bộ Đại Bát Nhã Kinh
-
1980 - đến nay tiếp
tục nghiên cứu và phiên dịch Kinh điển Đại Thừa tại tại Am Hoàng
Trúc - thành phố Nha Trang.
-
Từ năm 1981, Ngài là
Chứng minh Ðạo Sư của tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Khánh - Hòa Nha
Trang.
-
Năm 1993, Ngài làm
Đàn đầu Hòa thượng , Đại giới đàn Trí Thủ
(lần thứ1) tại Nha Trang,
Khánh Hòa
-
Năm 1996, Ngài làm
Đàn đầu Hòa thượng , Đại giới đàn Thiện Hòa , tại Đại Tòng Lâm,
Bà Rịa, Vũng Tàu.
-
Năm 1997, Ngài làm
Đàn đầu Hòa thượng , Đại giới đàn Trí Thủ
(lần thứ 2) tại Nha Trang,
Khánh Hòa.
-
Năm 2001, Ngài làm
Đàn đầu Hòa thượng , Đại giới đàn Trí Thủ
(lần thứ 3) tại Nha Trang,
Khánh Hòa
-
-
Phiên Dịch Kinh Luận:
-
Mặc dù bận nhiều Phật
sự về lãnh đạo và hoằng hóa, nhưng Ngài vẫn tinh tấn chăm lo
phiên dịch kinh luận để tiếp dẫn hậu lai.
-
1-
Kinh Lời Vàng : Nguyên danh
kinh là "Phật Giáo Thánh kinh", 1 quyển, do nữ cư sĩ Trung Hoa
là Dương Tú Hạc biên soạn. Bản kinh này đã được phổ biến ở đây:
-
http://www.quangduc.com/coban/44loivang.html
-
2-
Kinh Phổ Môn giảng lục : 1
quyển, do Bảo Tịnh Pháp Sư giảng (dịch năm 1969). Mời xem ở đây:
http://www.tuvienquangduc.net/Kinhdien/bn/lh00.html
-
3-
Kinh Pháp Hoa giảng lục : 1
bộ, 7 quyển, 2 tập, do Thái Hư Pháp Sư giảng (dịch năm 1969)
-
4-
Luận Thành Thật : 20 quyển,
do Ha Lê Bạt Ma Tát soạn.
-
5-
Kinh Đại Bát Nhã, 24 tập, 600 quyển, 5 triệu chữ
(5.000.000), do Huyền Trang Hán dịch. Khởi dịch từ năm 1973 đến
năm 1980 mới hoàn tất. Mời xem bộ kinh này ở đây:
-
http://www.tuvienquangduc.net/Kinhdien/bn/bn000.html
-
Bốn kinh luận đầu đã
in, riêng "Kinh Lời Vàng" và "Kinh Pháp Hoa - giảng lục" đã được
tái bản một hai lần, "
Kinh Đại Bát Nhã" (gồm 24 tập, mỗi tập khoảng 800
trang) đã in 2 lần, lần mới nhất là năm 1998 tại Sài gòn.
-
Ngoài ra, còn 10 bộ
kinh nhỏ chưa in.
-
Từ năm 1981, Ngài là
Chứng minh Đạo Sư của tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Khánh - Hòa Nha
Trang.
-
Sau một thời gian
bệnh nặng, mặc dù đã được hàng đệ tử, các giáo sư bác sĩ và y
sĩ bệnh viện Thành phố Nha Trang tận tình chăm sóc chữa trị.
Nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài không vượt qua khỏi, Ngài đã
an tường xả báo thân lúc 2 giờ sáng ngày 13 tháng 01 năm
2003 ( nhằm ngày 11 tháng chạp năm Nhâm Ngọ) thọ thế 93 tuổi, 70
tuổi đạo.
-
Suốt cuộc đời, từ khi
xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Ngài đã nỗ lực không
ngừng trong công việc xiễn dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một
tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng
ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa
nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là
ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử hậu lai.
-
Melbourne, tháng 01-
2003
-
Tỳ
Kheo Thích Nguyên Tạng,
lược
ghi
-
- --o0o--
|
|