|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
LỜI VÀNG
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Trí Nghiêm
Tác Giả: Dương Tú Hạc
- --o0o--
- PHẦN II
-
NGÔN HÀNH
-
- CHƯƠNG II
-
TỰ
LỢI
-
A. CHẾ TÂM
-
Đức Phật dạy: Người thường bị mắt
dối gạt, bị tai dối gạt, bị mũi dối gạt, bị miệng dối gạt, và bị thân dối
gạt.
-
Kinh A Hàm Chánh Hạnh
-
-
Nếu chuyên niệm phân biệt kỹ sáu
căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; cùng sáu cảnh trần là sắc, thanh,
hương, vị xúc, và pháp thì quyết chẳng đọa vào ác đạo.
- Mắt
xem sắc hoặc tốt hay xấu, thấy tốt thì ưa, xấu thì ghét. Tai nghe tiếng, hoặc
hay hay dở, nghe hay là ưa, dở là ghét. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như thế.
-
Ví như sáu loại thú tánh tình chẳng
giống nhau; nếu có người bắt các con: chó, chồn, khỉ, lươn, rắn và chim, lấy
giây trói chùm, lại để một chỗ, rồi thả nó ra. Bấy giờ trong ý mỗi con muốn
chạy mỗi nơi: Chó muốn chạy rong trong làng xóm; khỉ muốn chạy lên núi chuyền
cây trên rừng, chồn muốn chạy vào hang trong những ngôi mả xưa; lươn muốn bò
xuống nước; rắn muốn bò vào hang; và chim muốn bay giữa trời hư không. Vì sáu
con tánh hạnh khác nhau nên ý muốn chẳng đồng.
-
Lại có người cũng bắt sáu con này
trói chùm để nằm chung một chỗ, chẳng cho bay chạy đi đâu cả, khi ấy mặc cho
chúng cựa quậy dãy dụa, nhưng chẳng xa lìa chỗ nằm.
-
Sáu tình thức của người cũng giống
như thế; nó đều có chỗ sở thủ riêng nên công dụng chẳng đồng, chỗ nhận thấy có
khác, có tốt có xấu. Khi ấy các Tỳ kheo trói buộc sáu tình thức để chung một
nơi. Vậy nên các Tỳ kheo phải tinh tấn tu niệm chẳng cho tâm ý rối loạn. Bấy
giờ tệ ma ba tuần có muốn quấy rối cũng chẳng làm gì được. Do đó các công đức
lành thảy đều trọn nên.
-
Kinh Tăng Nhất A Hàm
-
-
Ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế,
có một người Đạo nhơn, ở gốc cây bên sông học đạo trong khoảng 12 năm ròng mà
chẳng trừ được lòng tham dục; tâm ý thường chạy tán loạn, cứ nhớ năm món dục,
liền suy nghĩ muốn được mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, miệng
nếm vị, thân cọ xát và ý duyên pháp. Hễ thân động là ý chạy, không có chút yên
nghỉ.
-
Khi ấy đức Phật quán biết kẻ Đạo
nhơn kia đã đến lúc độ được, nên Ngài liền đi đến nơi gốc cây nọ cùng với ông
ta ngủ lại một đêm. Trong giây lát có con rùa từ dưới sông bò lên đi đến gần
cây, lát sau lại có con chó nước đói đang đi kiếm ăn, may gặp rùa liền muốn ăn
thịt. Rùa liền thụt đầu, đuôi và bốn chân giấu kín trong mai, chó nước không
thể hại được. Chó bỏ đi xa xa, rùa ta ló đầu, chân thong thả bò đi. Thế là chó
nước chẳng làm gì được, rùa được thoát nạn.
- Khi
ấy Đạo nhơn thấy vậy mới hỏi Phật rằng: có phải con rùa nó nhờ có mai hộ mạng
nên chó nước chẳng ăn được không?
-
Phật đáp: Phải. Ngài tiếp: Ta nghĩ
người đời chẳng bằng rùa nầy. Họ chẳng biết vô thường buông lung sáu tình nên
bị ngoại ma làm hại. Khi mà thân hình này hư hoại, thần thức xa lìa, sanh tử
không ngằn, trôi lăn năm đạo, khổ não trăm ngàn; ấy đâu chẳng phải đều bởi tâm
ý gây nên. Cho nên tự phải cố gắng siêng năng cầu an vui diệt độ. Nhơn đó Phật
liền nói kệ tóm tắt:
-
Giấu căn như rùa, phòng ý như
thành, chiến với ma dữ, không lo bại trận.
-
Kinh Pháp Cú
-
-
Năm căn tâm làm chủ. Nên các ngươi
phải khéo ngăn ngừa; tâm là đáng sợ hơn hết, sợ hơn rắn độc, ác thú, giặc cướp
và lửa dữ.
-
Đức Phật dạy: Này các Tỳ kheo! Đã
được an trụ giới pháp, phải ngăn ngừa năm căn, chớ cho buông lung vào nơi ngũ
dục. Ví như người chăn trâu cầm gậy chăn giữ chẳng cho buông lung ăn hại mạ
người; nếu thả năm căn chẳng những chỉ năm dục không bờ mé khôn ngăn. Cũng như
ngựa dữ; chẳng dùng giây cương, nó sẽ lôi người sa vào hầm hố. Lại như bị cướp
hại, khổ chỉ một đời, giặc hại năm căn, khổ lụy nhiều kiếp, bị hại rất nặng lẽ
nào chẳng cẩn thận lắm thay. Vậy nên người trí ngăn mà chẳng theo, giữ như giữ
giặc chẳng cho chạy rong. Nếu sẩy chạy rong trong chừng giây lát liền thấy tai
hại. Trong năm căn này, tâm làm chủ, vậy nên các ngươi phải khéo chế phục.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Đức Phật bảo các Sa môn rằng: cẩn
thận chớ vội tin ý người, ý thức quyết chẳng khá tin.
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
-
Động tác của thân đều do tâm mà
khởi, cho nên trước phải điều khiển tâm, chớ khổ lo nơi thân, vì thân không
tri giác như cây đá, tại sao cứ theo tâm mà làm khổ thân?
-
Kinh Phật Bổn Hạnh
-
-
Người nào tâm buông lung sau không
khỏi ăn năn, tội lỗi tâm buông lung, nặng hơn núi Tu di.
-
Kinh Nhẫn Nhục
-
-
Cất trăm ngôi chùa Phật, chẳng bằng
cứu sống một người, cứu sống người khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một
ngày tu tâm.
-
Kinh Ma Ý
-
-
Thà tự mổ bụng, chẻ xương, quyết
chẳng theo tâm làm ác. Duy có lực sĩ mới chẳng bị nhiều sức mạnh khác. Ai tự
mình tu tâm được, thì hơn kẻ lực sĩ kia. Phật phấn đấu với tâm đã bao kiếp
nhiều không kể xiết, chẳng dám theo tâm, đem hết sức mạnh tu hạnh tinh tấn mà
tự thành Phật vậy.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Phải tự quyết đoán, thẳng thân
chánh hạnh, làm nhiều điều lành, tu mình sạch thân, rửa trừ lòng nhơ, nói, làm
trung tín, trong ngoài hợp nhau, khéo hay tự độ, rồi mới cứu người, siêng năng
sáng suốt cầu nguyện, chứa nhiều căn lành.
-
Kinh Vô Lượng Thọ
-
-
Ngươi chánh mắt, ngươi chánh tai,
ngươi chánh mũi, ngươi chánh miệng, ngươi chánh thân và ngươi chánh ý.
-
Kinh Chánh Hạnh
-
-
Phật dạy: Các ngươi Tỳ kheo, tâm
dua vậy, với Đạo trái nghịch, vậy nên phải dùng tâm ngay thẳng. Phải biết tâm
dua vậy chỉ để dối gạt. Người vào Đạo thời không làm vậy. Vậy nên các người
hãy dùng tâm đoan chánh ngay thẳng làm gốc.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Ví như quân ra trận, đông hàng trăm
vạn nhờ các vị danh tướng mà thắng địch; kẻ Đạo nhơn uốn dẹp tâm ý, phụng Đạo
tu pháp, thuận tu giới cấm, thân ý trong sạch, thi ân bố đức, trừ bỏ giận dữ,
kiêu xa, tranh cãi, chuyên tinh tu Đạo, giống như những vị danh tướng điều
khiển binh cơ.
-
Kinh Tứ Tự Xâm
-
-
Một lòng ngăn ý, vững thân chánh
hành, siêng làm việc lành, chẳng bị điều ác, siêng mình độ thoát, được nhiều
phước đức.
-
Kinh Vô Lượng Thọ
-
-
Ngồi giữa đám đông, chẳng hổ với
người, được nhiều người trọng kính là nhờ tâm mình trong sạch ngay thẳng vậy.
-
Kinh Chánh Hạnh
-
-
Thí dụ một người có bốn bà vợ; bà
thứ nhứt được chồng mến yêu, đi đứng nằm ngồi làm lụng nghỉ ngơi không hề rời
nhau; ăn uống, đồ mặc thường được chồng sắm sửa cho trước hết; lạnh nóng đói
khát, xem sóc tùy thời, chìu theo ý muốn của vợ, chưa bao giờ cùng nhau cãi
miệng.
-
Người vợ thứ hai, đi ngồi nói năng,
thường ở hai bên tả hữu, chồng gặp thì vui, xa chút thì buồn.
-
Bà vợ thứ ba, thỉnh thỏang gặp
nhau, khốn đốn cùng cực mới nghĩ đến nhau.
-
Người vợ thứ tư, bị chồng sai sử phục vụ có việc thì đến, mà chưa từng săn sóc
giúp đỡ, thường hay bỏ qua.
-
Đến khi người chồng sắp chết, kêu
vợ thứ nhất bảo: ngươi phải đi theo ta đi? Vợ trả lời: tôi không thể đi theo
anh được. Chồng nói: ta rất yêu mến ngươi thường chịu thuận theo ý muốn của
ngươi, tại sao chẳng đi theo ta? Vợ nói: anh tuy có lòng yêu mến tôi thật,
nhưng tôi không thể nào đi theo anh được mà.
-
Chồng liền kêu bà thứ hai bảo: mình
đi theo tôi đi? Vợ đáp: Anh yêu mến chị cả sao không bắt chị ấy đi theo anh,
tôi đâu có đi theo anh được. Chồng buộc: ta ngày trước tìm ngươi khổ thật
không thể tả: chịu lạnh, chịu nóng, chịu đói khát… nay sao chẳng chịu đi theo
ta? Bà ta nói: bởi lòng anh tham dục mới cố gắng tìm cầu đến tôi, chớ tôi đâu
có cần anh, nay anh sao lại đem việc gian khổ mà bảo với tôi?
-
Anh chồng lại kêu vợ thứ ba mà
rằng: mình nên đi theo tôi đi. Vợ nói: tôi đã chịu ơn huệ của anh, nay anh đến
phút cuối cùng… tôi xin tiễn đưa anh đến ngoài thành mà thôi, chớ chắc không
thể đi xa hơn đến chỗ anh ở được.
-
Sau cùng chàng kêu vợ thứ tư nói:
thôi mình đi theo ta đi. Chị trả lời: tôi đã xa lìa cha mẹ tôi đến đây hầu hạ
anh, để anh sai khiến… thì việc chết, sống, khổ vui phải có mặt với nhau. Giờ
đây tôi xin theo anh đi cho đến chỗ.
-
Ba người trước là những người thích
hợp với ý chồng, mà không thể đi theo được; duy người thứ tư khổ cực, xấu xí
chẳng hợp ý chồng lại chịu đi theo.
-
Đức Phật nói: bốn thí dụ trên, vợ
thứ nhất dụ cho thân người. Người đời ưa mến xác thân hơn con vợ cả, nhưng đến
khi chết nó nằm trơ nơi đất, chẳng chịu đi theo. Vợ thứ hai dụ cho của cải.
Khi được thì vui chẳng được thì buồn, đến khi chết của cải hoàn lại cho đời,
nào có chịu đi theo. Vợ thứ ba là dụ cho cha mẹ, vợ con anh em, bạn bè và tôi
tớ. Lúc sanh thời lấy ân nghĩa, tình ái cùng nhau tưởng mến, đến khi chết, họ
chỉ khóc lóc sa lệ tiễn đưa tới ngoài thành, nghĩa địa là cùng. Rồi từ giã
người chết, ai về nhà nấy; thương nhớ có lâu lắm cũng không quá mười ngày, rồi
nhóm nhau ăn uống quên mất người chết.
-
Vợ thứ tư dụ cho chính là tâm ý của
con người. Trong thiên hạ ai mà không có tự ái bảo thủ ý mình: buông tâm thả
ý, tham dục, giận dữ, chẳng tin chánh đạo. Đến khi chết, chỉ có tâm ý chịu đi
theo, để phải đọa vào ác đạo. Cho nên phải tự mình thẳng tâm chánh ý.
-
Kinh A Hàm
-
-
Tâm ý vốn sạch, bị lỗi làm dơ, lấy
nước trí huệ rửa trừ tâm dơ.
-
Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn
-
-
Người rèn sắt bỏ sét làm thành món
đồ, đồ ấy được tinh xảo. Người ưa học Đạo, bỏ tâm nhơ bẩn, hạnh liền trong
sạch.
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
-
Ai do tâm sanh, trở lại hại tâm;
sắt hay sanh sét, sét lại tiêu sắt.
-
Kinh Bột
-
-
Như người chầm chậm thong thả tinh
tiến, rửa trừ tâm dơ, như thợ luyện vàng; ác do tâm sanh, lại hại tự thân, như
sắt sanh sét trở lại ăn sắt.
-
Kinh Pháp Cú
-
-
Nước Ba Tư Nại có một cư sĩ tên là
Cúc Đề, sanh hạ một trai tên là Ưu Bà Cúc Đề. Khi đã trưởng thành, vì nhà
nghèo nên làm nghề nấu nướng. Người cha cho của cải khiến mở tiệm buôn bán.
Bấy giờ có ngài La Hán tên Đa Thế Bệ, đến nhà thuyết pháp giáo hóa, dạy tu
phép kể niệm: lấy một mớ đá đen, trắng làm cái bàn toán. Hễ nghĩ một niệm lành
thì hạ xuống một hòn đá trắng, mà khởi một niệm ác thì hạ xuống một hòn đá
đen.
-
Ưu Bà Cúc Đề vâng theo lời dạy. Tùy
niệm thiện, ác chính lúc khởi lên, liền hạ xuống một hòn đá trắng hoặc đen.
Ban đầu đen nhiều hơn, trắng rất ít; dần dần tụ tập, đen trắng ngang nhau. Rồi
chăm tu chẳng gián đoạn thì hẳn không có hòn đen nào cả, mà chỉ toàn hòn
trắng. Khi ấy niệm thiện đã thắng hẳn liền chứng được Sơ quả.
-
Kinh Hiền Ngu
-
-
Người hàng phục ý mình không nổi,
lại muốn hàng phục ý người khác. Phải hàng phục ý mình trước đã, mới có thể
hàng phục được ý người.
-
Kinh Tam Huệ
-
-
Người trí lấy huệ luyện tâm, tìm
xét các lỗi, như kim khí còn quặng luyện vài trăm lần mới thành vàng ròng;
cũng như biển cả ngày đêm sôi động mới có ngọc báu. Người cũng như vậy, tu tâm
đêm ngày chẳng dứt, mới chứng được đạo quả.
-
Kinh Xuất Diệu
-
-
B. THẬT NGỮ
-
Phật dạy: các đệ tử! Các ngươi nên
bỏ những lời vô nghĩa, thường tự giữ gìn lời nói; nói phải biết thời, nói phải
thuận pháp. Những lời nói ngoài việc lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng
không nên nói.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Những người thế gian, khi còn sống,
lưỡi tự nhiên sanh ra cái búa sắt nghĩa là cái miệng nói những lời độc ác, rồi
quay lại hại thân mình.
-
Kinh Khởi Thế Nhơn Bổn
-
-
Chẳng đạng nói dối bằng chứng cho
người, khiến họ phạm pháp; chẳng đặng truyền nói lời dữ, khiến họ cùng nhau
cãi cọ tranh giành; chẳng đặng nói lời làm hại ý người; đừng chẳng nghe nói
nghe, chẳng thấy nói thấy.
-
Kinh A Hàm Chánh Hạnh
-
-
Ngày xưa có con ba ba gặp phải thời
nắng khô, nước các ao hồ cạn hết, tự mình không thể đi đến những ao còn nước
được. Bấy giờ có con hạc rất to bay đậu gần bên, ba ba liền lại cầu xin nhờ
hạc cứu giúp cho. Hạc dùng mỏ kẹp ba ba, tha bay đi. Bay qua nơi thị trấn, xóm
làng, ba ba chẳng biết hỏi rằng: đây là chỗ gì sao chẳng đậu lại đây? Hạc muốn
trả lời mới hả mỏ ba ba rớt xuống đất; bị người bắt ăn thịt. Những người ngu
dại chẳng cẩn thận nơi miệng lưỡi cũng như thế.
-
Kinh Cựu Tạp Thí Dụ
-
-
Lời nói thiệt, chẳng cần bố thí trì
giới hay học vấn đa văn gì cả mà chỉ tu thiệt ngữ vẫn được phước không lường.
-
Luận Trí Độ
-
-
Thiệt ngữ Đồng tử hỏi Phật rằng:
thiệt là gì? Phật đáp: thiệt có ba là chẳng dối Phật, chẳng dối mình và chẳng
dối chúng sanh. Lại hỏi: nói thế nào là thiệt? Phật đáp: chẳng nói nhiểu, giữ
gìn lời nói và chẳng nên nói lời thô, ấy là thật ngữ.
-
Kinh Đại Tập
-
-
Nói phô những lời giả dối, làm não
hại tất cả chúng sanh; kẻ ấy thường như bị giam trong tối tăm, tuy còn sống mà
đồng như người chết.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
Các đệ tử! Các ngươi nên bỏ lời nói
dối, thường nói lời chơn thiệt, lời chắc chắn, dù là trong mộng cũng chẳng nên
nói dối.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Vọng ngữ có 10 tội:
-
Hơi miệng thúi hôi
-
Các vị thiện thần tránh xa, ác quỷ
dễ làm hại
-
Dù có nói thiệt, người chẳng chịu
tin
-
Kẻ trí dư luận, thường chẳng tham
dự
-
Thường bị chê bai, tiếng tăm xấu xa
đồn khắp thiên hạ
-
Người chẳng kính trọng, khi có việc
sai khiến họ chẳng vâng theo
-
Thường lắm lo buồn
-
Trồng nghiệp nhơn chê bai
-
Thân hư mạng chết, phải đọa địa
ngục
-
Nếu được sanh làm người, thường bị
chê bai
-
Luận Trí Độ
-
-
Bỏ vọng ngữ, được người đời hoặc
thấy hoặc nghe thảy đều tin kính; dù phải nghèo cùng không của cải cũng được
tất cả người đời cúng dường như vua. Trong tất cả loài người, người thật ngữ
là ánh sáng rực rỡ; giống như ánh sánh mặt trăng rực rỡ hơn các vì sao; trong
các thứ ngọc, ngọc thiệt ngữ là quý hơn hết; trong tất cả thuyền để độ qua
giòng sanh tử, chiếc thuyền thiệt ngữ là hơn hết; muốn xa lìa các hạnh tà ác,
xa lìa vọng ngữ là hơn hết; trong các thứ đèn, đèn thiệt ngữ là sáng hơn hết;
những kẻ giỏi dẫn đường đi trong ác đạo, kẻ dẫn đường thiệt ngữ là giỏi hơn
hết; tất cả vật thọ dụng trong đời, vật thiệt ngữ là hơn hết; hết thảy các món
thuốc trị bịnh, món thuốc thiệt ngữ là hay hơn hết; trong tất cả các thế lực
mạnh mẽ, thế lực thiệt ngữ là mạnh hơn hết; trong các nơi nương về, nương về
thiệt ngữ là hơn hết; tất cả bạn tri thức, bạn thiệt ngữ là hơn hết.
-
Nếu mọi người biết thu lấy của
thiệt ngữ thì trong thế gian không ai đọa vào cảnh nghèo nàn và tàn ác, được
sanh ngang với các bậc trời.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
Đức Phật bảo A Nan: Người sanh thế
gian, tai họa sanh từ miệng, nên phải giữ miệng lắm hơn đề phòng lửa dữ; lửa
dữ đốt cháy của thế gian, miệng dữ đốt cháy của bảy bậc thánh. Tất cả chúng
sanh họa từ miệng sanh ra, nên biết miệng là dao búa giết thân vậy.
-
Kinh Báo Ân
-
-
Nói ác, mắng chửi, kiêu mạn khinh
người. Các điều ác ấy khởi ra là ganh ghét oán hận sanh ngay. Nói lời khiêm
tốn, tôn kính người, bỏ oán, nhẫn ác, là ganh ghét, oán hận tự dứt. Là người
sanh ở đời, búa tại trong miệng, sở dĩ giết thân do lời nói dữ.
-
Khen kẻ ác, được kẻ ác khen lại,
hai bên đều là ác. Ưa dùng miệng đấu nhau, về sau đôi bên đều không yên.
- Nên
đừng nói lời cộc cằn, nói phải sợ quả báo, đưa lời ác đi, tai họa trả lại, dao
gậy đến thân. Thốt ra lời nói lành, như đánh chuông khánh, thân không nghị
luận, suốt đời an vui.
-
Kinh Pháp Cú
-
-
Ưa miệng dữ, hai lưỡi, để moi móc
lỗi của người. Người bất thiện như vậy, không việc ác nào mà họ không làm.
-
Kinh Hoa Thủ
-
-
Phật dạy: bỏ hai lưỡi, không có ác
tâm phá hoại, khiến cho những người tranh đấu ly tán, được hòa hiệp lại. Và bỏ
lời nói ác khẩu thô bạo cộc cằn biết nó là hại mình hại người nên xa lìa.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Lằm lời nhiều lẽ thì người ta sợ
tránh, lời hai lưỡi đâm thọc là thứ nhất. Người nào bỏ nói hai lưỡi, người ấy
đời nầy hưởng được quả báo tốt, bè bạn, bà con, anh em, vợ con và tôi tớ thảy
đều gần gũi thuận hòa, vững vàng chắc chắn không ai phá hoại được.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
C. NHẪN THỌ
-
Bồ tát nhẫn chịu tất cả điều ác.
Với chúng sanh, tâm bình đẳng, chẳng lay động như chốn đại địa.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Nếu lấy tranh đấu để ngăn tranh đấu
chắc chắn không thể ngăn được, duy có nhẫn nhục mới có thể ngăn được. Đó là
phương pháp thật cao cả.
-
Kinh Trung A Hàm
-
-
Như có người bạo ác, với việc phi
lý, mà cứ phỉ báng nhau mãi. Có người trí lấy lời chân thật an ủi nhẫn chịu
mới có thể trừ được.
-
Kinh Chư Pháp Tập Yếu
-
-
Sanh Văn phạm chí đến xin thưa Phật
rằng: đệ tử của Ngài với đệ tử của kẻ khác có điểm nào đặc biệt không? Và có
công đức chi hơn?
-
Đức Phật đáp: có. Hai hạng đệ tử
xuất gia và tại gia của Ta có những điểm đặc biệt: kinh đoanh việc gì nếu thất
bại, họ vẫn không buồn rầu khóc lóc, cũng chẳng phát điên cuồng. Hay họ bị
những điều đói khát lạnh nóng, mưa gió, ép bức, hoặc bị roi gậy đánh dập, hay
bị mắng nhiếc độc ác, họ cũng có thể nhẫn nại được cả, ấy là những điều mà kẻ
khác không thể chịu được vậy. Đệ tử của Ta có những công đức như vậy đó. Ông
Phạm Chí nghe rồi xin thọ giáo liền quy y Tam bảo thành kẻ Ưu bà tắc.
-
Kinh Tạp A Hàm
-
-
Đức Thế Tôn dạy: thà lấy gươm bén
mổ bụng, lột da, hay gieo mình vào lửa, quyết không làm ác; thà đầu đội núi Tu
di chịu để cho tan thân, hoặc nhảy xuống biển cả cho các trạnh nuốt thây, cẩn
thận đừng làm ác.
-
Kinh Nhẫn Nhục
-
-
Tuy nghe nhiều tiếng xấu, người tu
khổ hạnh phải nhẫn nhục, chẳng nên tự nói khổ, cũng chẳng nên sanh lòng buồn.
Nghe tiếng xấu mà sợ hãi, đấy là loại thú rừng núi, là chúng sanh tánh tình
vội vã, chẳng thành pháp xuất gia. Người tu hành phải đủ sức nhẫn nhục tiếng
xấu ba bực: thượng, trung, hạ để vững tâm an trụ. A? là pháp xuất gia vậy.
-
Do một lời nói của kẻ khác, không
thể khiến ngươi thành đứa giặc cướp và cũng do lời nói của họ không thể khiến
ngươi chứng A la hán. Như ngươi tự biết mình thời chư thiên cũng biết ngươi
vậy.
-
Kinh Tỳ Kheo Tị Nữ Nhơn Ố Danh
-
-
Bồ tát bị mắng nhiếc lâu trăm ngàn
kiếp, chẳng sanh lòng giận dữ, hay được khen ngợi trăm ngàn đời cũng chẳng
đặng sanh tâm vui mừng. Ấy là vì đã liễu đạt lời nói người đời là lẽ sinh diệt
của tiếng tăm như chiêm bao, như tiếng vang.
-
Luận Trí Độ
-
-
Do quán năm nghĩa để dứt lòng giận
dữ:
-
Quán tất cả chúng sanh từ nhiều
kiếp đến nay, đối với ta đã có ân huệ
-
Quán tất cả chúng sanh thường tiêu
diệt từng mỗi niệm
-
Quán có pháp mà không có chúng sanh
thì đâu có năng tổn và sở tổn
-
Quán tất cả chúng sanh đều đã chịu
khổ, sao lại làm cho khổ thêm
-
Quán tất cả chúng sanh là con mình,
làm sao sanh tâm tổn hại được
-
Luận Nhiếp Đại Thừa
-
-
Đứa dữ nghe người lành, cố tâm đến
phá rối, ngươi tự phải cấm dứt, chớ giận trách làm chi; nó đến phá rối mình,
là nó tự chuốc lấy dữ.
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
- Kẻ
Sa môn tu hành, lấy nhẫn làm đầu; phải như nước trong, không chút nhơ bẩn.
Nước đối với thây người chết, chó chết, rắn chết, và đồ đại tiểu tiện đều rửa
tẩy, nhưng nước vẫn trong sạch. Cần phải trì tâm như cầm chổi quét đất, quét
sạch chỗ dơ; chổi đối với thây người chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu
tiện thảy đều quét sạch, nhưng chổi chẳng hư hao, cũng như sức mạnh và ánh
sáng của gió, lửa đối với thây chết, chó chết, rắn chết và đồ đại tiểu tiện
đều thổi bay, đốt cháy. Nhưng sức mạnh và ánh sáng của gió, lửa vẫn chẳng hao
mòn.
-
Nếu người muốn đến giết mình, mắng
mình, mình cũng chẳng nên giận; hay đến khen mình hoặc cười mĩa mình, mình
chẳng nên giận; hoặc họ đến phá mình chẳng cho phụng sự Phật pháp, cũng chẳng
nên giận dữ. Cần phải từ tâm chánh ý thì tội diệt phước sanh.
-
Kinh Tiên Ý
-
-
Nhẫn có 10 điều:
-
Quán cái ta và tướng mạo của ta
-
Quán nghĩ chủng tánh
-
Phá từ kiêu mạn
-
Ai đến chẳng trả thù
-
Quán tướng vô thường
-
Tu từ bi
-
Tâm chẳng buông lung
-
Bỏ các việc đói khát khổ vui
-
Dứt trừ giận dữ
-
Tu tập trí huệ
-
Nếu người nào có thể hoàn thành
được 10 sự kiện này, phải biết người ấy đã tu được hạnh nhẫn nhục.
-
Kinh Bảo Tích
-
-
Ngài Thiện Thuận Tỳ kheo từ nước Xá
Vệ khởi hành, vì muốn các chúng sanh được lễ Phật nghe pháp, nên Ngài đem một
số đông người cùng đi đến chỗ Phật.
-
Bấy giờ vua nước ấy nghi Tỳ kheo
nầy chắc có mưu mô muốn chiếm đoạt ngôi vua hay là cõi ngưới gì đây? Vua sai
bốn người lực sĩ chận đường Tỳ kheo rồi mắng chửi đủ thứ và đánh đập nữa.
Nhưng Ngài thản nhiên chẳng giận dữ gì cả. Khi ấy vua lại thay bốn lực sĩ khác
đến khuyên bảo Tỳ kheo rằng: "Sao Ngài chẳng trả thù bọn người đánh mắng kia?
Nếu Ngài ra tay thì chúng tôi giúp sức." Ngài vẫn thản nhiên chẳng nghe lời.
-
Bầy giờ vua lại lập kế khác đưa
vàng bạc và của báu cho bốn người ấy và đến bảo Ngài rằng: "Ngươi sẵn có
phương tiện đông người sao chẳng cướp lấy của cải bọn kia? Ngươi thi hành đi,
lỡ xảy ra điều gì trẩm sẽ giúp sức." Tỳ kheo lúc lắc đầu tâu: Tôi tuy nghèo
cùng không thể tự sống, nhưng những của "chẳng cho" thì quyết chẳng lấy. Vua
nghe Ngài nói lời ấy cảm mến bãi mưu.
-
Kinh Bảo Tích
-
-
Bồ tát thường hay tu pháp nhẫn
nhục, khiêm nhường, cung kính, vui vẻ, chẳng hại mình hại người, chẳng tự cao,
chẳng tâng bốc người, chẳng khen ngợi mình, chẳng khen ngợi người. Bồ tát chỉ
nghĩ như vậy: "Ta phải thường thuyết pháp để xa lìa tất cả ác, dứt hẳn tâm
tham; sân, si, kiêu mạn, tán loạn, bũn xĩn, ganh tị, dua nịnh. Chỉ biết lấy
pháp đại nhẫn nhục mà an lập."
-
Bồ tát vì muốn thành tựu pháp thanh
tịnh nhẫn nhục dù có chúng sanh thốt ra những lời độc ác mắng chửi, khinh uế
và tay cầm dao gậy đánh đập hủy hại. Bồ tát chẳng sanh lòng giận dữ. Nên nghĩ
như vầy: "Nếu Ta vì khổ này mà sanh lòng giận dữ chẳng tự điều phục, chẳng gìn
giữ, chẳng hiểu rõ, chẳng yên lặng và chẳng chơn thật thì làm sao khởi tâm vui
mừng đặng mà giải thoát được."
-
Người nào quan sát được như vậy gọi
là Bồ tát tu hạnh không giận dữ.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Không hủy nhục tất cả chúng sanh,
gọi là nhẫn nhục rốt ráo; tự thân bị thương tổn cũng chẳng sân, gọi là gần gũi
rốt ráo; nói pháp khiến phát tâm Bồ đề, gọi là chơn thật rốt ráo. Trọn nên
được cả ba món này thì gọi là trọn nên hạnh nhẫn nhục rốt ráo vậy.
-
Kinh Bát Nhã
-
-
Sau khi đức Như Lai nhập diệt, nếu
có người hủy báng Phật, Pháp, Tăng các người chẳng nên giận dữ lo rầu, mà nên
nghĩ thế này: "Nếu ta sanh lòng giận dữ thì chẳng phải sa môn." Chẳng phải
hạnh sa môn là chẳng tùy thuận đạo pháp vậy.
-
Kinh Hoa Thủ
-
-
Tự mình ngăn giận, như ngừng xe
chạy, là người lái giỏi bỏ tối vào sáng.
-
Giận dữ chẳng thấy pháp, giận dữ
chẳng biết đạo; nếu hay trừ giận dữ, phước lành thường thuận thân.
-
Kinh Pháp Cú
-
-
Nhẫn, hay sanh việc hòa bình giữa
mình và người; nghĩa là tự mình chẳng bị tội lỗi do giận dữ làm ô nhiểm tức là
mình hoà bình; đã không ôm lòng hờn giận, chẳng làm khổ kẻ khác tức là người
hòa bình vậy.
-
Luận Nhiếp Đại Thừa
-
-
Bấy giờ có vị Ma Già thiên tử hỏi
Phật bằng lời kệ: Giết gì được ngủ yên, giết gì được vui vẻ, và giết người
hạng nào, được Cù Đàm ngợi khen?
- Khi
ấy đức Thế Tôn cũng đáp lại bằng kệ: Nếu giết kẻ giận dữ, được an ổn ngủ nghỉ,
nếu hay giết giận dữ, khiến người được vui mừng, giết gốc độc giận dữ, thì
được Ta khen ngợi. Người giết giận dữ rồi, đêm dài không lo sợ.
-
Kinh Tạp A Hàm
-
-
Đức Phật bảo đại chúng: Nhẫn hơn
hết trên đời, nhẫn là Đạo an vui, nhẫn hộ thân cô độc, là Hiền Thánh ưa vui,
nhẫn hay làm bạn thân, nhẫn thêm đẹp tiếng khen, nhẫn giàu sang được lâu, nhẫn
được đủ tướng tốt, nhẫn hay được oai lực, nhẫn soi biết thế gian, nhẫn hay
thành nghề khéo, sức nhẫn phục oán địch, sức nhẫn dẹp lo rầu, nhẫn được tướng
mạo tốt, nhẫn được đông họ hàng, nhẫn dời lấy báo tốt, nhẫn được đến đạo lành,
kẻ nhẫn được sống lâu, kẻ nhẫn được ba ngôi, nhẫn chẳng hại chúng sanh, nhẫn
xa lìa trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tham dục, và giận dữ…
nhẫn mới thành tựu: bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Chính
là Phật Pháp vậy.
-
Kinh Đại Tập
-
-
Phật dạy: nếu có Bồ tát an trụ lòng
từ nhẫn có 10 món lợi ích, những gì là mười?
-
Lửa không thể cháy
-
Dao không thể cắt
-
Độc không thể trúng
-
Nước không thể trôi
-
Được quỉ thần hộ
-
Được thân tướng trang nghiêm
-
Đóng các đường ác
-
Tùy sở thích sanh về Phạm thiên
-
Ngày đêm thường yên
-
Thân chẳng lìa vui sướng
-
Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội
-
-
Nhẫn nhục là đức cả; vì khổ hạnh
trì giới chẳng so sánh bằng. Ai tu được nhẫn nhục, mới được gọi là bực đại
nhơn có sức mạnh.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Phật dạy: kẻ nhẫn là nhiều sức mạnh
vậy, vì chẳng ôm lòng ác, lại thêm khỏe mạnh. Người nhẫn không ác, chắc được
người khác tôn trọng.
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
-
Ánh sáng nhẫn nhục mạnh hơn sức
mạnh của mặt trời trăng; rồng voi, tuy gọi rất mạnh, sánh với nhẫn nhục muôn
phần chẳng kịp một; ánh sáng bảy báu kẻ phàm quí trọng, nhưng hay rước khổ, vì
gây tai họa; báu của nhẫn nhục thủy chung được yên.
-
Bố thí mười phương, tuy được phước
lớn, phước chẳng bằng nhẫn. Ôm nhẫn tu trì, đời đời không oán, lòng dạ an
nhiên, trọn không độc hại.
-
Đời không chỗ nương, duy nhẫn đáng
nương, là nhà yên ổn, chẳng sanh tai quái. Nhẫn, áo giáp thần, chẳng bị đao
binh. Nhẫn là đại thuyền, vượt qua bể khổ. Nhẫn là thuốc hay cứu sống nhiều
mạng. Chí hướng kẻ nhẫn muốn gì chẳng được!
-
Kinh Nhẫn Nhục
-
-
Khi đức Phật đang ngự tại nước Ca
Tỳ La Vệ có người tên Sai Ma Kiệt hỏi Phật rằng: "Bồ tát tu hạnh gì mau chứng
Đạo vô thượng chánh chơn, đủ 32 tướng tốt; và đến khi lâm chung, tâm chẳng tán
loạn, chẳng đọa; và đối với tất cả pháp không bị ngăn ngại?"
-
Phật đáp: Hạnh của Bồ tát lấy nhẫn
nhục làm gốc. Nhẫn nhục có 4 món:
-
Khi bị mắng chửi làm thinh chẳng
trả thù
-
Khi bị đánh đập chẳng giận hờn
-
Có kẻ giận dữ đến, mình lấy lòng từ
nghinh tiếp
-
Có kẻ khinh hủy đến, chẳng nghĩ
điều ác của họ
-
Kinh Bồ Tát Sanh Địa
-
-
Nhẫn nhục là chánh nhơn của Bồ đề:
vô thượng chánh đẳng chánh giác kết quả của nhẫn nhục vậy.
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Tinh tu đức nhẫn nhục, hiển hiện Bồ
đề Phật.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
D. CẦN TẤN
-
Này các Tỳ Kheo! Nên siêng tu tinh
tấn thì việc gì cũng dễ. Vậy nên các ngươi phải siêng tinh tấn; ví như chút
nước thường chảy thời có thể xoi mòn đá. Nếu tâm kẻ tu hành thường khi biếng
trễ, ví như dùi cây lấy lửa chưa nóng mà nghỉ, dầu muốn được lửa, lửa vẫn khó
được.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Như hai người đồng sắp đi đến một
chỗ, một người cưỡi con ngựa hay và một người cưỡi con ngựa dở; tuy cưỡi ngựa
dở, vì khởi hành trước nên được đến trước. Những người tin, hiểu sớm siêng tu
tinh tấn, được trước đến Niết bàn.
-
Luận Tỳ Bà Ta
-
-
Đệ tử Phật tên Bạc Cụ La nói: Tôi
từ khi xuất gia đến nay, đã tám mươi năm qua, chưa từng ngủ nghỉ: hông chẳng
dính chiếu, lưng chẳng dựa vào đâu.
-
Kinh Bạc Cụ La
-
-
Xưa có kẻ nhạc sĩ, biết đủ điệu
nhạc, đến nhà trưởng giả xin trâu. Ông trưởng giả vì chẳng muốn cho trâu nên
bảo anh rằng: Nếu anh đánh nhạc được luôn ngày đêm chẳng nghỉ đủ một năm tròn
thì tôi cho trâu.
- Anh
thưa: Tôi đánh được, xin Ông cũng nghe luôn; trưởng giả nói: Tôi nghe luôn chớ
sao! Anh ta nghe thế rất vui mừng, chăm lòng đánh luôn 3 ngày 3 đêm không chút
nghỉ tay. Trưởng giả chán quá nghe không nổi nữa liền sai người nhà đem trâu
ra cho.
-
Tỳ kheo tu đạo cũng cần như vậy.
Được quả báo bất tất phải trải qua nhiều kiếp, hễ tinh tấn càng mạnh được quả
báo càng sớm.
-
Kinh Tạp Thí Dụ
-
-
Bồ tát siêng tu hơn hết là siêng tu
tinh tấn. Cho nên chẳng bị các món phiền não nầy làm rối loạn là: tham dục,
giận dữ, ngu si, khinh dễ, não hại, ganh ghét, hiềm hận, dua dọc, không hổ,
không trẽn.
-
Bồ tát thường nghĩ như vầy: "Ta
chẳng muốn não hại các chúng sanh cho nên tu tinh tấn; thảy vì muốn phân biệt
tất cả chúng sanh mà tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả chúng sanh chết đây sanh
kia nên tu tinh tấn; vì muốn biết thật pháp của các đức Phật nên tu tinh tấn;
vì muốn biết các pháp bình đẳng để làm phương tiện khéo léo nên tu tinh tấn;
vì muốn biết ba đời bình đẳng nên tu tinh tấn; vì muốn chứng được pháp các đức
Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết đại trí huệ và phương tiện khéo léo của các
đức Phật nên tu tinh tấn; vì muốn biết tất cả Phật pháp để rộng vì chúng sanh
phân biệt nên tu tinh tấn."
-
Bồ tát tu hạnh tinh tấn như vậy,
hoặc có người hỏi: nếu có người tuy chịu khổ trong đại địa ngục trải lâu vô
lượng vô số kiếp để khiến chúng sanh được Niết bàn rốt ráo chăng?
-
Bồ tát trả lời: Ta thảy vì tất cả
chúng sanh trong thế gian mà chịu khổ ở địa ngục; sau khi chịu khổ Ta được
hưởng vui vì ta thay cho tất cả chúng sanh mà chịu khổ để khắp khiến chúng
sanh được Niết bàn rốt ráo. Nhiên hậu ta mới trọn nên vô thượng Bồ đề. Được
như thế mới gọi là hạnh vô tận của Bồ tát.
- Bồ
tát tu tập các hạnh mà không sanh lòng mỏi mệt, thế lực mạnh mẽ không ai chế
phục được, như thê mới đầy đử tất cả trí huệ.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Có 10 món tinh tấn Bồ tát có thể
tu:
-
Vì muốn chúng sanh được giải thoát
nên mặc áo giáp tinh tấn để phá trừ các chướng ngại
-
Chăm nghĩ sức mạnh tinh tấn
-
Xa lìa chấp trước "có" và "không"
mà tu tinh tấn
-
Vì muốn lợi ích chúng hữu tình mà
tu tinh tấn
-
Vì muốn được bồ đề gia hạnh mà tu
tinh tấn
-
Vì muốn nối liền nhau mà tu tinh
tấn
-
Vì muốn trong sạch mà tu tinh tấn
-
Vì kẻ khác không làm được mà tu
tinh tấn
-
Chẳng theo tà giáo của kẻ khác mà
tu tinh tấn
-
Vì không có tâm ngạo mạn mà tu tinh
tấn
-
Bồ tát siêng năng tu tinh tấn chẳng
những vì mình chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác mà còn vì muốn
làm lợi ích cho tất cả chúng hữu tình nữa.
-
Kinh Trừ Cái Bồ Tát Sở Vấn
-
-
Có vị Sa môn ở nước La Duyệt Kỳ,
Ngài ngồi mà thề rằng: "Nếu ta chẳng chứng Đạo thì quyết không đứng dậy. Khi
muốn buồn ngủ, ta có cái dùi nhọn dài tám tấc, lấy chọt hai bên hông đau không
thể ngủ." Trải qua một năm Ngài chứng được Đạo.
-
Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
-
Phật dạy: các ngươi tỳ kheo! Ngày
thời siêng năng tu tập các pháp lành, chớ bỏ sai thời; đầu đêm, cuối đêm cũng
đừng luống bỏ. Giữa đêm tụng kinh, do mình làm chừng đỗi, đừng vì nhơn duyên
ngủ nghỉ, luống qua một đời, không được chút gì. Phải nhớ lửa vô thường, đốt
các thế gian, phải sớm cầu tự độ, đừng nên ngủ nghỉ.
-
Các giặc phiền não, thường rình
giết người lắm hơn kẻ oan gia. Đâu nên ngủ nghỉ mà chẳng tự kỉnh ngộ vậy? Rắn
độc phiền não, còn ngủ trong tâm ngươi, ví như rắn hổ mun, còn ngủ trong nhà
ngươi, ngươi phải lấy cái móc trì giới, mau trừ nó đi; rắn ngủ đã chạy khỏi,
mới nên yên ngủ. Nếu nó chưa chạy khỏi mà ngủ là người không biết xấu hổ vậy.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Buông lung chính là gốc của các
điều ác, chẳng buông lung mới nguồn của các điều lành.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Lỗi buông lung là nặng nhứt trong
các lỗi. Người ngu ưa buông lung nên thường bị các khổ não. Nếu ai xa lìa
buông lung thì thường được an vui. Tất cả các khổ não buông lung làm cội gốc,
cho nên muốn khỏi khổ não cần phải bỏ buông lung.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
Đức Phật bảo chàng Lê Xa Tử ở thành
Tỳ Xá Li rằng: buông lung chẳng phải đạo pháp đi đến Niết bàn. Buông lung có
13 lỗi:
-
Ưa làm những nghiệp đời bất thiện
-
Ưa nói những lời vô ích
-
Ưa ngủ nghỉ cho lâu
-
Ưa nói chuyện đời
-
Ưa gần gủi bạn ác
-
Thường biếng nhác trễ nải
-
Thường bị người khinh dễ
-
Dầu có được nghe cũng liền quên
-
Ưa ở chỗ hẻo lánh
-
Các căn chẳng điều phục được
-
Tham chẳng biết đủ
-
Chẳng ưa ở chỗ vắng lặng
-
Chỗ thấy biết bất chánh
-
Nếu người nào buông lung tuy gần
Phật và các đệ tử Phật cũng như xa cách.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Phật dạy: Con người biếng nhác hại
cho các hạnh nghiệp: tại gia mà biếng nhác áo cơm chẳng no đủ, sản nghiệp
chẳng phát đạt; xuất gia mà biếng nhác không thể thoát khỏi khổ sanh tử. Tất
cả việc đều nhờ tinh tấn mà hưng khởi: tại gia tinh tấn thời áo cơm đầy đủ,
gia nghiệp phát đạt, xa gần khen ngợi. Xuất gia tinh tấn thời trọn nên 37 phẩm
trợ đạo, dứt nguồn sanh tử, được đến thành Niết bàn an vui.
-
Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh
-
-
Khi Đức Phật ngự tinh xá Kỳ Viên,
có kẻ đệ tử tên Nhị Thập Ức, siêng năng học tập cả đêm không ngủ và chuyên cần
tu các đạo pháp. Rồi ông tự nghĩ: "Đối với giới luật, ta là đứng đầu, nhưng
các món lậu tâm, chưa được giải thoát. Nhà cha mẹ ta rất giàu có, ta nay thôi
muốn xả giới về nhà chỉ tu phước nghiệp bố thí cũng được."
-
Bấy giờ Đức Phật dùng tha tâm trí
quán biết ý nghĩ của Nhị Thập Ức; Ngài liền sai kẻ thị giả gọi đến dạy rằng:
"Này Nhị Thập Ức! Ta nghe ngươi khi còn tại gia chơi đàn cầm hay lắm; nếu giây
đàn thẳng, tiếng nó hay không?" "Dạ thưa Thế Tôn, không hay."
-
Phật lại hỏi: "Nó dùn, tiếng có hay
không?"
-
"Dạ thưa cũng không hay."
-
Phật hỏi nữa: "Vừa vừa không thẳng
không dùn thì như thế nào?"
-
"Dạ thưa Thế Tôn: tiếng nó mới thật
là hay."
-
Nhơn đó Phật dạy: "Này ngươi, khi
tinh tấn lắm tâm loạn, mà lúc chẳng tinh tấn, tâm sanh biếng nhác; nếu được
vừa vừa bực trung thì quyết được Đạo giải thoát."
-
Kinh Trung A Hàm
-
-
Ngài Cần Thủ Bồ tát nói kệ rằng:
như dùi cây lấy lửa, chưa có mà ngừng nghỉ, sức lửa liền dứt mất, biếng nhác
cũng như thế.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Trong hai mươi năm ngài Xá Lợi Phất
thường siêng năng tu tập phép chỉ quán, đi, đứng, ngồi, nằm, Ngài chánh niệm
quan sát không hề loạn động.
-
Kinh Niệm Phật Tam Muội
-
-
Đức Phật nói với A Nan rằng: Di Lặc
phát tâm trước Ta 42 kiếp, rồi Ta mới phát tâm tu Đạo, vì nhờ sức đại tinh tấn
mà Ta vượt qua 90 kiếp, được thành Đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
-
Kinh Di Lặc Sở Vấn
-
-
Trong sáu Độ ba món trước là thuộc
về giới học, thiền định thuộc về tâm học, bát nhã thuộc về huệ học duy có tinh
tấn là biến khắp tất cả các món.
-
Luận Du Già Sư Địa
-
-
Khi đức Phật Để Sa ra đời, Bồ tát
chấp mười ngón tay, quì xuống một gối, đọc một bài kệ khen ngợi công đức của
Phật luôn cả bảy ngày đêm liền được siêu chín kiếp.
-
Luận A Tì Đạt Ma
-
-
Những người tu đạo, ví như một
người chiến với vạn người. Khi mặc áo giáp ra cửa thành, trong tâm hoặc khiếp
sợ, hoặc nửa đường mà lui, hoặc chết tại trận, hoặc thắng trận mà về. Sa môn
học đạo, cần phải kiên quyết giữ gìn tâm ý, tinh tiến dũng nhuệ, chẳng sợ gì
hết, phá diệt các ma, mau chúng được Đạo quả.
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương
-
-
Lấy tâm buộc tâm, lấy tâm trụ tâm,
tâm chuyên một cảnh, thứ lớp không hở, thì được định tâm. Tâm thường yên lặng.
-
Kinh Bảo Vân
-
-
Chăm lòng học đạo pháp, phát tâm
đại dũng mãnh, quyết được đến Bồ đề.
-
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
-
-
E. SẮC DỤC
-
Sắc dục là xiềng cùm của đời vậy,
phàm phu say đắm, không thể tự cứu. Sắc dục là bệng nặng nhứt của đời vậy,
phàm phu khốn khổ đến chết chẳng khỏi. Sắc dục là tai họa của đời vậy, phàm
phu gặp nó, lâm nguy khó tránh.
-
Người tu Phật pháp đã được bỏ rồi,
lại còn nghĩ vẩn, như được phóng thích, lại muốn vào ngục lại, cũng như bệnh
lành, lại muốn đau lại cho nên bị người trí quở trách chính đó là điên.
-
Kinh Nhật Minh Bồ Tát
-
-
Đệ tử tại gia nên lìa tà dâm, với
vợ hầu của mình cũng là đủ rồi; với đàn bà khác, chẳng nên sanh một niệm bất
chính.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Với vợ mình, còn cho là chẳng đủ,
lại ưa phạm đến vợ người ta, ấy là người không biết hổ thẹn, chịu nhiều khổ mà
không có chút vui vì đời này và đời sau, bị quả báo khổ buộc ràng.
-
Kinh Ni Kiền Tử
-
-
Phải biết tà dâm có sáu điều tai
biến:
-
Chẳng giữ được tự thân
-
Chẳng giữ được vợ con
-
Chẳng giữ được gia thuộc
-
Vì họ nghi, nên sanh xấu
-
Kẻ oan gia được cơ hội
-
Các khổ đoanh vây
-
Đã có những điều ác này, thời sự
nghiệp phế bỏ: của chưa làm ra được thời chẳng được, của đã làm ra được thời
tiêu mất, và của cải đã sẵn có chứa để từ lâu cũng tiêu hao hết.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Xâm phạm đến vợ con của người, bị
chồng hoặc kẻ lân nhơn biết được, đến khi bị luy dao gậy đánh chém thương tổn
thân mạng, hoặc cắt đầu, chân, hoặc bị pháp luật nã bắt giam ngục bị trọng
hình.
-
Chết xong bị đọa hỏa ngục đốt cháy,
được tái sanh làm người khuê môn bị rối loạn; xa cách pháp lành, thường ôm
lòng hãi sợ chẳng được yên.
-
Phật dạy: dâm là hạnh bất tịnh, mê
hoặc mất chánh đạo, hại mạng mà chết non, bị tội vì ngoan si, chết lại đọa ác
đạo, cho nên đừng dâm loạn.
-
Đức Phật nói tà dâm có 10 tội:
-
Bị nguy hại với vợ hay chồng mình
-
Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi
luôn
-
Các điều ác ngày càng tăng thêm,
điều lành cành tiêu mòn
-
Tấm thân chẳng giữ được, vợ con bị
côi cút
-
Của cải ngày càng hao mòn
-
Có xảy ra các việc xấu, thường bị
người nghi
-
Giòng họ, bè bạn chẳng ai ưa mến
-
Thường bị oán vì gieo nghiệp nhơn
xấu
-
Chết đọa địa ngục
-
Được tái sanh làm người, gái thời
bị cảnh chồng chung, trai thời vợ chẳng trinh chánh
-
Luận Trí Độ
-
-
Vua Ưu Đà Diên thưa Phật rằng: tôi
bị đàn bà lừa dối, muốn hại, thưa Thế Tôn! Tôi cho người đàn bà này là rất
độc. Xin Ngài trừ khử đàn bà độc hại này đi.
- Đức
Phật bảo vua rằng: nhà vua muốn hỏi tội người đàn bà thì trước phải hỏi tội kẻ
trượng phu đã. Trượng phu có 4 điều lỗi nên bị đàn bà dối gạt:
-
Vì say mê buông lung, chẳng biết
gần gũi Sa môn, để lãnh thọ giới pháp thanh tịnh mà tu phước nghiệp; kẻ đã thọ
giáo pháp của Ta cũng chẳng tin cho vững, ưa các thứ tà ác là đàn bà múa hát
giỡn cợt, chỉ chăm học đòi theo đứa ngu si.
-
Cha mẹ vì muốn lợi lạc cho con, mà
làm những việc khó làm, phải chịu những đồ bất tịnh; và lại vì muốn con mau
trưởng thành nên đối với khó nhọc cho bú mớm, nuôi dưỡng quên bề mỏi mệt; và
nhờ của cải chính mình phải gian nan khó nhọc mới được, đem sắm dụng cụ cho
con chẳng biết nhàm chán. Nhưng người con bị đàn bà...đối với song thân già
yếu ngỗ nghịch và coi rẻ. Rồi có bấy nhiêu của cải bị lãng phí tiêu hao, thậm
chí khiến cha mẹ không chỗ nương nhờ, đến nỗi đuổi cha mẹ ra khỏi nhà.
-
Bị tà kiến, chẳng đối tưởng việc
hủy hoại thân thế, tự dối gạt mình, như say đắm đàn bà là gốc.
-
Làm việc phải thời keo rít tiền
của, mà gái thời bất kể là bao. Nhưng có bị đàn bà khinh dễ, lấn át, hủy nhục,
đánh đập, mắng trách, cũng vẫn vui chịu lấy. Hoặc khi đàn bà bị chút buồn lo,
thì liền nghĩ làm thế nào cho người yêu được vui vẻ. Làm trai mà bị đàn bà
dùng lời nói dối gạt đến như nước này thì thật chẳng biết nói sao!
-
Nếu kẻ nam nhi chơn chính thì làm
sao bị đàn bà lừa gạt? Nhà vua nghe rất vui mừng. Xin quy y Tam bảo, làm kẻ ưu
bà tắc.
-
Kinh Bảo Tích
-
-
Ông Ma Nhơn Đề ở nước Câu Diên Di
đem con gái đến chỗ Phật, thưa Phật rằng: Đứa con tôi dung mạo tuyệt đẹp, thế
gian vô song địch, các vị Quốc vương, hào tộc đến cầu hôn mà tôi đều từ chối
không gả. Nhưng tôi nhận thấy Ngài là bực Đại nhân nhan sắc rực rỡ nguy nga
đời chưa từng thấy nên tôi xin hiến cháu này lên Ngài. Phật dạy: cái đẹp của
đứa gái này ở chỗ nào? Ma Nhơn Đề đáp từ đầu cho đến chân, xem cho chu tất
không chỗ nào chẳng đẹp, Phật nói: Lầm thay, đồ con mắt thịt! Ta xem thấy, từ
đầu đến chân, không một chỗ nào đẹp cả. Ta thấy: ở đầu người có tóc, tóc chỉ
là một thứ lông, lông ấy cũng như lông ngựa, lông voi; dưới tóc là sọ, sọ chỉ
một thứ xương đầu, cũng giống như xương đầu heo của các nhà đồ tể hàng heo.
Trong đâ? có não, não giống như đất bùn, nó tanh hôi nhíu mũi, nó rơi xuống
đất, chẳng ai dám đụng tới. Còn hai con mắt là hai ao nước, đưa tay dụi vào
nước mắt tuôn chảy. Trong hai lỗ mũi, có đầy mũi dãi, trong miệng có đàm nhớt;
trong bụng có gan phổi v.v...toàn là những vật tanh hôi. Trường vị, bàng quan
đựng toàn cứt, đái hôi thúi khó tả. Hai tay, hai chân là xương với xương kề
nhau như trụ cột. Gân, da co dãn nhờ hơi thở mà chuyển động, không khác gì con
người máy bằng gỗ. Nếu mổ xẻ nó ra từng đốt rời rã, đầu chân nằm ngổn ngang.
Tất cả loài người đều như vậy cả.
-
Vậy thì có chi là đẹp mà ngươi bảo
vô song. Ta không dùng vợ, thôi ngươi đem nó về đi. Ma Nhơn Đề nghe Phật nói
thế xấu hổ vội dắt con chạy về mà chẳng kịp bái từ.
-
Kinh Xuất Diệu
-
-
A Nan đi khất thực rồi, đang khi
cầm bình bát đi dọc theo mé sông, chợt thấy một cô gái gánh nước. A Nan đến
xin nước với cô, cô liền cho nước rồi đi theo sau A Nan, đến chỗ Ngài ở, nàng
mới trở về nhà. Về nhà, nàng thưa mẹ tên là Ma Đăng rằng: Thưa mẹ khi nào mẹ
gả con lấy chồng đừng gả cho người nào khác. Hôm nay đi gánh nước ở sông, con
gặp một ông Sa môn, ông lại xin nước, con cho và hỏi tên, ông cho biết là A
Nan. Con được A Nan làm chồng thời mẹ gả, bằng không thời con chẳng ưng ai
hết.
-
Bà mẹ đi dò hỏi, mới biết A Nan là
đệ tử Phật.
-
Bà về nhà bảo với con rằng: A Nan
thờ Đạo Phật làm sao làm chồng con được? Nàng nghe thế buồn rầu khóc lóc bỏ
ăn.
-
Bà mẹ vốn rành nghề ma thuật, mời A
Nan về nhà cúng cơm, nàng rất vui sướng. Bấy giờ bà thưa với A Nan rằng: con
gái tôi nó muốn làm vợ ông.
-
A Nan nói: tôi giữ giới không cưới
vợ. Bà ta buộc: con tôi chẳng được ông làm chồng thời nó tự tử. A Nan nói: đức
Phật thầy tôi chẳng cho phép tôi gần đàn bà.
-
Bà mẹ liền vào trong nhà, đem
chuyện ấy thuật lại với con. Nàng khóc rống và bảo mẹ rằng: xin mẹ đóng kín
cửa lại đừng cho ông ra đi, tối nay con bắt làm chồng. Bà già nghe lời con
đóng cửa, rồi dùng phép thuật mà trói A Nan lại; trời vừa tối, nàng trang điểm
thân thể rất đẹp rồi đi vào nhà trong. Ngài A Nan chẳng đến giường ngủ. Bà ta
đốt một đống lửa, rồi đến nằm phặng chéo áo A Nan mà rằng: Nếu ông không vì
con gái tôi làm chồng nó, thời tôi vất ông vào đống lửa này. Ngài A Nan rất
khổ tâm, chẳng biết làm sao, chỉ biết niệm Phật mà thôi.
- Bấy
giờ đức Phật quán biết A Nan lâm nạn liền đến cứu đem về. Khi thấy A Nan ra đi
nàng khóc kêu liên miên.
-
Sáng ngày nàng đi tìm cho được, khi
thấy A Nan đang mang bình bát đi khất thực thì nàng đi theo sau xem thấy bộ
đi, gương mặt của A Nan, mặc dù Ngài đã cố tâm đi tránh, mà nàng vẫn theo
luôn.
-
Khi A Nan về đến nơi và thưa với
Phật rằng: con gái của mụ Ma Đăng nó đi theo sau lưng tôi luôn cả ngày nay.
Đức Phật sai người gọi đến và hỏi: ngươi đi theo A Nan để xin thứ gì? Nàng
thưa: tôi nghe A Nan không vợ, tôi cũng không chồng, nên tôi muốn xin làm vợ.
Phật nói: A Nan là kẻ trọc đầu, còn ngươi có tóc, nếu ngươi có thể cạo tóc,
thời Ta sẽ cho A Nan làm chồng ngươi. Nàng thưa: tôi có thể cạo tóc, Phật nói:
phải trở về nhà xin với mẹ ngươi đã, cạo đầu xong rồi sẽ lên đây...
-
Nàng về nhà thuật lại lời Phật dạy
và xin mẹ cho cạo đầu. Bà nói: từ khi sanh con, mẹ ưa cái đầu tóc con lắm,
nhưng vì sao con quyết lấy ông Sa môn làm chồng? Chớ ý mẹ muốn gả con cho
những kẻ giàu sang trong nước là hơn. Nàng quả quyết: đầu tôi có chết vẫn xin
làm vợ A Nan mà thôi. Bà nói: thiệt mày làm nhục nhã giòng họ tao quá. Bất đắc
dĩ bà phải hạ dao cắt tóc.
-
Xong, nàng mới đến chỗ Phật và
thưa: tôi đã cắt tóc rồi. Phật hỏi: Người yêu cái gì của A Nan? Dạ thưa tôi
yêu con mắt, lỗ mũi, cái miệng, cái tai, tiếng nói và cả bộ tịch đi đứng của A
Nan. Đức Phật dạy: trong hai con mắt thời có nước ghèn, trong hai lô?mũi thời
có cứt mũi, trong hai lỗ tai thời có cứt ráy, trong miệng thời có dàm dãi và
trong bụng là đầy cứt đái, toàn là những thứ tanh hôi nhơ nhớp bất tịnh. Mà đã
thành vợ chồng thời tất phải có khi trần truồng xấu xí và do đó mà đẻ con. Đã
có con thì nó phải chết. Mà khi nó chết thời kêu khóc thảm thê.
-
Thế thì đối với cái thân có ích đâu
mà yêu mến. Nàng liền suy nghĩ, lúc mà hai thân trần truồng xấu xí thời trong
lòng hết nghĩ bậy, tức thì chứng được A La Hán.
- Bấy
giờ Phật biết nàng đã chứng Đạo nên Ngài bảo: Thôi ngươi đứng dậy đi đến chỗ A
Nan đi! Nàng xấu hổ quá liền đến quì trước Phật cúi đầu thưa rằng: con vì ngu
si nên theo A Nan, nay con đã tỉnh ngộ như người đi trong tối được ánh sáng
đèn lửa, như kẻ đui được sáng mắt, như người già yếu được gậy. Nay Phật cho
tôi chứng được Đạo, tâm tôi được khai ngộ như vậy.
-
Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo
rằng: trong đời quá khứ cách nay chừng 100 đời, con gái của bà Ma Đăng này đã
cùng với A Nan thành vợ chồng, thương mến nhau lắm. Ngày nay đoi đứa gặp nhau
như anh gặp em. Như vậy đạo Phật ai được nghe, quyết định có lợi ích chớ?
-
Kinh Ma Đăng Nữ
-
-
Phàm phu trọng sắc dục, đành chịu
làm tôi mọi, trọn đời chạy rong theo, bị đủ điều khổ sở.
-
Kinh Nhựt Minh Bồ Tát
-
-
Phật dạy: dù là vì lợi dưỡng, cũng
đừng nên làm nghề mãi dâm, vì chẳng phải lối sanh sống chân chính.
-
Kinh Phạm Võng
-
-
F. HỔ TRẼN
-
Trên đời có hai pháp nhiệm mầu ủng
hộ cho thế gian chính là HỔ và TRẼN vậy. Nếu không có hai pháp này thế gian
không thể phân biệt được là cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè, tôn trưởng và kẻ
lớn người nhỏ, thời đồng với các loại cầm thú có khác gì.
-
Kinh Tăng Nhất A Hàm
-
-
Lấy nước hổ trẽn rửa tẩy nhớp trần
lao, thới thân tâm đều thành món đồ trong sạch.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Hổ trẽn là đồ áo mặc để gìn giữ các
điều lành.
-
Kinh Đại Vân
-
-
Đồ mặc hổ trẽn đối với các món
trang sức nó là thứ nhứt. Hổ trẽn như cái móc sắt nó ngăn chận những điều phi
pháp cho người. Vậy nên các Tỳ kheo thường phải biết hổ trẽn, đừng chút nới
bỏ. Nếu bỏ rời hổ trẽn thời mất các công đức; người có hổ trẽn thời có pháp
lành, bằng không cũng với cầm thú không khác chi mấy. Đời nếu có người hiểu
biết hổ trẽn, người ấy tiến bộ dễ dàng, như giục ngựa hay.
-
Kinh Bột
-
-
Hổ trẽn có hai thứ: Một là tự tánh,
hai là nhơn duyên. Tự tánh là biết mình đã làm những điều phi pháp, lo sợ quả
báo sanh lòng hổ trẽn. Nhơn duyên là đối với những việc ác đã làm sợ người đời
biết mà sanh hổ trẽn.
-
Thứ hổ trẽn tự tánh chẳng phải do
nhơn duyên mà được. Hổ trẽn tóm tắt có 3 món:
-
Việc chẳng nên làm mà làm sanh lòng
hổ trẽn
-
Việc nên làm mà chẳng làm sanh lòng
hổ trẽn
-
Tự lòng mình sinh nghi mà hổ trẽn
-
Bị lỗi mà che dấu sợ người biết mà
hổ trẽn
-
Kinh Thiện Giới
-
-
Ai ôm lòng hổ trẽn thời các tội lỗi
tiêu diệt, được trong sạch như xưa.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
G. LÌA CÁC TRỘM
CƯỚP
-
Đệ tử phải xa lìa các điều trộm
cướp, những đồ vật giúp sống nên vừa đủ; vật của người ta chẳng cho thời chẳng
nên lấy.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Trộm cướp có 10 tội:
-
Người chủ có vật thường giận
-
Thường bị người nghi ngờ
-
Không lúc nào chẳng tính mưu gian
-
Phường ác nhơn đến làm bạn, người
hiền tránh xa
-
Phá hủy tướng lành nơi thân
-
Bị tội với Quan
-
Của cải bị Quan tịch thu
-
Gây nghiệp nhơn bần cùng
-
Chết đọa địa ngục
-
Đời sau được làm người khổ mạt
kiếp, khi làm được của bị người xúm dùng chung; hoặc bị giặc lấy hay lửa cháy
tiêu. Hoặc là đứa con bất hiếu phá hủy tan tành.
-
Luận Trí Độ
-
-
Chẳng ăn trộm của cải của người ta
là giàu to. Vì chẳng bị quan vua tịch thu, nước lửa chảy trôi, hay giặc trộm
cướp lấy, không có kẻ oan gia, không có ác tử mà được nhiều người ưa mến. Đi
đến đâu cũng không khó, vì đã dứt hẳn những điều lo sợ.
-
Kinh Hải Long Vương
-
-
Nếu gặp thấy vật rơi nơi đường xá,
hoặc vàng bạc hay những của báu; lượm rồi xướng rằng: "vật này là của ai?" Nếu
có người nói: "vật ấy là của tôi", thì phải gạn hỏi hình tướng, nếu đúng sự
thật nên trả lại họ. Nếu không người đến nhận thời cứ sau mỗi bảy ngày là đem
vật ấy ra mà xướng như vậy nữa. Và sau cũng không có người chủ nhận thì đem
gởi cho vua, quan, quận, huyện hay các cơ quan hữu trách; những cơ quan ấy
cũng chẳng thấy chủ đến nhận lãnh thì mới đem ủng hộ cho Phật pháp.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
Nếu lượm được những vật thuộc loại
khăn áo, phải xướng lên cho ngươi hay đến nhận, bằng không người nhận thời
treo chỗ cao, cho người ta dễ thấy. Nếu có người nói: "vật này của tôi", thì
nên hỏi họ: "ngươi làm mất vật này ở chỗ nào?" Họ nói đúng sự thật thì trả lại
cho họ, bằng chẳng đúng, phải giữ lại sau thời gian ba tháng, khi lượm được
nơi vườn tháp thì đem cúng cho tháp dùng, mà lượm được vườn Tăng thì đem cúng
cho tứ phương Tăng dùng.
-
Nếu như lượm được vật quí giá như
vàng bạc hay chuỗi anh lạc thời không nên vội xướng rõ, người lượm được phải
coi kỹ hình dáng hoặc số lượng của vật rồi mới đưa ra, có người nhận, phải hỏi
cho đúng sự thật, rồi trước đông người mà trả lại họ, chớ không nên ở chỗ kín
mà cho lại.
-
Luật Tăng Kỳ
-
-
Sống không biết hổ, như chim ăn dơ
mặt mày chịu nhục, gọi là sống dơ. Liêm sỉ tuy khổ, giữ nghĩa thanh bạch,
tránh nhục chẳng dối, gọi là sống sạch.
-
Kinh Pháp Cú
-
-
Thà nên giữ Đạo, nghèo hèn mà chết,
chẳng nên vô Đạo, giàu sang mà sống.
-
Kinh Lục Độ Tập
-
-
Phật dạy: Các Tỳ kheo! Đa dục là
khổ, sống chết mệt nhọc, bởi tham dục sanh: ít dục vô vi mới giác ngộ thân tâm
tự tại.
-
Kinh Bát Đại Nhơn Giác
-
-
Phật dạy: Hỡi các Tỳ kheo! Phải
biết, những người đa dục, vì cầu lợi nhiều, khổ não cũng nhiều; những người
thiểu dục, không cầu không dục, không có khổ não. Cho nên ai muốn lìa khổ, cần
phải tu tập hạnh thiểu dục. Huống chi hạnh thiểu dục có thể sanh các công đức.
Những người tu hạnh thiểu dục thời không đua dọc chìu theo ý người để cầu
cạnh, nhất là chẳng bị các căn lôi kéo. Người tu thiểu dục, tâm địa thản
nhiên, không có lo sợ, gặp việc cô thừa, thường chẳng thiếu thốn. Hễ tu thiểu
dục là có Niết bàn.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Người tham, chửa đẻ nhiều, được mấy
cũng chẳng vừa. Tâm vô minh điên đảo, thường mưu xâm lấn người, đời hiện nhiều
oán ghét, chết rồi đọa ác đạo. Cho nên người trí, phải tu trí túc.
-
Kinh Ni Kiền Tử
-
-
Nếu người lòng tham không biết nhàm
đủ, chỉ biết cầu cho nhiều, tội ác càng tăng thêm. Bồ tát chẳng thế, thường
nghĩ tri túc, an phận nghèo mà giữ Đạo giác ngộ. Duy huệ là sự nghiệp.
-
Kinh Bát Nhơn Giác
-
-
Người xuất gia có 4 chứng bệnh cho
nên chẳng được bốn đạo quả Sa môn: 4 chứng bệnh là gì? Là bốn thứ ác dục:
-
Tham ăn uống
-
Tham áo mặc
-
Tham đồ ngủ
-
Tham của đời
-
Gọi là bốn thứ ác dục, là bệnh của
kẻ xuất gia, có bốn món thuốc hay, có thể trị lành những thứ bịnh ấy là: áo
mặc bằng giẻ rách, có thể trị được bệnh ác dục của Tỳ kheo về áo mặc; đi khất
thực, có thể trị được bệnh ác dục về tham ăn; ngủ dưới gốc cây, có thể trị
được bệnh ác dục về đồ ngủ; thân tâm vắng lặng, có thể trị được bệnh ác dục về
của đời của Tỳ kheo.
-
Do bốn vị thuốc này chữa được bốn
chứng bệnh kia, nên gọi là Thánh hạnh. Như thế mới gọi là tu thiểu dục tri
túc.
-
Người thiểu dục, chẳng tìm cầu,
chẳng tham lấy. Người tri túc, khi được ít, tâm vẫn thản nhiên, không chút hối
hận.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Hỡi các Tỳ kheo! Nếu muốn giải
thoát các điều khổ não, nên quán tri túc. Pháp tri túc, tức là chỗ giàu vui
yên ổn vậy. Người tri túc, tuy nằm trên đất, vẫn được an vui; người bất tri
túc, dù ở thiên đường, cũng chẳng vừa ý.
-
Người bất tri túc, tuy giàu mà
nghèo; người tri túc tuy nghèo mà giàu. Người bất tri túc, thường bị năm dục
lôi cuốn, làm cho người tri túc động lòng thương xót, ấy là tri túc.
-
Kinh Di Giáo
-
-
Trong lúc tìm cầu giàu sang, rất
khổ, đã được rồi giữ cũng khổ, về sau bị mất lo rầu lại càng khổ hơn. Xét
trong ba thời đều không có vui.
-
Kinh Bách Duyên
-
-
Không luận kẻ sang người hèn, kẻ
nghèo người giàu, lớn nhỏ trai gái, đều chung lo tiền của, trăm nghĩ ngàn lo,
sai khiến lương tâm không lúc yên nghỉ. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà; có
trâu ngựa lục súc, tôi tớ tiền của, áo cơm đồ vật, thảy đều lo cả.
-
Càng lo nghĩ lại càng sầu khổ. Hoặc
có khi bị tai nạn phi thường như nước lửa trộm cướp, cháy, trôi, dựt lấy đi
mất, lại càng lo khổ hơn nữa, rồi lại bo bo không lúc nào giải thoát; giận hờn
kết chặt nơi lòng, phiền não không thể bỏ.
-
Nhưng khi thân mạng chết, thì bỏ
lại cho đời chỉ mô? mình mình đi, chẳng đem thứ gì theo được! Sang trọng giàu
mạnh, không ai không có các thứ lo khổ này.
-
Kinh Vô Lượng Thọ
-
-
Ông Cấp Cô trưởng giả hỏi Phật
rằng, thưa Thế Tôn: Thế gian hành nghiệp sanh sống có bao nhiêu thứ? Phật đáp:
kể có 10 thứ:
-
Phi pháp vô đạo mà cầu tài, dù
được, không thể tự an dưỡng, không thể an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng
dường Sa môn.
-
Phi pháp vô đạo mà cầu tài, được
tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn
-
Phi pháp vô đạo cầu tài, được tài,
tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn.
-
Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được
tài, chẳng tự an dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ cũng chẳng cúng
dường Sa môn
-
Đúng pháp và phi pháp cầu tài, tự
an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn
-
Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được
tài, có thể tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn
-
Đúng pháp cầu tài, chẳng tự an
dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cũng chẳng cúng dường Sa môn
-
Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an
dưỡng cha mẹ, vơ con tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn
-
Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an
dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn
-
Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng,
được an dưỡng cha mẹ, vợ con tôi tớ và cúng dường Sa môn. Đối với của cải
không đắm nhiễm, không bị ràng buộc. Thấy kẻ bị tai họa bố thí chẳng tiếc lẫn.
-
Trong 10 hạng hành nhơn, hạng sau
cùng là cao thượng hơn hết vậy.
-
Kinh Trung A Hàm
-
-
Phật dạy: cầu tài có 6 món phi đạo:
-
Đánh bạc cầu tài lợi là phi đạo
-
Phi thời cầu tài lợi là phi đạo
-
Uống rượu buông lung cầu tài lợi là
phi đạo
-
Gần gũi với bạn ác mà cầu tài lợi
là phi đạo
-
Vì vui đàn hát cầu tài lợi là phi
đạo
-
Biếng nhác cầu tài lợi là phi đạo
-
Kinh Trung A Hàm
-
-
Trong việc bảo hộ tài sản cho người
sẽ bị nguy hiểm bởi 4 điều. Bốn điều nguy hiểm đó là:
-
Vua chúa nước ngoài
-
Giặc cướp
-
Nạn lửa cháy
-
Nạn nước trôi
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị)
-
-
H. RƯỢU CÓ NHIỀU
LỖI
-
Rượu là gốc của các điều ác vậy.
Nếu ai có thể dứt trừ được thì xa lìa các tội lỗi.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Uống rượu, làm khổ não chúng sanh
nên gọi nó là nhơn gây tội. Nếu người khi uống rượu thời các cửa bất thiện mở
ra, vì có thể hại các thiện pháp, như lập vườn cây trái, mà không làm rào
giậu.
-
Luận Thành Thật
-
-
Nếu tự tay mình bưng rượu cho người
uống, vì khiến người uống rượu, cho nên bị tội không tay năm trăm đời, huống
chi mình uống. Chẳng nên dạy khiến tất cả người và chúng sanh uống rượu, huống
chi mình uống?
-
Kinh Phạm Võng
-
-
Phàm người uống rượu có 6 điều lỗi:
-
Mất của
-
Sanh bệnh
-
Đánh lộn
-
Tiếng xấu đồn khắp
-
Sanh sân si dữ tợn
-
Trí huệ ngày càng mòn mỏi
-
Đức Phật dạy: Với người thế gian ưa
uống rượu say thì bị 36 tội lỗi. Những lỗi gì đến 36?
-
Người uống rượu say, con chẳng kính
cha. Tôi chẳng kính vua, vua tôi cha con không còn kẻ trên người dưới
-
Nói năng bị nhiều sai lầm
-
Say thời nói nhiều lời, nói đâm
thọc hai bên
-
Nói phô những việc tư riêng cần dấu
kín của mình và người
-
Say thì mắng trời chửi đất chẳng
biết kiêng cữ
-
Say thì nằm giữa đường không thể về
nhà, mà có cầm giữ vật gì thì quên mất
-
Say thì đi đứng không chính được
-
Say thì khi ngước khi cúi chân đi
hoành hành, hoặc sa hầm hố
-
Say thì té rồi đứng dậy thân thể bị
thương
-
Có mua, bán bị lầm lộn, hay ưa đụng
chạm bậy bạ
-
Say thì bỏ phế công việc làm ăn
chẳng lo sanh sống
-
Đã có bao nhiêu của cải tiêu hao
hết
-
Say thì chẳng nghĩ việc đói lạnh
của vợ con gia đình
-
Say thì la mắng bất kể, chẳng sợ
pháp luật
-
Say là cởi áo tuột quần trần truồng
mà chạy
-
Say thì đi bậy vào nhà người, lôi
kéo vợ con người ta, nói năng bậy bạ tội lỗi không thể tả được
-
Say thì gây lỗi với láng giềng, rồi
muốn đánh lộn
-
Say thì nhào trộn kêu la làm kinh
động làng xóm
-
Say thì giết quấy gà heo
-
Say thì đập đánh phá tan nát đồ đạc
trong nhà
-
Say thì coi rẻ người nhà như kẻ tù
tội, ăn nói ngang ngược
-
Làm bạn với phường ác nhơn
-
Say thì xa bỏ bực Hiền thiện
-
Khi tỉnh say thân thể như đau bịnh
-
Say thì ói mửa ra những thứ dễ gớm,
vợ con thấy ghét gớm chẳng ngó
-
Say thì ý muốn chạy nhảy, gặp phải
với cọp cũng chẳng sợ tránh
-
Say thì chẳng kính kinh sách Thánh
hiền, chẳng kính Đạo sĩ Sa môn gì cả
-
Say thì dâm lung chẳng biết kiêng
nể
-
Say thì như người điên, người ta
thấy tránh chạy hết
-
Say như người chết chẳng còn biết
gì cả
-
Say hoặc bị ghẻ mặt, hoặc bị bệnh
rượu mặt mày vàng nóng
-
Thiên long qủy thần đều cho rượu là
ác
-
Những kẻ thân hậu trí thức ngày
càng xa dần
-
Ngồi chồm hổm mà đưa mắt xem kẻ qua
lại
-
Sau khi chết phải vào địa ngục thái
sơn, thường nuốt nước đồng lỏng, cháy ruột, chảy xuống lỗ đít, cứ như vậy cầu
sống cũng khó mà cầu chết cũng khó, chịu ngàn vạn năm như vậy
-
Khi từ địa ngục ra, được sanh làm
người ngu si chẳng biết gì cả
-
Nay ta thấy có những người ngu si
không hiểu biết gì hết, là chính bởi bị quả báo đời trước ưa uống rượu gây nên
vậy. Như vậy rất rõ ràng. Rượu cũng đắng cho người ta cẩn thận chứ!
-
Kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi
-
-
Chẳng đặng uống, nếm, ngửi rượu. Từ
nay về sau, kẻ nào tôn ta làm thầy, tuy ít cho đến một chút xíu rượu dính trên
đầu cọng cỏ cũng chẳng nên nhỏ vào miệng.
-
Kinh Sa Di Ni Giới
-
-
I. ĐIỀU HÒA BỐN ĐẠI
-
Phật dạy các Tỳ kheo, đi bộ có 5
công đức. Những gì là 5?
-
Chạy giỏi
-
Có sức mạnh
-
Trừ ngủ
-
Ăn uống dễ tiêu mà chẳng sanh bệnh
-
Làm cho người tu dễ được định ý,
làm cho được định ý và lâu lắm
-
Kinh Thất Xứ Tam Muội
-
-
Các Tỳ kheo! Thường ngày phải rưới
nước và quét trong nhà; trong nhà nếu có mùi hôi thời xoa bột hương; nếu còn
hôi thời lấy hương treo bốn góc vạch trong nhà.
-
Luật Tứ Phần
-
-
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng:
Cất nhà tắm có 5 món công đức:
-
Ngăn gió
-
Lành bệnh
-
Trừ sạch đất nhơ
-
Thân thể nhẹ nhàng
-
Được mập trắng
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
-
Mai, chiều phải súc miệng; phương
pháp súc miệng là đổ nước vào miệng rồi ba phen trộn trạo, gọi là pháp tịnh
khẩu.
-
Những người miệng hôi, phải nhâm
nhánh dương chi. Nhâm dương chi có 5 sự lợi ích:
-
Miệng chẳng đắng
-
Chẳng hôi miệng
-
Trừ gió
-
Đề phòng bệnh nóng
-
Trừ đàm nhớt
-
Nhâm xong, lấy nước rửa rồi vất đi.
-
Luật Thập Tụng
-
-
Phật dạy: Này các đệ tử! Đầu tóc
dài, móng tay dài, áo quần dơ chẳng biết phải lúc nói năng nhiều; gọi là năm
món hủy nhục pháp của Tỳ kheo vậy.
-
Tất cả Đạo, tục bảy chúng, khi dùng
nước uống phải lọc, lọc xong người có con mắt tỏ xem thấy chỉ tay trong bàn
tay là dùng được.
-
Luật Tăng Kỳ
-
-
Nước để cách đêm, xem thấy có sanh
vi trùng, nếu chẳng lọc thì đừng uống.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
-
-
Người vì lúc ăn quá no nên thân thể
nặng nề sanh biếng nhác, mất lợi ích lớn của đời này và đời sau; ngủ mê tự
chịu khổ, lại làm phiền người khác và mê muội khó thức dậy, cho nên phải biết
thời và độ lượng mà ăn vừa thôi.
-
Kinh Ni Kiền Tử
-
-
Nếu ăn no quá thì hơi thở gấp, thân
đầy trăm đường mạch máu chẳng điều hoà, tâm bị ngăn ngại, ngồi nằm không yên.
Trái lại ăn giảm ít, thời thân thể ốm, tâm bị treo ý nghĩ ngợi không được
bền.
-
Kinh tăng Nhứt A Hàm
-
-
Với tất cả chỗ mà đại, tiểu bậy bạ,
thì đọa vào địa ngục bạt bạ 500 đời. Hai mươi tiểu kiếp, phải tay ôm chỗ đất
đại tiểu thúi hôi cho đến chết.
-
Kinh Ưu Bát Kỳ Vương
-
-
Chẳng nên hỉ, khạc trước chỗ đông
người. Muốn hỉ khạc phải đến chỗ khuất, đừng cho người ta nhờm gớm.
-
Kình Tỳ Ni Mẫu
-
-
Muốn cất cầu tiêu, không nên cất ở
phía Đông, mà phải đặt ở phía Bắc; còn đường gió phải khai về hướng Nam, hoặc
Tây Đông. Người đi cầu, chẳng nên lặng thinh mà vào, phải gõ cửa rồi mới vào.
Nếu bên trong có người phải trả lời bằng cách gõ lại.
-
Nếu muốn khạc nơi đất phải để cái
bình một chỗ, để vào trong bình ít đất cát hoặc vôi, rồi mới khạc trong bình,
phải thường thường đem đổ, đừng cho sanh mùi hôi. Lấy nước sạch rửa bình cho
sạch, úp xuống phơi khô rồi mới dùng lại.
-
Luật Tăng Kỳ
-
-
Người bị đau có 10 nguyên nhân:
-
Ngồi lâu mà chẳng nằm
-
Ăn không tiêu
-
Lo sầu
-
Quá mệt
-
Dâm lung
-
Giận dữ
-
Đến lúc đại tiện mà nhịn không đi
-
Đến lúc tiểu tiện mà nhịn không đi
-
Ngăn hơi ợ
-
Ngăn hơi thoát ở hậu môn
-
Kinh Y (Trị Bịnh)
-
-
Thân người do bốn đại hòa hợp mà
thành, bốn đại này là đất, nước, gió, lửa, một món chẳng điều hòa là một trăm
bệnh sanh ra, mà cả bốn món chẳng điều hòa là bốn trăm bốn bệnh đồng thời phát
sanh.
-
Kinh Ngũ Vương
-
-
Có chúng sanh bị bệnh vì không uống
thuốc men và không có người chăm sóc mà phải chết, gọi là hoạnh tử, và phạm
pháp luật phải tội xử tử, gọi là hoạnh tử. Lại say mê săn bắn, buông lung, dâm
đãng, nhậu rượu say sưa vô độ mà bị hại gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị nước
trôi, lửa cháy, cũng là hoạnh tử. Kế nữa, bị sư tử, hổ lang, độc trùng ác thú
mà chết cũng gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị đói khát mà chết cũng là hoạnh tử.
Thêm nữa, bị thuốc độc hay bùa chú ếm đối mà chết cũng là hoạnh tử. Và nhào
đầu xuống gộp đá mà chết, cũng là hoạnh tử.
-
Kinh Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện
-
-
Chúng sanh bị chết ngang có 9
nguyên nhơn:
-
Khi ăn những món chẳng nên ăn
-
Ăn uống không độ lượng
-
Chẳng biết mùa Đông mùa Hè, hay khi
đến nước khác chẳng biết phong tục mà ăn những món không tiêu
-
Những món ăn trước chưa tiêu mà ăn
thêm vào nữa và chẳng uống thuốc
-
Đến khi đại tiểu tiện mà chẳng chịu
đi
-
Khi chẳng giữ ngũ giới
-
Khi gần gũi kẻ ác
-
Khi đi vào núi rừng sâu thẳm, hoặc
đến chỗ đấu tranh
-
Khi những nơi chỗ đáng tránh mà
chẳng tránh
-
Nếu ai tránh được 9 nguyên nhơn này
thì được hai phước báo: một là sống lâu; hai là vì nhờ sống lâu nên được nghe
chánh pháp mà tu hành.
-
Kinh Cửu Hoạnh
-
-
Người bệnh mà trọn đủ 9 điều sau
đây chắc sẽ chết ngay:
-
Biết món ăn không lợi mà vẫn ăn
-
Chẳng biết độ lượng
-
Đồ ăn còn nằm trong chưa tiêu mà
nuốt thêm vào
-
Ăn chưa tiêu mà hộc mửa ra
-
Đã tiêu, đáng lẽ cho nó ra mà cố
giữ lại
-
Ăn chẳng tùy theo bệnh
-
Ăn tùy theo bệnh mà chẳng độ lượng
-
Tâm thường trễ nải
-
Không có trí huệ, ấy vậy
-
Luật Tăng Kỳ
- --o0o--
|
|