|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
LỜI VÀNG
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Trí Nghiêm
Tác Giả: Dương Tú Hạc
- --o0o--
PHẦN II
NGÔN
HÀNH
--o0o--
- CHƯƠNG III
-
LỢI THA
-
A. BIẾT ƠN
TRẢ ƠN
-
Đức Phật bảo các ông
trưởng giả Diệu Đức, Dũng Mãnh, Thiện Pháp ở trong thành Vương Xá rằng: Này
các trưởng giả! Ta sắp nói pháp mầu nhiệm, vì muốn lợi ích cho những ai chưa
biết ơn đức trong đời vị lai. Ơn trong thế gian và xuất thế gian có 4 thứ:
-
Ơn cha mẹ
-
Ơn chúng sanh
-
Ơn quốc vương
-
Ơn Tam bảo
-
Bốn ơn này tất cả
chúng sanh, bình đẳng cõng đội.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Người nào biết ơn,
tuy còn ở trong sanh tử mà căn lành chẳng hư. Kẻ chẳng biết ơn, căn lành diệt
mất. Vậy nên các đức Phật khen ngợi những người biết ơn trả ơn.
-
Kinh Đại Phương Quảng
Bất Tư Nghì Cảnh Giới
-
-
Bấy giờ đức Thế Tôn
bảo các Tỳ kheo rằng: nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đánh kính.
Ơn nhỏ còn chẳng quên, huống chi ơn lớn. Kẻ ấy dầu cách đây trăm ngàn do tuần
cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh
chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống là ơn nhỏ; dầu có gần Ta, Ta
cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên ta, hữu gần Ta đi nữa, người ấy
vẫn như xa ta.
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
-
Người biết ơn sẽ phát
tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, người trả ơn cũng sẽ dạy chúng sanh phát
tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
-
Kinh Đại Phương Tiện
Phật Báo Ân
-
-
Nếu có ai hỏi rằng:
ai là người biết ơn và có thể đã trả ơn? Nên đáp ngay với họ rằng: Đức Phật là
người biết ơn và đã trả ơn vậy. Vì sao thế? Vì tất cả trong thế gian người
biết ơn và đã trả ơn, không ai hơn Phật vậy.
-
Kinh Bát Nhã
-
-
Chẳng nghe vị Địa
thần đã nói sao? "Ta, chở cõi đại địa có tất cả sự vật và sức nặng của núi Tu
di nữa mà ta chẳng nhàm chán nhưng đối với 3 hạng người ta thường ngán lắm.
-
Kẻ ôm tâm phản nghịch
muốn mưu hại vị nhơn vương
-
Kẻ bỏ ơn tôn thân bất
hiếu với cha mẹ
-
Kẻ bác bỏ không cho
có nhơn quả, hủy báng Tam bảo, phá pháp luân Tăng, trở ngại người làm lành.
Những người như vậy trong một giây lát ta cũng không muốn chở họ."
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
B. VUA – TÔI – CHỦ – TỚ
-
Làm vua trị hóa là
khôn khéo dạy khiến bề tôi. Cha dạy con, anh dạy em, chồng dạy vợ, nhà cửa
trong ngoài thân thuộc bằng hữu dạy bảo lẫn nhau, phải đạo làm lành, phụng
kinh trì giới, mỗi người giữ lấy trên dưới kính nhau, không luận sang hèn trai
gái tu giới thanh tịnh thảy đều vui vẻ; phải lẽ hòa thuận, vui vẻ hiếu hiền,
cùng nhau răn dạy.
-
Kinh Đại A Di Đà
-
-
Nước không vua, như
thân không đầu, khó mà sống lâu.
-
Kinh Tự Ái
-
-
Ơn của Quốc vương, vì
Quốc vương là kẻ phước đức cao cả hơn hết, tuy cũng là người sanh ở nhơn gian
mà được tự tại, nên các vị Thiên tử ở cõi trời ba mươi ba thường giúp sức ủng
hộ vậy. Với cả cõi nước sơn hà đại địa và cả ngàn mé biển cả, đều thuộc Quốc
vương, phước đức cao hơn tất cả phước của chúng sanh. Vậy nên vị Đại thánh
vương, lấy chánh pháp mà trị hóa, có thể khiến chúng sanh đều được an vui; ví
như các tòa cung điện, cây cột là cội gốc; nhơn dân no ấm, vua là cội gốc, vì
là của vua vậy.
-
Quốc vương, nếu chẳng
lấy chánh pháp mà trị hóa để làm chỗ nương nhờ cho nhân dân. Nếu lấy chánh
pháp mà trị hóa thời những kẻ xâm lăng ở ngoại nước, kẻ phản nghịch ở trong
nước, và những ác qủy, đ?#243;i khát cùng những khủng bố mưa gió bất thời
không thể có được.
-
Quốc vương xem nhơn
dân như con, ngày đêm chẳng rời lòng lo ủng hộ, thì ơn ủng hộ ấy đáng gọi là
lớn vậy.
-
Vì quốc vương có 10
đức:
-
Soi tỏ: lấy mắt trí
huệ soi khắp thế gian vậy
-
Trang nghiêm: lấy đại
phước trí trang nghiêm nước vậy
-
Ban vui: lấy đại an
lạc cho nhơn dân vui vậy
-
Dẹp oán: hành phục
tất cả oán địch vậy
-
Lìa sợ: có thể đẩy
lui các tai nạn, hết khủng bố vậy
-
Dùng người hiền: là
tập trung các bực Hiền sĩ cùng giúp việc nước vậy
-
Đặt pháp luật: là
nhơn dân ở yên trong cõi nước vậy
-
Trị an: là lấy chánh
pháp duy trì thế gian vậy
-
Nghiệp chủ: là các sự
nghiệp đều thuộc Quốc vương vậy
-
Nhơn chủ: là các sự
nghiệp đều thuộc Quốc vương vậy
-
Tất cả các vị Quốc
vương đều nhờ phước đời trước mới được trọn nên 10 món phước đức thù thắng như
vậy.
-
Nếu có nhơn dân nào
siêng tu lòng thành, để giúp rập cho vị vua có nhơn đức, tôn trọng như Phật,
ấy đời hiện nay yên ổn giàu vui. Cầu muốn việc chi đều được vừa lòng là nhờ ơn
đức của Thánh vương rộng lớn như vậy.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Vua như cha mẹ,
thương mến bình đẳng, người dân như con, trọn bề trung hiếu.
-
Kinh Phật Vị Thắng
Quang Thiên Tử Thuyết Vương Pháp
-
-
Vua lấy lòng lành xem
tất cả nhân dân đã như con, thời tất cả nhân dân đối với nhà vua như cha mẹ.
-
Kinh Thắng Quân Vương
Sở vấn
-
-
Dân lấy vua làm mạng,
vua lấy Pháp làm thân. Thế đạo được hòa bình, Phật Pháp bắt đầu từ đấy.
-
Trong nước có vua,
được mọi sự yên ổn; vậy nên nhà vua phải lấy sự an vui của tất cả chúng sanh
mà làm gốc.
-
Những kẻ xuất gia tại
gia thành tâm tu đạo đều nhờ chánh quốc được duy trì và diễn hóa khắp nơi. Nếu
nhà vua bất lực, công hạnh chẳng thành, chánh pháp bị diệt mất, thời còn đâu
giúp ích? Vậy nên, tu tất cả công đức, một trong sáu phần thuộc về nhà vua.
Câu nguyện cho nhà vua được phước như quả núi, bền vững khó mà sụp đổ.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Vua Nghiêm Xí hỏi Ni
Kiền Tử rằng: "Các ông vua sao gọi tên vua?" Đáp rằng: "Này Đại vương! Vua là
cha mẹ của nhân dân vậy. Hay y Pháp mà nhiếp hộ chúng sanh được an vui vậy,
nên gọi là vua. Đại Vương nên biết, vua mà nuôi dân như mẹ nuôi con đỏ, dời
khô bỏ ướt, không đợi nó đòi. (Khi mẹ con cùng ngủ, con đái , dời con đến chỗ
khô, mẹ nằm chỗ ướt!) Tại sao? Đại Vương phải biết, ngôi vua mà được bền vững
lấy dân làm cõi nước. Lòng dân chẳng an, nước sẽ nguy vậy. Vậy nên làm vua,
thường phải thương dân nghĩ đến dân, như mẹ nghĩ niệm đến đứa con đỏ, lòng
chẳng lúc nào rời bỏ được. Phải biết việc vui, khổ của người dân trong nước,
tùy thời mà thi hành, biết mùa lụt mùa hạn, biết khi gió khi mưa, biết lúc
được mùa mất mùa, biết khi no khi đói, biết có biết không, biết kẻ buồn người
vui, biết kẻ già người trẻ, kẻ bệnh người mạnh, biết đứa ngục tù, người kiện
tụng, biết kẻ có tội, người không tội, biết tội nhẹ tội nặng.
-
Nếu đối với các bậc
Vương tử, đại thần, bách quan, biết kẻ nào có công người nào không công
v.v...Biết như vậy gọi là bất ly tâm.
-
Đại vương! Phải biết,
nhà vua với trong nước thì biết như vậy rồi, dùng thế lực mà ủng hộ. Kẻ đáng
thưởng phải thưởng kịp thời, kẻ đánh phạt phải cân nhắc cho kỹ lưỡng. Những kẻ
quan lại cũng phải biết thời, chẳng nên cướp đoạt quyền lợi của dân; nghiêm
cấm tham lam bạo ngược. Người dân được yên vui, ấy là nhiếp hộ. Mới đáng gọi
là vua."
-
Vua lại hỏi nữa rằng:
"Lấy những pháp gì gọi là Vương luận, khiến các Tiểu vương nương nơi luận pháp
kia mà trị nước an dân, gọi là như pháp có thể nhiếp hộ chúng sanh?"
-
Ngài Ni kiền Tử đáp:
"Đại vương! Bỏ các tâm điên đảo tham lam, bỏ các tâm điên đảo giận dữ, bỏ các
tâm điên đảo ngu si rồi: y đối trị, y thiệt thế, y sai biệt, y lợi ích. Y đối
trị và thiệt thế là pháp bị đối trị vậy; có chỗ gọi nó là cội gốc bất tham,
bất sân và bất si. Làm sao có thể phát khởi được pháp bị trị và hay trị? Pháp
bị trị ấy là tâm buông lung và tâm vô từ. Còn pháp hay trị là nhà vua phải tu
pháp hạnh có tâm chẳng buông lung và tâm đại từ bi, nhận biết thân mạng và sự
vật giúp sống đều là vô thường, tự quan sát bản thân thấy các tội lỗi hiểu
biết đúng sự thật mà thọ dụng các vật cần thiết giúp cho sự sống.
-
Nhà vua tu pháp hạnh
tuy được tự tại tự do nhưng chẳng nên làm những điều phi pháp; được như vậy
gọi là tâm chẳng buông lung.
-
Đại vương! Phải biết
y cứ theo phép vương luận, thì chẳng nên được của, có được cũng chẳng nên lấy,
tuy là được của hợp lý mà phi thời cũng chẳng nên lấy. Nếu y theo thời tiết
được của hợp lý đối với kẻ nghèo cùng khốn khổ cũng chẳng nên lấy. Đến như
những nạn gươm giáo, nạn giặc giã, nạn phản nghịch, nạn hại nhau; lúc có những
nạn như thế thời nhà vua nên khởi từ tâm chẳng sợ nguy hiểm đến bản thân mà hộ
các chúng sanh.
-
Với kẻ nghèo cùng cho
họ cơm áo. Với kẻ bạo ác, dạy họ pháp lành, ấy gọi là từ tâm.
-
Đại vương! Phải biết:
y cứ theo hai pháp này, mới gọi là nhà vua tu pháp hạnh, chính là để hộ trì
cho chúng sanh, là có tâm bất phóng dật, tâm đại từ bi vậy.
-
Kinh Ni Kiền Tử
-
-
Vua hỏi Đại sư rằng:
"Vua tu pháp hạnh đã có tâm từ bi, làm sao có thể trị những chúng sanh còn
ác?"
-
Đáp rằng: "Nhà vua tu
pháp hanh nếu cần trị chúng sanh làm ác trước phải khởi từ tâm lấy trí huệ xem
xét và suy nghĩ 5 pháp, nhiên hậu mới trị. Những gì là năm?
-
Y sự thật, chớ nên y
bất thật
-
Y theo thời, chẳng
nên y bất thời
-
Y nghĩa, chẳng nên y
vô nghĩa
-
Dùng lời mềm dịu chớ
nên dùng lời xẳng xóm
-
Y từ tâm, chớ nên y
sân tâm mà trị."
-
Nhà vua hỏi thêm Ngài
Ni kiền Tử rằng: "Vua tu pháp hạnh làm sao trị những chúng sanh khởi nghịch?"
-
Đáp rằng: "Này Đại
Vương! Nhà Vua tu pháp hạnh, trước lấy điều lành mà dạy, đúng như pháp mà chỉ
vẽ, nếu nghe theo mệnh lệnh mà bỏ nghịch tâm, xin lỗi xin tội với vua, thời
Vua đại ân xá, tha thứ trọng tội, cho an trí ở một nơi nào trong nước mà chẳng
nên diệt mạng, chẳng đoạt của và cũng chẳng cần đuổi ra khỏi nước. Vì sao thế?
Vì muốn khiến Vua biết có ba điều: 1. Có đức tin. 2. Có ơn. 3. Có đại lực, để
khiến cho những kẻ chưa hàng phục phải hàng phục; kẻ đã hàng phục chẳng dám
tái phạm, kẻ muốn phản nghịch chẳng dám manh khởi.
-
Đại Vương phải biết
những kẻ có tội mà được khởi tội lại được phục chức vị cũ thời nhơn dân được
yên ổn vậy. Những nhà Vua đúng như pháp mà trị hóa thời đuợc phước vô lượng,
tiếng tăm đồn khắp. Nếu kẻ bị tội được mệnh lệnh Vua mà chẳng chịu phục tội
thời phải trị cho xứng đáng, nhưng đừng giết chết hay làm tổn hại thân thể mà
chỉ nên tịch thu tài sản và đày ra khỏi nước, để làm gương cho kẻ khác chẳng
dám khởi nghịch tâm mà thôi.
-
Đại Vương phải biết!
Như vậy là Vua tu pháp hạnh mà trị tội những kẻ khởi nghịch.
-
Kinh Ni Kiền Tử
-
-
Nếu có vị Hiền Vương
sáng sớm dậy, trước vào Đạo tràng, kính lễ Thánh Hiền cầu nguyện phúc lành,
cúng lạy Tổ tông, trả đền ân đức; dạy dân hiếu kính thầm ích cho muôn dân.
-
Xong rồi mới lâm
Triều cùng với các Đại thần mà lo việc nước, và phê chuẩn, xong hai việc này
rồi mới dùng bữa. Dùng bữa xong mới đi tắm rửa, và dạo chơi hoa viên.
-
Đến buổi chiều, bày
hội đàm luận ở Vương cung, mời các vị Sa Môn, Bà La Môn có Đại trí huệ trong
nước đến diễn thuyết Chánh pháp cho Vua nghe và Vua hỏi han các điều thiện ác,
chánh tà và việc gì đáng làm, việc gì chẳng đáng làm. Rồi mới triệu tập các vị
Cựu Thần có tài đức, và những kẻ ẩn dật có kiến thức cao xa, nhà Vua dọ hỏi
việc quốc chánh để cho họ bình luận việc đắc việc thất. Như vậy là Vua tự tỉnh
thức, phước đức của Vua càng tăng thêm rồi mới hàng phục các nước láng giềng,
được bầy tôi tôn kính, trong ngoài một lòng.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Hễ lên ngôi quốc
vương phải tu 5 điều:
-
Lãnh trị muôn dân
không có oan uổng, nhũng lạm
-
Nuôi dưỡng tướng sĩ
tùy thời thăng thưởng
-
Tu niệm pháp lành,
phước đức nối luôn
-
Phải tin những lời
can gián của bậc trung thần chánh trực, đừng nghe kẻ sàm nịnh mà thương tổn
đến bậc chánh trực quốc sĩ.
-
Phải tiết độ việc
tham dục, tâm chẳng buông lung
-
Tu năm điều này tiếng
thơm khắp bốn biển, phước lộc tự đến. Trái lại chẳng tu năm điều này thời các
pháp luật chẳng thi hành được, nhơn dân nghèo cùng mưu loạn, tất nhiên tướng
sĩ phải mệt nhọc thế lực suy yếu; bấy giờ các vị phước thần không ủng hộ, bởi
Vua mà hỏng việc lớn; các bực trung thần chẳng can gián; tâm nhà Vua càng
buông lung, việc nước phế bỏ, thời nhơn dân lắm điều oán thán.
-
Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
-
Đức Phật nói: Ngày
xưa nước Ca Thi có ông Vua tàn ác, làm những điều phi pháp khiến trăm họ khốn
khổ. Bấy giờ có vị Hiền giả muốn can gián nhà Vua bằng cách dạy chim anh võ
nói rằng: "Làm Vua mà có bảy điều phi pháp thời thân Vua nguy vậy:
-
Say mê nữ sắc, chẳng
kính bậc chơn chánh
-
Say rượu, chẳng
thương quốc dân
-
Tham cờ bạc, chẳng tu
lễ kính
-
Săn bắn sát sanh,
không lòng từ bi
-
Ưa nói lời dữ, chẳng
nói lời lành
-
Nặng sưu dịch, lại
thêm hình phạt biếm trích
-
Cướp đoạt của dân
chẳng nhằm nghĩa lý
-
Bảy điều phi pháp
thân Vua nguy khốn."
-
Lại nữa:
-
Gần gũi những kẻ gian
ác tà nịnh
-
Chẳng tin những kẻ
hiền lương
-
Háo chiến nước người,
chẳng nuôi nhơn dân
-
Ba việc phi pháp này
là nước nguy vậy. Nếu Vua chẳng trừ bỏ các phi pháp nói trên, thời trong một
mai chiều sẽ khuynh quốc, bại thân.
-
Là kẻ làm Vua, cả
nước đều nhờ, như chiếc cầu muôn người nhờ qua lại; như cái cân, đối với kẻ
thân người sơ đều công bình; như mặt trời, soi khắp thế gian; như mặt trăng,
cho muôn vật mát mẻ; như cha mẹ, ơn lành nuôi dưỡng thương mến; như trời che
khắp tất cả; như đất chở nuôi muôn vật; như lửa đốt trừ ác hoạn và như nước
thấm nhuần muôn dân.
-
Nhà vua nghe chim anh
võ nói như trên, rất hổ trẽn, về sau tu chánh hạnh. Do đó mà chánh giáo được
thịnh hành trong nước. Và cũng nhờ đó mà tiếng xấu tiêu diệt, từ đây trở đi bà
phu nhơn và các bề tôi đều trung thành cung kính nhà Vua, muôn dân đều vui
mừng.
-
Kinh Tạp Bảo Tạng
-
-
Chủ nhà xem sóc tôi
tớ có 5 điều:
-
Phải thường cấp cho
cơm áo, mền mùng
-
Đau ốm phải mời thầy
thuốc trị chữa
-
Chẳng nên đánh đập
quấy quá
-
Nó có của riêng chẳng
nên cướp lấy
-
Khi phân chia vật gì
phải bình đẳng
-
Tôi tớ đối với chủ
nhà cũng có 5 điều:
-
Phải dậy sớm, đừng để
chủ nhà gọi
-
Việc nên làm tự động
làm ngay
-
Phải yêu tiếc vật của
chủ
-
Khi chủ đi, về phải
lo đưa, đón
-
Phải khen ngợi điều
hay của chủ, chẳng nên nói việc xấu
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Chủ nhà đối với những
kẻ tôi tớ giúp việc: Sai khiến cho vừa sức; thường cho cơm áo; cho vật ngon;
ban lời dạy; khi đau ốm cho nghỉ việc. Ấy là năm điều mà chủ nhà cần có vậy.
-
Làm khéo, làm khéo mà
nên việc, biết phục thiện, tối đến ngủ, sáng dậy sớm, học tập, làm việc siêng,
chủ nhà nghèo cũng đừng khinh, những lúc thiếu thốn, cũng chẳng bỏ nhau, và đi
ra khỏi cửa thời khen ngợi chủ nhà. Ấy là 10 điều mà kẻ tôi tớ cần phải có.
Chủ tớ được như vậy thế thời việc lành chẳng suy bại.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
C. KHEN NGỢI HIẾU LÀNH
-
Điều lành cao tột
chẳng gì bằng hiếu. Điều cực ác là bất hiếu vậy.
-
Kinh Nhẫn Nhục
-
-
Đặng ngọc báu cao từ
dưới đất lên đến cõi trời 28, lấy đem bố thí cho người được phước báo chẳng
bằng cúng dường cha mẹ.
-
Kinh Mạt La Mạt
-
-
Thờ cúng trời đất quỉ
thần chẳng bằng hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ là hai vị Thần sống cao tột vậy.
-
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương
-
-
Gặp đời không có
Phật, nếu biết khéo phụng sự cha mẹ tức là phụng sự Phật vậy.
-
Kinh Đại Tập
-
-
Quả báo công đức thỏa
thuận cúng dường cha mẹ ngang với công đức của vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ vậy.
-
Kinh Tăng Nhất A Hàm
-
-
Đức Phật nói: Chẳng
những ngày nay Ta mới khen ngợi hạnh từ hiếu mà trong vô lượng kiếp về trước
Ta cũng khen ngợi nhiều rồi!
-
Kinh Tạp Bảo Tạng
-
-
Nương nhờ ơn nuôi
dưỡng của hai vị Từ Phụ và Bi mẫu cho nên tất cả các con trai gái đều được an
vui. Thế là ơn cha cao như núi Chúa, ơn mẹ sâu như bể cả.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Dù cho có người một
vai cõng cha, một vai cõng mẹ, đến trọn đời mà chẳng phút xa lìa, và cung cấp
áo cơm thuốc men, các món cần dùng. Như thế cũng chưa có thể gọi là đã trả
xong ơn sâu nặng với cha mẹ.
-
Kinh Bổn Sự
-
-
Cha mẹ với con có 5
điều:
-
Khiến con bỏ ác làm
lành
-
Lấy sách vở dạy cho
con
-
Cho con trì kinh giới
-
Cưới vợ cho con
-
Gia tài phải để lại
cho con hết.
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Phật nói: Ơn cha mẹ
thương con, Ta ở đời này lâu đến một kiếp nói cũng khó hết. Ta nay chỉ nói một
phần ít thôi. Nay ông Trưởng giả: nếu có người giàu có mời một trăm Thầy Bà La
Môn tịnh hạnh, một trăm vị Thần tiên và 100 người bè bạn đến vào trong ngôi
nhà làm bằng bảy thứ ngọc sang trọng mà bày tiệc cúng dường đầy đủ trăm ngàn
món ăn ngon tột bực, nơi phòng nghỉ, treo chuỗi anh lạc và dùng các giường
mùng, mền gối và trăm thứ ngọc báu để trang hoàng; lại dùng thứ thuốc bạch
được để trị bịnh. Nuôi như thế mãn trăm ngàn kiếp mà chẳng bằng phát khởi một
niệm lòng hiếu thuận dùng chút ít vật chất cúng dường cha mẹ và theo bên hầu
hạ.
-
Bà mẹ hiền thương
con, thật không biết lấy vật gì để so sánh cho cân xứng vậy. Từ khi con vào
thai, trải qua thời gian mười tháng những lúc mẹ đi, đứng, ngồi, nằm, chịu
trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo
mặc, dù có được mẹ cũng chẳng mừng vì lòng lo lắng không khi nào dứt, chỉ lo
nghĩ đứa con sắp sanh sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thời như
trăm ngàn mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân; nếu khi sanh đẻ được an lành,
bà mẹ với các thân thuộc cùng chung vui sướng in như kẻ nghèo được ngọc báu;
sự đau khổ trong mười tháng của mẹ do một tiếng khóc đầu tiên của đứa con khi
mới lọt lòng mà nổi khổ ấy mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con
lấy nơi bụng ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế là chỗ dạo chơi và do nước
giêng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi! Ơn đức của mẹ, núi cao biển
sâu cũng chẳng thể sánh kịp. Nếu đứa con nào biết tùy thuận nghe theo những
lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái nghịch thời được các chư thiên hộ niệm,
phước đức vô cùng. Nếu có kẻ trai lành gái thiện nào muốn trả ơn cha mẹ, trải
qua thời gian một kiếp, cứ mỗi ngày ba lần từ cắt thịt nơi thân đem nuôi cha
mẹ cũng chưa có thể gọi là đã trả ơn được một ngày vậy.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Người trong thế gian
ai giàu hơn hết ai nghèo hơn hết? Bi mẫu sống còn gọi là giàu có; Bi mẫu qua
đời gọi là nghèo khổ. Khi còn bị mẫu gọi mặt trời trưa; bi mẫu qua đời gọi mặt
trời lặn. Khi còn bi mẫu, gọi đêm trăng sáng, bi mẫu qua đời là đêm không
trăng. Vậy nên các người siêng năng tu tập hiếu thuận nuôi dưỡng hai đấng Từ
thân. Những người như vậy, được phước ngang như phước cúng như Phật không chút
hơn kém.
-
Kinh Tâm Địa Quán
-
-
Phàm là con thảo phải
lấy năm việc kính thuận cha mẹ. Những gì là năm?
-
Cúng dường đầy đủ
đừng để thiếu thốn
-
Phàm làm việc gì,
phải trước thưa cha mẹ
-
Cha mẹ có làm, kính
thuận chẳng nghịch
-
Chánh lịnh cha mẹ,
chẳng dám chống trái
-
Cha mẹ có làm, chánh
nghiệp chẳng dứt
-
Kinh Trường A Hàm
-
-
Con thờ cha mẹ phải
có năm điều:
-
Phải lo sanh kế
-
Dậy sớm sai khiến tôi
tớ lo làm cơm nước cho kịp thời
-
Chẳng nên làm cha mẹ
lo thêm
-
Phải nhớ ơn cha mẹ
-
Khi cha mẹ có bệnh,
phải lo sợ liền mời thầy chửa thuốc kịp thời
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Đạo làm con đối với
cha mẹ có năm việc:
-
Lo gia sự
-
Lo trả nợ nần
-
Phải hiểu lời dạy
-
Cúng dường
-
Làm sao cho cha mẹ
vui
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Cung phụng đồ ăn uống
và châu báu chưa đủ trả được ơn cha mẹ. Hướng dẫn cha mẹ xoay về chánh pháp
mới là báo hiếu.
-
Kinh Bất Tư Nghì
Quang
-
-
Nếu cha mẹ không tin,
khuyên phát khởi lòng tin; nếu chưa có giới pháp, khuyên thọ trì giới pháp;
nếu tánh tình bủn xỉn, khuyên tu hạnh bố thí; nếu không trí huệ, khiến kia tu
trí huệ. Làm con được như thế, mới được gọi là trả ơn.
-
Luật Tỳ Na Da
-
-
Bầy giờ đức Thế Tôn
bảo Ưu bà Di rằng: Ngày trước Ta đi xuất gia, Ta có tâu thề với Phụ Vương Ta
rằng, khi nào chứng được Phật đạo sẽ trở về độ cha mẹ. Thế là nay Ta đã chứng
được Phật đạo và công đức thành tựu, quyết phải trở về nước, chẳng dám trái
lời tâm hứa ngày trước.
-
Kinh Phổ Diệu
-
-
Khi vua Tịnh Phạn lâm
bệnh nặng, Ngài nghĩ muốn thấy mặt các con một lần chót.
-
Bây giờ đức Phật ở
tại thành Vương xá cách chừng năm mươi do tuần. Phật mới bảo A Nan, Nan Đà và
La Vân liền dùng thần túc mà về vương cung. Rồi ngài phóng hào quang sáng rực
soi khắp thân Phụ vương thì bịnh tình được thuyên giảm chút ít; và Ngài lại
lấy tay rờ trên trán Phụ vương mà an ủi rằng: Phụ vương là người tu tịnh giới,
đã diệt sạch tâm phiền não cấu nhiễm; nay Phụ vương nên vui mừng và nghĩ nhớ
lời kinh pháp.
-
Đức Phụ vương nghe
nằm chắp tay đem tâm mà kính lễ! Liền lát sau Ngài thăng hà. Các Thích tộc và
triều đình lo việc tẩn liệm vào quan tài và đem quan tài tôn trí trên tòa sư
tử.
-
Đức Phật và ngài Nan
Đà nghiêm chỉnh đứng trước linh xa; ngài A Nan và La Vân đứng sau linh xa. A
Nan quì thưa Phật rằng: cho tôi xin gánh quan tài Bá phụ; La Vân cũng xin với
Phật cho mình gánh quan tài ông nội. Đức Thế Tôn nói lời an ủi: con người sau
nầy đều là hung bạo, bất hiếu chẳng biết trả ơn dưỡng dục của cha mẹ, Ta vì
chúng sanh bất hiếu ấy mà bày ra phương pháp để giáo hóa. Rồi Như Lai đích
thân gánh quan tài phụ vương và tự tay bưng lư hương đứng trước mà đi đến nơi
Lăng mộ!
-
Đức Như Lai kiếp
trước ở trong sanh tử, thời gian như vậy nhiều như số vi trần không thể nghĩ
bàn được, và trong hình loại tất cả chúng sanh chịu đủ mọi thân hình. Vì chịu
nhiều thân hình nên tất cả chúng sanh đã từng làm cha mẹ đức Như Lai, và Như
Lai cũng đã từng làm cha mẹ tất cả chúng sanh. Vì từng làm cha mẹ tất cả chúng
sanh nên thường tu những khổ hạnh khỏ tu, hay bỏ những vật khó bỏ. Siêng tu
tinh tấn, trì giới, bố thí, đa văn, thiền định, trí huệ cho đến đầy đủ tất cả
muôn hạnh, chẳng nghỉ chẳng thôi, tâm không mệt mỏi. Vì hiếu dưỡng cha mẹ,
biết ơn trả đức nên ngày nay được chóng thành tựu quả vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
-
Kinh Đại Phương Tiện
Phật Báo Ân
-
-
Phật bảo A Nan rằng:
Đời trước, khi Ta làm con là nhơn hiếu; khi làm vua là từ dục; khi làm dân là
kính phụng. Do đó mà tự gây nên đấng cao cả trong ba cõi.
-
Kinh Viêm Tử
-
-
D. ĐẠO THẦY TRÒ
-
Kẻ Thiện tri thức nói
lời đúng pháp, đúng như lời nói mà làm. Thế nào gọi là nói đúng pháp, và đúng
như lời nói mà làm? Nghĩa là tự mình chẳng sát sanh, chẳng dạy người khác sát,
cho đến tự mình tu chánh kiến và dạy người cũng tu chánh kiến; nếu ai được như
vậy, mới được gọi là chơn chánh Thiện tri thức. Lại nữa tự tu đạo Bồ Đề và dạy
người cũng tu Bồ Đề, vì nghĩa ấy nên gọi là Thiện tri thức. Hoặc là tự có thể
tu hạnh tín, giới, bố thí, đa văn, trí huệ và cũng có thể dạy người tu hành
tín, giới, bố thí, đa văn, trí huệ, vì những lẽ đó mà gọi là Thiện tri thức.
Kẻ thiện tri thức cần phải có pháp lành. Pháp lành gì? Là việc mình tự chẳng
cầu vui cho mình mà thường vì cầu vui cho chúng sanh. Khi thấy người có lỗi
mình chẳng nên nói điều dở mà thường nói điều trọn lành. Bởi những nghĩa đó mà
gọi là Thiện tri thức.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Nếu ai gần gủi Ác tri
thức, đời nầy chẳng được tiếng tăm tốt, bởi vì gần gủi bạn bè xấu, đời sau sẽ
đọa ngục A Tỳ. Ai mà gần gủi Thiện tri thức, hiện tại dầu chẳng được chúng lợi
thế gian, đời sau sẽ được hết nhân khổ.
-
Kinh Phật Bổn Hạnh
-
-
Cần cầu kẻ Thiện tri
thức, thân tâm đừng sanh mệt mỏi, thấy Thiện tri thức đừng sanh lòng nhàm
chán; học hỏi với Thiện tri thức, đừng sợ khó nhọc; gần gủi Thiện tri thức
đừng thối lui, cúng dường Thiện tri thức đừng cho gián đoạn; tùy thuận theo
lời dạy dỗ của Thiện tri thức mà đừng chống trái; những công đức của Thiện tri
thức, đừng sanh lòng nghi; khi Thiện tri thức diễn nói, phải quyết định mở cửa
lòng xuất ly mà nghe; nhân thấy Thiện tri thức tùy thuận theo hạnh phiền não,
đừng sanh lòng hiềm quái. Đối với Thiện tri thức phải lòng tin vững chắc đừng
biến đổi. Tại sao? Vì Bồ tát nhờ Thiện tri thức mà được học hỏi các hạnh Bồ
Tát. Do đó mới được thành tựu tất cả công đức của Bồ tát và được xuất sanh đại
nguyện cùng là trí huệ quang minh rực rỡ. Và cũng nhờ đó mới được dẫn phát
thiện căn Bồ tát và chứng được Đạo quả Như Lai bồ đề, để nhiếp lấy hạnh mầu
nhiệm và sức tự tại cùng là xuất sanh sức đại từ đại bi của Bồ tát vậy.
-
Nầy Thiện nam tử! Bồ
tát nhờ sự giúp đỡ của Thiện tri thức mà chẳng sa đọa ác thú; nương nhờ sự
thành tựu của Thiện tri thức mà được tự tại thọ sanh; nương nhờ sức mạnh của
Thiện tri thức mà phá tan nghiệp báo; nhờ mặc áo giáp nhẫn nhục của Thiện tri
thức mà chẳng bị một lời nói xấu ác; và nương nhờ sự sanh trưởng của Thiện tri
thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn vậy.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Đức Phật dạy: kẻ nào
biết ơn thầy, khi có thầy thì lo phụng sự; khi vắng thầy thời lo suy nghĩ
những lời thầy đã dạy bảo; giống như kẻ hiếu tử nghĩ nhớ cha mẹ, và như người
đói khát nhớ nghĩ đến việc uống ăn.
-
Kinh Trang Tâm
-
-
Là kẻ Sư trưởng cần
lấy 5 điều mà đối xử với đệ tử:
-
Tùy thuận theo phép
điều ngự
-
Dạy những điều mà trò
chưa biết
-
Tùy theo sự nghe biết
của trò mà khiến cho hiểu thấu căn lành
-
Chỉ kẻ hiền lành cho
trò kết bạn
-
Đem hết chỗ hiểu biết
của mình mà dạy trao cho trò không nên lẫn tiếc
-
Kinh Trường A Hàm
-
-
Thầy dạy đệ tử có 5
điều:
-
Khiến trò mau hiểu
-
Dạy trò giỏi hơn đệ
tử của kẻ khác
-
Phải dạy trò biết rồi
nhớ mãi chẳng quên
-
Phải giải nói các
điều nghi nan cho trò hiểu rõ
-
Muốn khiến trí huệ
của trò cao hơn mình
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Hay khiến học hay dạy
bảo, khiến học siêng năng đem về đạo lành, cho trò làm với kẻ hiền hữu. Ấy là
năm điều mà thầy đối với trò vậy.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Đệ tử kính phụng sư
trưởng cũng có 5 điều:
-
Phải hầu hạ
-
Lễ kính cúng dường
-
Tôn trọng trên đầu cổ
-
Những lời thầy dạy
bảo phải cung kính tùy thuận, chớ không được chống trái
-
Khi đi theo thầy nghe
được điều gì hay, khéo nhớ giữ gìn, chớ bỏ lãng quên
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Đệ tử thờ thầy phải
có 5 điều:
-
Kính mến là khó gặp
-
Phải nhớ ơn thầy
-
Nghe theo lời dạy
-
Nghĩ nhớ chẳng nhàm
-
Khi đi theo sau hầu
hạ phải khen ngợi điều hay của Người
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Lóng nghe cho chắc,
ưa học hỏi, siêng làm việc, không phạm lỗi, cúng dường thầy. Ấy là năm điều đệ
tử thờ thầy vậy.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Phàm là kẻ đệ tử, mỗi
khi thấy thầy tức thì đứng dậy.
-
Luật Căn Bổn Tỳ Na Da
-
-
Đệ tử theo thầy đi,
chân chẳng nên đạp nơi bóng thầy.
-
Kinh Sa Di Giới Luật
-
-
Đệ tử, khi tham học
với thầy phải tránh 6 chỗ:
-
Chẳng nên đứng trước
mặt
-
Chẳng nên đứng sau
lưng
-
Chẳng nên đứng quá xa
-
Chẳng nên đứng quá
gần
-
Chẳng nên đứng chỗ
cao hơn chỗ thầy
-
Chẳng nên đứng hướng
trên gió
-
Luật Thiện Kiến Tỳ Bà
Ta
-
-
Phật dạy: đứa ác muốn
hại kẻ hiền, như ngửa miệng lên trời khạc nhổ, khạc chẳng đến mà rơi lại nơi
mình. Lại như kẻ đứng đầu gió lấy chân quấy bụi, bụi chẳng đến người mà đã dơ
thân mình. Người hiền không thể hủy hoại lại diệt mình.
-
Có người nghe Phật
giữ Đạo, tu Đại nhơn từ, họ cố ý đến mắng Phật, Phật làm thinh không phản ứng.
Họ mắng đã rồi thôi.
-
Phật hỏi: ngươi đem
lễ vật cho người ta, người ta không nhận lễ vật ấy trở về ngươi chớ sao? Người
kia đáp: phải. Phật nói: khi nãy ngươi mắng Ta mà Ta không nhận, ngươi tự đem
họa ấy về nơi thân người: giống như vang ứng theo tiếng, như bóng hiện theo
hình, quyết không sai một mảy. Ngươi cẩn thận chớ làm ác.
-
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương
-
-
A Nan thưa Phật rằng:
người đời và đệ tử Phật khinh rẻ bực Thầy và họ đem ác tâm đến bậc Thầy và
người đạo đức thì tội ấy thế nào?
-
Phật bảo A Nan rằng:
là con người thời phải ưa mến đức của người khác và vui mừng điều lành của họ,
chẳng nên ganh tị. Còn như đem ác tâm đến bậc Thầy và người đạo đức thì cũng
như đem ác tâm đến Phật không khác chi cả. Ví phỏng đem cái cung nặng một vạn
tạ bắn vào thân mình chừng có đau hay không? A Nan thưa: thật đau lắm đau lắm.
Phật nói: người có ác ý đem đến người đạo đức cùng là bậc Thầy hãy còn đau hơn
gấp mấy lần cái mũi tên kia bắn vào thân minh.
-
Là kẻ đệ tử chẳng nên
khinh dễ bậc Thầy và đem ác ý đến kẻ đạo đức. Người có đạo đức phải xem họ như
Phật chớ chẳng nên ganh tị hủy báng. Người có giới đức cảm động đến các Thiên
long qủy thần không một vị nào chẳng cung kính.
-
Thà lao mình vào đống
lửa, cẩn thận chớ nên ganh tị và hủy báng kẻ thiện nhơn, tội ấy chẳng phải nhỏ
nhen, cho nên phải cẩn thận lắm.
-
Kinh A Nan Vấn Sự
Phật Cát Hung
-
-
Đệ tử có 5 việc mới
nên quở mắng:
-
Bất tín
-
Biếng nhác
-
Ác khẩu
-
Tâm không biết xấu hổ
-
Gần gũi ác tri thức
-
Phật nói: chỉ phạm
một trong năm món vừa kể trên cũng nên quở mắng.
-
Có Tỳ kheo thưa Phật
rằng: quở mắng cách nào? Phật đáp: có 5 pháp:
-
Chẳng nói năng với
hắn
-
Chẳng dạy trao gì hết
-
Cho thọ dụng chẳng
đồng đều
-
Chẳng dạy cho việc
lành
-
Chẳng cho ở chung một
nhà
-
Trong 5 pháp nầy tùy
theo trường hợp mà dạy quở.
-
Luật Hữu Bộ Căn Bổn
Tỳ Nại Da
-
-
A Nan thưa Phật rằng:
bực Thầy có quyền la mắng đệ tử, tội nhỏ cho là to, chừng như Thầy có lỗi hay
không?
-
Phật đáp: không nên
không nên! Đạo nghĩa Thầy trò phải lấy đạo cảm hóa tự nhiên, phải cùng nhau có
lòng tin cậy thân hậu; xem trò như mình, việc chi mình chẳng muốn làm, đừng
trách sao trò không làm. Phải lấy đạo đức rộng dạy: kính trọng, lễ phép cho
trò, phải thuận hòa trung tiết, không nên đem lòng oán trách kiện cáo cùng
nhau. Kẻ đệ tử cùng Thầy hai bên đều chân thành: bực Thầy cho ra bực Thầy, kẻ
làm trò cho đáng kẻ làm trò thì mới được.
-
Kinh A Nan Vấn Phật
Sự Cát Hung
-
-
E. BẰNG HỮU THIỆN ÁC
-
Đức Thế Tôn với ngài
trưởng lão Nan Đà cùng nhau đi vào trong thành Ca tỳ la bà tộ. Đi đến gần một
nhà buôn cá. Phật bảo Nan Đà rằng: Ngươi vào trong nhà buôn cá kia xin lấy một
nắm cỏ tranh mà họ thường tủ trên cá chết.
-
Nan Đà vâng lời làm
theo. Rồi đức Phật bảo Nan Đà cầm theo một lát rồi sẽ vất nó đi. Nan Đà y lời
cầm đi theo một đỗi rồi mới vất xuống đất.
-
Bấy giờ đức Phật bảo
Nan Đà: ngươi ngửi tay ngươi coi có nghe mùi chi không? Nan Đà thưa: dạ có mùi
bất tịnh hôi tanh. Phật liền dạy Nan Đà rằng: Thiệt đúng vậy đó. Nếu người nào
gần gũi với bọn ác tri thức giao kết làm bè bạn trong chừng giây lát thời ác
nghiệp nhiễm thành thói quen, tiếng xấu người ấy bị đồn khắp.
-
Đức Thế Tôn lại cùng
với trưởng lão Nan Đà đi gần đến nhà làm nhang, Ngài bảo Nan Đà: Ngươi vào nhà
kia xin một bao nhang đem đây. Nan Đà vâng lời vào nhà xin lấy một chiếc bì họ
đã đựng nhang cầm ra. Phật bảo: Ngươi cầm một lát rồi sẽ vất nó đi. Nan Đà y
lời cầm một lát rồi vất xuống đất.
-
Bấy giờ Phật mới bảo
Nan Đà: Ngươi tự ngửi tay ngươi coi có nghe mùi chi chăng? Nan Đà thưa rằng:
Dạ thưa Thế Tôn! Tay con có mùi thơm ngạt ngào thật không thể tả được. Đức
Phật bảo: Thật vậy! Nếu ai gần gũi với kẻ Thiện tri thức thường tự tùy thuận
thấm nhuần đạo đức của họ thời được tiếng tăm tốt đẹp.
-
Kinh Phật Bổn Hạnh
-
-
Chỗ đất có miếng giấy
cũ, Phật bảo Tỳ kheo lại nhặt. Tỳ kheo vâng lời lại nhặt lấy. Phật hỏi miếng
giấy chi vậy? Dạ thưa miếng giấy bao hương, tuy bị bỏ đã lâu mà mùi hương vẫn
còn thơm.
-
Thầy trò đi một đỗi
nữa lại gặp một khúc giây. Phật bảo Tỳ kheo lại nhặt, rồi Phật hỏi giây chi
đó? Dạ thưa giây chi không biết, mà người ta dùng buộc cá, nên có mùi tanh
hôi.
-
Phật nói: hai vật ấy
trước kia sạch sẽ chẳng có mùi gì mà vì nhơn duyên nên mới có thơm, thúi khác
nhau. Gần kẻ hiền minh thời hấp thụ được nhiều đạo nghĩa, mà bạn với đứa ngu
ám thời tai họa chắc đến thân. Cũng in như 2 vật giấy kia đựng hương thời thơm
mà buộc cá thời hôi; nó thấm nhiễm dần dần mà tự nó nào có hay biết.
-
Kinh Pháp Cú Thí Dụ
-
-
Phật dạy: Này Thiện
Sanh! Làm bạn với đứa trộm, có bốn điều ác: tham của người khác; cho ít trong
nhiều, vì sợ nên học tập, vì lợi nên học tập.
-
Bạn với đứa vọng ngữ,
cũng có 4 điều: bày tỏ việc riêng của người, việc riêng của mình dấu mất,
trước mặt khen hay, sau lưng chê dở.
-
Bạn với đứa tin tà
giáo, cũng có bốn điều: nó dạy mình sát sanh, dạy ăn trộm, dạy tà dâm và dạy
mình dối trá.
-
Trái lại bạn với kẻ
đồng tâm, khi khổ vui có mặt với nhau có bốn điều lành: họ cho mình của báu,
cho điều lợi, cho của nhà sẵn có, cho lời nói trung thật.
-
Bạn với kẻ siêng năng
sự nghiệp cũng có bốn điều lành: lấy lợi làm sự nghiệp, lấy sức mạnh làm sự
nghiệp, hoặc mình có buông lung thì họ can gián, và lấy điều lành làm sự
nghiệp.
-
Và lại bạn với kẻ
nhơn từ cũng có bốn điều lành: được họ khuyên dạy thành tín, thành giới, thành
văn và thành thi.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Phật dạy: Ác tri thức
có 4 bọn:
-
Bên trong ôm oán tâm,
mà bên ngoài gắng gượng làm ra vẻ bạn tri thức
-
Trước mặt nói tốt mà
sau lưng nói xấu
-
Lúc mình có việc gấp,
đối trước mặt bộ sầu khổ mà sau lưng thì vui mừng
-
Bề ngoài giả làm như
thân hậu mà bề trong toan mưu gây oán
-
Thiện tri thức cũng
có 4 thứ:
-
Bề ngoài hình như
không tốt, mà bên trong có ý tốt
-
Thẳng thắn can gián
ngay trước mặt mà sau lưng thì vẫn nói điều tốt của bạn
-
Những khi đau ốm,
hoặc bị huyện quan đòi hỏi, hay phải đi chinh chiến thời lo lắng tìm hết cách
che chở giải cứu.
-
Thấy kẻ nghèo cùng
không nỡ bỏ qua, thường nghĩ tìm phương tiện khiến cho được giàu có
-
Ác tri thức cũng có 4
thứ:
-
Khó can gián hiếu dụ
khiến họ làm lành vì họ cố ý lân la với kẻ ác
-
Muốn khiến họ đừng bè
bạn với kẻ ưa rượu mà họ cố ý lân la với bợm nghiện rượu
-
Muốn khiến họ tự giữ
mình, nhưng họ lại càng sanh đa sự
-
Muốn khiến họ làm bạn
với kẻ hiền, mà họ cố ý với kẻ ác
-
Thiện tri thức cũng
có 4 thứ:
-
Thấy kẻ nghèo cùng
quẫn bách, khiến cho họ có phương sanh kế
-
Không khi nào tranh
cãi cùng nhau
-
Thường hỏi thăm tin
tức với nhau
-
Thường nghĩ nhớ nhau
những lúc gặp gỡ
-
Thiện tri thức cũng
có 4 thứ nữa:
-
Bị quan nã bắt đem
giấu kín thì tìm cách giải cứu
-
Khi bị đau ốm thì đến
thăm viếng giúp đỡ
-
Khi bạn chết chóc đến
xem sóc tẩm liệm
-
Bạn đã qua đời, về
sau cứ nghĩ nhớ mãi!
-
Thiện tri thức lại có
4 điều:
-
Muốn đấu tranh là
ngăn cản ngay
-
Muốn làm bạn với ác
tri thức là can gián liền
-
Chẳng muốn làm việc
để sanh sống thì khuyên nhủ nên làm việc để sanh sống
-
Chẳng biết kinh giáo
đạo lý thì dạy cho hiểu biết, và sanh lòng tin vui mừng
-
Ác tri thức cũng có 4
bọn:
-
Bị thiệt chút ít
quyền lợi là nổi sân to
-
Mình có việc gấp mượn
nhờ đi đâu đó, mà chẳng chịu đi
-
Thấy bạn có việc gấp
liệu bề tránh mất
-
Thấy người bạn bị
chết chóc, bỏ lơ chẳng hề ngó tới
-
Đức Phật dạy: nên
chọn lựa bạn lành mà theo; mà kẻ ác nên tránh xa. Ta nhờ nương theo bạn lành
nên mới được thành Phật.
-
Kinh Lục Phương Lễ
-
-
Đừng làm việc chung
với kẻ ác tri thức và đứa ngu, mà phải giao kết với kẻ thiện tri thức và người
trí. Con người vốn không phải ác nếu gần gui?kẻ ác về sau thành người ác, thời
tiếng xấu đồn khắp thiên hạ. Mà thiện tri thức thì trái lại. Cho nên cần phải
gần gũi.
-
Kinh Tăng Nhất A Hàm
-
-
Ông Bột nói rằng:
(tiền thân Phật Thích Ca) bạn có bốn thứ cần phải biết: có thứ như hoa, có thứ
như cân, có thứ như núi và có thứ như đất. Sao gọi như hoa, là khi tươi đẹp
lấy cắm trên đầu, lúc héo xấu thời vất bỏ; khi giàu sang thì phụ họa mà lúc
nghèo hèn thì bỏ lơ, ấy là bạn như hoa. Sao gọi như cân? Nghĩa là vật nặng là
thấp xuống, mà vật nhẹ thời cao lên, ấy là bạn như cái cân. Sao gọi như núi?
Ví như loại chim thú tập trung đậu trên quả núi vàng thời lông vảy của chúng
nó đều sáng vàng rực rỡ; nghĩa là mình được sanh trọng cũng khiến cho bạn được
vinh hiển, giàu sang chung cùng vui vẻ; ấy là bạn như núi. Sao gọi là bạn như
đất? Là trăm giống và của báu tất cả đều bao cấp cho bạn, thí cấp dưỡng hộ ân
hậu rất đậm đà, ấy là bạn như đất vậy.
-
Kinh Bột
-
-
Vị Đại Bồ Tát xem kẻ
ác tri thức như con voi dữ hay loại ác thú không hơn không kém. Vì sao thế? Vì
đều là loại hại thân thể vậy. Đại Bồ tát đối với voi dữ hay thú dữ, tâm không
sợ hãi, chứ đối với ác tri thức tâm sanh khiếp sợ. Tại sao thế? Vì voi dữ hay
thú dữ chỉ có thể hại thân mà không thể hại tâm, còn ác tri thức hại luôn cả
thân tâm. Voi dữ hay thú dữ chỉ hại một thân chớ ác tri thức hại vô lượng
thiện thân, vô lượng thiện tâm. Voi dữ hay thú dữ chỉ hay phá hại cái thân nhơ
nhớp bất tịnh mà thôi, còn ác tri thức phá hoại tịnh thân lẫn tịnh tâm. Voi dữ
hay thú dữ phá hoại thân xác thịt, còn ác tri thức phá hoại pháp thân. Bị voi
dữ giết chẳng đọa ba ác đạo, mà bị ác tri thức giết quyết đoạ ba ác đạo. Voi
dữ hay thú dữ chỉ là kẻ oán của thân, còn ác tri trức là kẻ oán của thiện
pháp.
-
Vậy nên Bồ tát thường
phải xa lìa bọn ác tri thức mới được.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Tìm bè bạn khắp nơi,
không được vừa ý mình, thôi gắng giữ tâm ta, đừng bạn với kẻ ngu. Khắp nơi tìm
bè bạn, không được vừa ý ta, thà khéo giữ tâm mình, chẳng làm bạn kẻ ác.
-
Luật Tứ Phần
-
-
Nếu ai gần gũi với
bạn trí huệ và hiền lành thời có thể khiến cho nội tâm và ngoại thân đều được
trong sạch. Thế mới gọi là bậc trượng phu chơn thiện.
-
Kinh Đại Trang Nghiêm
-
-
Bạn hiền là nền tảng
của muôn phước; đời hiện tại này khỏi nạn lao ngục quan vua; sau khi chết đóng
bít được cửa tam đồ ác đạo vậy. Có thể lên trời đắc Đạo, ấy là đều nhờ sức
giúp đỡ của Hiền hữu vậy.
-
Kinh Hoan Dự
-
-
Bạn lành đủ 7 pháp
mới thành thân hữu:
-
Việc khó làm hay làm
được
-
Cái khó cho hay cho
được
-
Việc khó nhẫn hay
nhẫn được
-
Việc kín cho biết lẫn
nhau
-
Che đậy lẫn nhau
-
Gặp khổ chẳng bỏ nhau
-
Nghèo hèn chẳng khinh
bỏ nhau
-
Luật Tứ Phần
-
-
Bằng Hữu có 3 yếu
pháp:
-
Thấy có lỗi lầm thời
hiểu dụ can gián cho nhau
-
Thấy có việc tốt thời
hết lòng vui mừng
-
Bạn lâm nạn đang ở
trong cảnh nguy khốn cùng thời chẳng bỏ nhau
-
Kinh Nhơn Quả
-
-
Bạn bè: chẳng nên
nhơn một lời nói của kẻ khác mà liền bỏ nhau, khi nghe một lời nói của kẻ khác
cần phải quan sát kỹ càng đã.
-
Luật Căn Bổn Tỳ Nại
Da
-
-
Người đời với thân
thuộc và bằng hữu phải có 5 điều:
-
Thấy họ làm những
việc tội ác, đem nhau riêng chỗ vắng vẻ mà can gián, hiểu dụ, quở trách và
ngăn cản
-
Khi họ có chút việc
gấp phải mau chạy đến cứu giúp
-
Có nói lời chi riêng
với mình, thời mình không nên nói lại với kẻ khác
-
Phải lễ kính lẫn nhau
-
Có vật gì quí, nên
biếu cho nhau ít nhiều để cùng hưởng cho vui
-
-
Bè đối với bạn: Lấy
chánh tâm mà kính nhau, đừng ôm lòng hờn giận, không nên có ý gì khác; biếu
nhau vật quí, ân hậu đậm đà; ấy là năm việc mà bè cần phải có.
-
Khiến họ về với mình,
quở trách những điều kiêu ngạo, buông lung che đậy việc riêng của họ, thường
cúng dường và đem những lời nói tận tâm bảo cho nhau; ấy là năm điều mà Bạn
cần phải có.
-
Việc giao tế của bè
bạn được như thế, thời thiện pháp làm gì suy đồi được.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
F - ĐẠO VỢ CHỒNG
-
Người thế gian : cha
con, chồng vợ, anh em, gia thất, bà con nội ngoại phải kính mến nhau, không
nen tham tiếc; lời nói, sắc mặt thường tỏ hòa thuận, dừng nên chống trái
nhau.
-
Kinh Vô Lượng Thọ
-
-
Nếu người có thể giữ
được lòng tin thời trong nhà an hòa, phước tự nhiên đến, chớ chẳng phải Thần
Thánh nào trao cho vậy.
-
Kinh A Nan Phân Biệt
-
-
Chồng đối với vợ có 5
điều:
-
Khi ra vào phải kính
mến.
-
Cho uống ăn và sắm
cho áo mền và đồ trang sức theo thời đại.
-
Phải sắm cho vàng bạc
và chuỗi ngọc.
-
Trong nhà có bao
nhiêu của cải giao hết cho vợ cất giữ.
-
Khi đi ra ngoại chẳng
nên đem theo những đứa đĩ thõa.
-
-
Vợ thờ chồng có 5
điều:
-
Chồng đi về phải ra
đón tiếp.
-
Chồng đi vắng phải lo
nấu nướng, quét dọn đợi chồng về.
-
Chẳng nên ngoại tình
với kẻ khác dù là tâm nghĩ, chồng mắng chửi chẳng đặng mắng lại và tỏ vẻ bất
bình.
-
Phải nghe lời dạy dỗ
của chồng, có món gì chẳng đặng giấu riêng.
-
Khi chồng ngủ nghỉ
phải lo dọn cất rồi mới đi nằm.
-
Kinh Lục Phương
-
-
Là chồng phải lấy 5
điều nuôi, khiến vợ được an, năm điều là: chánh tâm kính mến, ý chẳng hờn
giận, không nên ngoại tình, thường cho ăn mặc, thường cho trang sức.
-
Khéo làm việc, khéo
làm nên, vâng lời dạy bảo, dậy sớm, nghỉ tối, mọi việc phải bắt chước, đãi
khách quân tử, thưa hỏi khách quân tử, vẻ mặt hòa nhã, lời nói thuận thỏa,
ghế, bàn, giường chiếu ngay thẳng, đồ uống ăn sạch sẽ, nghĩ việc bố thí, cúng
dường cho chồng. Mười bốn điều này là người vợ phải có. Chồng vợ hòa mực thời
thiện pháp chẳng suy đồi.
-
Kinh Thiện Sanh Tử
-
-
Người vợ trinh tháo
và hiền lương lanh lợi là bậc mẫu nghi đủ bề khôn khéo nuôi con. Bầy con ấy
quyết sẽ thành những bậc đại nhân vật.
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
(Văn Ba Lị)
-
-
Khi Đức Phật ở Tịnh
xá Kỳ thọ. Ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc cưới dâu cho con. Người dâu đẹp đẽ đoan
chánh vô song, nhưng phải tánh kiêu ngạo, khinh mạng chẳng vâng kính cha mẹ
chồng và chồng. Bây giờ ông Trưởng giả tự nghĩ : "Phải con dâu ngạo mạn làm
sao mà dạy dỗ nó! Nếu đánh đập là chẳng phải điều lành, mà bỏ qua, chẳng dạy
dỗ thời càng ngày nó càng thêm nhiều tội lỗi. Duy thỉnh Đức Phật nhờ Ngài dạy
bảo giùm". Sáng ngày ông đi đến Phật, thỉnh Phật về nhà nhờ giáo hóa con dâu
mới tên là Ngọc Da. Đức Phật đến Trưởng giả rồi Ngài bảo rằng : "Này Ngọc Da
nữ ! Phàm làm đàn bà con gái đừng cậy sắc đẹp mà sanh lòng kiêu mạn, hình dung
đoan chánh đẹp đẽ chẳng phải thật đẹp đẽ, mà tâm tánh đoan chánh đẹp đẽ được
người kính mến mới thật là đẹp đẽ chơn thật vậy".
-
Phép làm đàn bà con
gái có 5 điều :
-
Khuya mới ngủ, sớm lo
dậy, để lo việc gia sự, hoặc có món ngon vật lạ trước đem dâng lên cha mẹ và
chồng.
-
Phải xem sóc và giữ
gìn đồ đạc trong nhà.
-
Phải cẩn thận lời nói
và nhẫn nại, có giận thì chút thôị...
-
Dè dặt cẩn thận,
thường lo sợ việc mình không chu đáo thế.
-
Nhất tâm cung kính
phụng sự cha mẹ chồng và chồng và hết lòng hiếu thảo.
-
Lõi nữa làm dâu có 5
phép :
-
Làm vợ như làm mẹ,
mến chồng như mẹ thương con vậy.
-
Làm vợ như làm tôi,
là thờ chồng như bề tôi thờ vua vậy.
-
Làm vợ như em gái, là
thờ chồng như em gái thờ anh cả vậy.
-
Làm vợ như đày tớ, là
thờ chồng như tớ gái vậy.
-
Làm vợ của chồng, là
xem nhau đồng tâm hiệp ý, tuy hình thể khác nhau mà không sanh lồng kiêu mạn.
Công việc trong, ngoài tốt đẹp, gia đình giàu có; tiếp đãi khách tử tế, tiếng
tốt được đồn khen.
-
Trái lại làm dâu có 3
điều xấu :
-
Chưa tối mà đi ngủ,
mặt trời mọc mà chưa dậy, đối với chồng giận dữ, trợn mặt, hiềm ghét, và mắng
chửi.
-
Cơm ngon tự ăn, mà
cơm dở đem dọn cho cha mẹ và chồng, trang điểm cho đẹp dối gạt.
-
Chẳng lo nghĩ việc
sanh sông mà đi dạo xóm luận nói những chuyện xấu tốt, hay dở của người ta và
hay cãi cọ, đánh lộn, ganh ghét dòng họ. Làm dâu như thế bị thiên hạ khinh d
lắm.
-
Nàng Ngọc Da nghe
Phật day một hồi mới sanh lòng xấu hổ mà thưa rằng : Con thực ngu si quá,
chẳng biết gì Chánh pháp nên những việc con đã làm đều là sai quấy; nay con
xin Ngài tha lỗi cho. Rồi nàng thọ Tam Qui và Ngũ giới với Phật".
-
Kinh Ngọc Da
-
-
Nước Câu Luu có người
Bà la Môn tên Ma Ha Mật, nhà rất giàu có và trí huệ hơn người; ông ta làm quan
đến chức Quốc Sư. Nhưng bị lòng xan tham chẳng tin Phật Pháp. Ông ta sanh hạ
bảy đứa con gái, nhan sắc đẹp đẽ vô song, lại thêm nhà giàu có, ngọc vàng
trang sức đầy đủ trang nghiêm. Bấy giờ có ông bạn tên là Phân nho Đạt đến bảo
Bà la Môn rằng : "Anh đem mấy đứa con gái của anh vào trong thành cho người
xem; nếu có người chê xấu, thời anh đưa tôi năm vàng, mà nếu không có một ai
chê xấu, thì tôi đền anh năm trăm vàng". Hai ông bèn dẫn bảy đứa con gái đi
dạo khắp trong nước, thời gian đến chín mươi ngày mà không một ai chê xấu nửa
lời. Bây giờ hai ông nghe tin Đức Phật thuyết pháp tại Tịnh Xá Kỳ Viện, liền
rủ nhau dẫn đến nơi Phật mà thưa rằng : "Ngài hay dạo đi khắp các nước, Ngài
đã từng thấy có những người con gái nào xinh đẹp như vậy không ?" Phật quở
thẳng rằng : "Mấy đứa gái này chẳng có chút gì đẹp cả". Bà la Môn nói : "Toàn
quốc không một ai chê con tôi xấu mà sao Ngài lại chê nó xấu ?". Phật đáp :
"Người đời họ xem cái đẹp của năm căn năm cảnh cho là đẹp. Còn Ta cho là cái
thân chẳng tham trơn láng, cái miệng chẳng nói lời ác, tâm ý chẳng nghĩ điều
ác điều ác mới là đẹp vậy".
-
Kinh Thất Nữ
-
-
Phật nói : đàn bà có
5 thế lực :
-
Nhan sắc;
-
Thân tộc,
-
Đất ruộng,
-
Con trai,
-
Tự giữ mình.
-
Mà khinh d người
chồng. Nhưng người chồng chỉ có 1 thế lực giàu sang là có thể địch lại năm món
kia.
-
Kinh Tăng Nhất A Hàm
-
-
Ông An Na Phấn Kỳ
trưởng giả cưới vợ cho con, người dâu nhan sắc đẹp như sắc bông đào. Nàng là
con gái của một Đại thần triều vua Ba Tư Nặc; bởi vậy mà nàng ỷ thế nhà cha
nên chẳng thèm cung kinh cha mẹ và chồng, cũng không biết tin Tam Bảo. Trưởng
giả đến nhờ Phật dạy bảo cho. Sáng ngày Phật đến nhà trưởng giả và bảo rằng :
"Nay cô dâu mới ! Phép về làm vợ người có 4 việc :"
-
Vợ như mẹ.
-
Vợ như bà con.
-
Vợ như kẻ thù.
-
Vợ như đầy tớ.
-
Làm vợ như mẹ là đối
với chồng thừa sự cúng dường chẳng thiếu món gì cả. Vợ như người bà con là xem
chồng không có tâm tăng giảm, phải khổ vui cùng hưởng. Còn làm vợ như kẻ địch
là đối với chồng ôm lòng giận dữ ganh ghét, chẳng biết vâng thờ gì cả. Mà làm
vợ như đứa tới gái là người vợ hiền lương, với chồng nhẫn nhịn chẳng dám nói
lời trả treo, thường vó tấm lòng thương mến vậy. Người khéo thờ chồng khi chết
sanh lên cõi Trời, mà tệ ác với chồng chết đọa địa ngục. Nàng Thiện Sanh nữ
nghe Phật dạy rất xấu hổ và thưa rằng : "Thưa Thế Tôn! Con từ nay xin làm vợ
như làm đứa tớ gái vậy". Và nàng quy y Tam Bảo làm Ưu Bà Di.
-
Kinh A Na Phấn Kỳ Hóa
Thất Tử
-
-
Khi Đức Phật ở nước
Xá Vệ bây giờ có nhà vấn sâu rộng tên là Bà Tư Nị Ca, gia tư tại thôn trưởng
Đề cách thành Xá Vệ về phiá tây hơn 20 dặm. Ông này có lòng thâm tín Phật Giáo
và sanh hạ được một con gái đầu lòng tên Am Đề Giá, đã gả lấy chồng và đã theo
chồng; nhưng có việc trở về nhà, vừa lúc Phật sắp đến nhà ông này mà Ngài đã
nhận lời mời bữa trước. Khi Phật đến, cả nhà đều ra nghênh tiếp, duy có cô Đề
Giá không ra rước vì đợi người chồng về. Một lát sau người chồng về cô rất vui
mừng rồi hai vợ chồng cùng nhau ra l Phật. Đực Phật mới bảo với Ngài Xá Lợi
Phất rằng : "Khi Thầy trò mình đến cô này không ra vì chưa có mặt chồng đợi
khi chồng về hai người mới ra l. Thế là cô này đã hiểu l phép lắm vậy !"
-
Kinh Sư Tử Hẩu Liểu
Nghiã
-
-
Ông A Nan Phấn Kỳ
Trưởng giả ở thành Xá Vệ kết bạn thâm giao với Ông Mãn Tài Trưởng giả ở thành
Mãn Phú. Nguyên do họ A có lập một sở nhà hàng buôn bán lớn bên thành Mãn Phú,
thì ngược lại họ Mãn cũng có sở nhà hàng bên thành Xá Vệ khuếch trương buôn
bán tương đương và cũng vì thế mà việc giao hảo giữa hai Ông lại càng thân
mật.
-
Họ A có một con gái
út, họ Mãn muốn hỏi về làm dâu, nhưng họ A cònh lưỡng lự chưa quyết, vì đôi
bên khác tín ngưỡng. Họ A nghĩ bụng: e việc này nên thưa Phật. Thì Phật bảo cứ
gả cho họ đi. Thế là hai Ông trưởng giả định ngày thành hôn. Đến ngày ấy cô út
lo tắm rửa, xoa dầu thơm, và trang điểm vàng ngọc rồi lên xe hoa về nhà chồng,
tức là nhà Ông cha chồng Mãn Tài tại thành Mãn Phú.
-
Nhưng chiếu theo luật
của Quốc gia này thì không được cưới người nước ngoài về làm dâu, nếu ai phạm
phải thì chịu phạt bằng cách cúng dường một bữa ăn cho sáu ngàn ông Phạm Chí
Bà La Môn. Vậy nên, cũng nhơn ngày rước dâu bày luôn tiệc phạt cúng dường cho
sáu ngàn ông Phạm Chí. Các Ông Phạm Chí đế trần nửa cái thân mà đi vào nhà họ
Mãn. Lúc các Ông đến cửa thì Trưởng giả bảo cô dâu mới ra l bái các Ngài. Cô
dâu bất tuân lịnh cha chồng và nói : "Tôi không thể l những kẻ trần mình; Đức
Phật Thầy tôi thường dạy chúng tôi rằng : Kẻ nào chẳng biết hổ trẽn là những
kẻ chẳng biết phân biệt cha mẹ, anh em, tôn tộc và bà con dòng họ; các ông Bà
La Môn kia là những kẻ không biết hổ trẽn nên tôi không muốn lạy. Khi ấy các
Bà La Môn nghe nổi sân si bỏ tiệc ra về. Ông Mãn Tài rất buồn rầu, thường lên
lầu cao nằm mà bực tức. Bây giờ có ông Phạm Chí tên Tu Bạt đến thăm thấy ông
Mãn buồn phiền mới hỏi thì ông Mãn cho biết vì việc mới xảy ra. Ông Tu Bõt nói
: "Bực thầy của cô dâu mới này oai đức cao cả lắm ông đừng buồn làm chi để tôi
thuật chuyện chính tai nghe mắt thấy cho ông nghe : "Có một lần tôi đi đến ao
A Nậu thần giữ ao không cho tôi vào, một lát sau tôi thấy có ông niên thiếu Tỳ
kheo đến thì Thần ao ra nghinh đón và mời ngồi trên một Tòa bằng vàng mà l bái
rất cung kính. Đó là đệ tử mà còn như thế, huống chi bực Thầy... Ông Mãn nghe
rất vui mừng và đòi cô dâu lên hỏi : Nay ta muốn mời thầy của ngươi về nhà
cung phụng mà ta không hiểu phép thỉnh mời như thế nào. Cha nhờ con thỉnh hộ.
Nàng vâng lời và rất vui mừng. Tắm rửa sạch sẽ rồi thường lên lầu cao đốt
hương hướng về Phật làm l mà thỉnh cầu : Cúi xin đức Thế Tôn chứng giám; Con
nay về nước người hiện đang bị nạn; cúi xin Ngài đến cứu khổ.
-
Bấy giờ Phật dạy A
Nhã Câu Lân đi hầu tả, Xá Lợi Phất đi hầu hữu, A Nan mang bình bát đi hầu sau,
và một ngàn hai trăm năm mươi vị đi chung quanh Ngài và thẳng đến nhà ông
Trưởng giả Mãn Tài. Đến cửa, Trưởng giả và cô dâu ra l rước Phật cùng chư
Tăng. Bây giờ sáu ngàn Phạm Chí thấy Phật vào nước mình và bảo với nhau rằng :
"Nay Sa Môn Phật đã vào nước mình thì chúng mình không thể ở đây được nữa, nên
bỏ xứ mà đi cho rồi, vì Phật đã hiện thần thông rất mầu nhiệm, chúng ta không
thể bì kịp... rồi họ bỏ nước đi hết".
-
Đực Phật thuyết pháp
cho gia đình ông Mãn và cả một sốt đông đảo nghe. Có người đã được tĩnh ngộ và
đa số đều quy y Tam Bảo và thọ trì Ngũ giới.
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
-
Vua Ưu Đà Diên nước
Câu Chiên Di có hai bà phu nhân. Bà thứ nhất tên là Xá Ma, có lòng thâm tín
Phật Pháp, bà thứ tên Đế Nữ tánh tình dua nịnh, thường đến chỗ Vua mà sàm tấu
và bài báng rằng bà phu nhơn thứ nhất cùng với Phật làm việc phi pháp. Vua
nghe thế nổi sân nộ dữ tợn liền lấy cung tên đem bắn bà phu nhơn thứ nhất. Lúc
ấy vì bà thương hại nhà Vua nên bà liền vào Thiền định từ ái. Vì thế mà tên
bắn không trúng, Vua bắn liên tiếp ba phen mà vẫn không trúng. Vua cả kinh hỏi
Bà tại sao ? Hay ngươi là Trời là Rồng gì chăng mà ta bắn không trúng ? Bà đáp
: "Tôi không phải là Trời là Rồng gì cả, mà tôi chỉ có lòng tin Phật được nghe
Chánh pháp và tôi tu trì ngũ giới. Nay tôi vì lòng thương Đại vương nên nhập
Từ ái Tam muội Thiền định dầu cho Đại vương tuy có ác tâm cũng không thể hại
được lòng từ bi của tôi. Nhà Vua nghe hết sức ăn năn đã tin lời sàm tấu của đệ
nhị phu nhân, và ông liền vội vã chạy đến chỗ Phật rồi tự thuật lại chuyện vừa
xảy ra và cầu xin ăn năn sám hối. Rồi quy y Tam Bảo làm kẻ Ưu Bà Tắc.
-
Kinh Bảo Tích
-
-
Bà phu nhân cùng các
tì nữ của Đại Thọ Khẩn Na La thưa Phật rằng : "Bạch Đức Thế Tôn chúng con đã
phát tâm vô thượng Đạo mà làm thế nào cho Đạo tâm ấy mau thành tựu, cúi xin
Ngài dũ lòng thương chỉ dạy cho".
-
Đức Phật bảo phu nhân
cùng các tì nữ rằng : "Các ngươi đã phát tâm Bồ Đề rất thù thắng ở trong tam
giới, trừ được phiền não tức chóng thành tựu quả Bồ Đề. Dưới đây có mấy điều
các ngươi cần học tập :
-
Gần gũi với Phật.
-
Lìa kẻ tà kiến quyết
mau thành tựu Bồ Đề.
-
Lại nữa :
-
Giữ thân giới,
-
Giữ khẩu giới.
-
Giữ ý giới quyết mau
thành tựu Bồ Đề.
-
Lại nữa :
-
Đem tâm vô vi tu bố
thí.
-
Chẳng nên dối trá mà
tu hạnh trì giới.
-
Đem tâm cung kính
hưởng về các bậc Thánh Hiền.
-
Nghe được Chánh pháp
thành tựu Bồ Đề.
-
Lại nữa :
-
Chẳng tham ăn.
-
Chẳng tham yến ẩm.
-
Chẳng tham kẻ trượng
phu.
-
Chẳng tham đồ trang
sức.
-
Chẳng tham đi du
ngoạn.
-
Chẳng tham giỡn cười.
-
Chẳng tham kẻ ca nhạc
sĩ, ca hát đánh nhạc.
-
Chẳng tham những kẻ
nhảy múa, và giao hội rượu trà.
-
Thế là mau thành tựu
bồ đề.
-
Lại nữa :
-
Chẳng nên nói ngã
kiến.
-
Chẳng nên nói chúng
sanh kiến.
-
Chẳng nên nói thọ giả
kiến.
-
Chẳng nên nói nhơn
kiến.
-
Chẳng nên nói đoạn vô
kiến.
-
Chẳng nên nói thường
hữu kiến.
-
Chẳng nên nói chấp
trước hữu kiến.
-
Chẳng nên nói chấp
trước vô kiến.
-
Phải khôn khéo hiểu
pháp nhơn duyên sanh.
-
Thế là mau thành tựu
bồ đề.
-
Lại nữa :
-
Thương các chúng
sanh.
-
Chẳng nên tham mến
của người ta.
-
Chẳng nên nghĩ nhớ
trai thanh niên con của người ta.
-
Giả sử có phải mất
mạng cũng đừng nói dối.
-
Chẳng nên nói hai
lưỡi.
-
Chẳng nên nói lời thô
ác.
-
Chẳng nên nói thêu
dệt.
-
Chẳng nên sanh khởi
vô minh phiền não.
-
Chẳng nên khởi giận
dữ.
-
Chẳng nên khởi ngu
si.
-
Thế là mau thành tựu
bồ đề.
-
Lại nữa : Thiện nữ
nhơn ! Nên quan sát ngũ uẩn pháp như sau : Quan sát sắc uẩn như bọt nước,
chẳng nên tham tửu sắc. Quan sát thọ uẩn như bong bóng nước, chẳng tham lạc
thọ, chẳng bỏ rời khổ thọ, và đối với bất khổ bất lạc thọ, chẳng nên sanh ngu
si. Quan sát tưởng uẩn như chớp sáng, chẳng nên khởi tưởng tượng phân biệt
trai gái. Quan sát hành uẩn như cây chuối, biết các hạnh chẳng chắc thiệt,
chẳng nên chấp đắm các pháp. Quan sát thức uẩn như huyn, đừng cho tâm thức đắm
nhim các pháp.
-
Phu nhơn cùng các
người ! Cứ quan sát như vậy, và tu hành ngay đi, thời được nam thân mau được
thành tựu quả Bồ đề
-
Bấy giờ bà Phu nhơn
và các kẻ dâm nữ của vua Đại Thọ Khẩn Na La vui mừng nhảy nhót l Phật mà lui.
-
Kinh Đại Thọ Khẩn Na
La Vương Sở Vấn
-
-
Bà Vô Cấu Quang nghe
đức Phật thuyết pháp, liền khi ấy phát tâm Bồ đề, đồng thời trong pháp hội
cũng có 75 bà vợ của các ông cư sĩ cũng đồng phát tâm Bồ đề.
-
Bấy giờ ngài Xá Lợi
Phất hỏi các bà kia rằng : "Chồng của các ngươi đã cho phép các ngươi tu phạm
hạnh này chưa ?". Các bà đáp : "Chúng tôi đã từng hỏi chồng chúng tôi như thế
này : chúng ta từ đâu đến đây và ngày mai sẽ đi đến xứ nào ?" Mà chồng chúng
tôi không thể trả lời được. Cho nên chúng tôi tu phạm hạnh của chúng tôi chớ
không cần hỏi y kiến các ông ấy làm gì. Bỏi vì nay chúng tôi được nghe Phật
thuyết pháp; Phật là bậc cha mẹ, là Đấng Sở Tôn, là bậc Đại sư và Đấng Phước
Điền của chúng tôi vậy". Rồi các bà làm l Phật.
-
Bấy giờ 75 ông chồng
kéo đến thấy vợ mình đang làm l Phật, các ông trẻ lại chỗ ngài Xá Lợi Phất xin
hỏi nguyên do. Xá Lợi Phất cho biết là các bà ấy đã lãnh thọ Phật pháp; từ nay
các bà trì cấm giới tu phạm hạnh, vì thế mà bà làm l Phật đó.
-
Bấy giờ 75 ông cũng
đều xin làm đệ tử Phật. Đức Phật nhận cho ngay.
-
Bà Vô Cấu Quang về
đến nhà mẹ bảo mẹ nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác và quy y Phật.
Nếu mẹ phát tâm thời đó là con đã trả ơn cho mẹ rồi vậy. Bà mẹ nói với con
rằng : mẹ đã phát tâm từ lâu con không biết chớ khi mẹ mang thai con, mẹ không
sanh khởi lòng xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, loạn niệm, ác huệ,
tham tâm và ngu si, tà kiến. Mẹ thường vui mừng chánh pháp, cho nên thân tâm
được an vui. Và thường chiêm bao thấy Phật và các đệ tử Phật đến thuyết pháp
cho mẹ nghe.
-
Kinh Chuyển Nữ Thân
-
-
G - TỪ LÀ CỘI GỐC
-
Những kẻ có căn lành,
lòng từ là cội gốc.
-
Kinh Niết Bàn
-
-
Từ tâm tức là nhơn
duyên của tất cả sự an vui. Rời bỏ từ bi thời chẳng còn có pháp lành.
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Bồ tát là nhà đại thí
chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho chúng sanh mà không hối tiếc.
Chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vọng, chẳng cầu sanh về chỗ hơn, chẳng cầu
lợi dưỡng. Mà Bồ tát chỉ muốn cứu độ tất cả chúng sanh, muốn thu lấy lợi ích
cho chúng sanh, muốn học theo bốn hạnh của các đức Phật, muốn thọ trì bốn hạnh
của các đức Phật, muốn hiển hiện bổn hạnh của các đức Phật, và muốn khiến tất
cả chúng sanh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Người trí tu hạnh bố
thí chẳng vị mong trả ơn, chẳng vì cầu được việc, chẳng vì hộ kẻ xan tham,
chẳng vì sanh các cõi trời hưởng vui, chẳng vì tiếng tốt lưu bố ra ngoài,
chẳng vì sợ hãi nỗi khổ ba ác đạo, chẳng vì cầu việc chi hết, chẳng vì chẳng
dùng, chẳng vì tục lệ của gia truyền, chẳng vì để gần gũi.
-
Người trí tu bố thí :
vì lòng thương xót, vì muốn khiến kẻ kia được an vui, vì muốn họ cũng sanh
lòng bố thí, vì muốn cùng các bậc thánh nhơn mà tu đạo, vì muốn phá hoại phiền
não và vì muốn vào cõi Niết bàn đoạn hữu vậy.
-
Người không của tự
nói không có của là không thiệt. Tại sao ? Là người ai lại không có được một
chén nước, một cọng cỏ ? Những kẻ nghèo xơ, sau một bữa ăn, đem nước rửa chén
mà bố thí cũng vẫn được phước; hay là đem một bạt cơm thí cho con kiến cũng
vẫn được phước báo vô lượng; dầu cho những người cực nghèo trong thiên hạ ai
lại không có một hạt cơm, hay một miếng bánh bằng bột ? Những người cực nghèo
tuy không có áo mặc, nhưng đâu phải họ thiết ở truồng, nếu họ biết đem một sợi
chỉ nơi áo quần bố thí cho người bị thương băng bó vết thương.
-
Nầy Thiện nam tử !
Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái
thân, nếu họ không có vật chi bố thí, thì mỗi khi thấy có kẻ khác tu bố thí,
họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ với kẻ kia.
-
Nếu người không có
tâm bố thí thì dầu cho làm đến vị Quốc vương, cũng chưa chắc bố thí cho ai
được chút gì !
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Doi lam kẻ ngu, giữ
chặt lòng bủn xin chẳng bố thí, chứa vàng của vạn ức, cho là vật sở hữu của
ta. Đến khi chết, mắt thấy ác quỉ, dao phong cắt thân, tuyệt hơi thở. Bây giờ
tùy theo lòng tham nặng nhẹ, lãnh lấy quả báo đau khổ. Đến chỗ chịu khổ mới
biết ăn năn, đâu còn kịp nữa!
-
Kinh Bồ Tát Xử Thai
-
-
Nếu có người bần
cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thì nên sanh tâm tùy hỷ; phước báo
tùy hỷ ngang với phước báo kẻ tu bố thí không khác. Ấy là việc rất d tu, ai tu
chẳng đặng vậy.
-
Kinh Nhơn Quả
-
-
Nếu Bồ tát tu thí,
chỉ có lòng thương xót cũng được đầy đủ, huống là còn cho tài vật nữa. Nghĩa
là Bồ tát đem lòng từ bi nghĩ việc bố thí, tuy không có tài vật, khi thấy
người đến xin chẳng nỡ nói : "Không có", thương mà sa nước mắt. Bồ tát có 3
trường họp rơi nước mắt :
-
Khi thấy người tu
công đức mà rơi lệ, vì lòng kính mến.
-
Khi thấy chúng sanh
đau khổ bởi không công đức mà rơi lệ, vì lòng thương xót.
-
Khi tự tu đại bố thí
thương, vui nhảy nhót mà rơi lệ.
-
Bồ tát tu bố thí
xong, chúng sanh no đủ, liền vào núi, tu thiền định dứt trừ ba độc.
-
Kinh Luận Đại Trượng
Phu
-
-
Bảo với người xin
rằng : "Ngươi nay thật làm nhơn công đức cho ta, vì khiến ta lìa lòng xan tham
đều nhờ nhơn duyên ngươi đến xin"
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Nếu thấy có người đến
xin mà mặt mày nhăn nhó, thời phải biết người ấy họ đang mở cửa ngạ quỷ.
-
Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh
-
-
Xưa có người muốn sắp
mở hội mời số khách đông để cúng dường sữa bò. Rồi tự nghĩ : "Nếu từ nay, cứ
mỗi ngày nặn lấy sữa thì sữa sẽ nhiều không đồ chứa; mà chứa để lâu ngày sợ e
sữa hư; chi bằng chứa luôn trong bụng bò, đến ngày khách đến, sẽ nặn lấy một
lần cho tiện. Thế rồi liền dắt bò con đem cột riêng xa bò mẹ. Qua thời gian
một tháng, mới mời khách đến, đem bò ra nặn sữa, sữa đã khô mất hết, nặn không
ra một giọt !
-
Người muốn đợi cho
giàu to mới tu đại bố thí, chớ thường ngày chẳng chịu bố thí. Đến khi muốn bố
thí, thời của cải đã bị nước, lửa, giặc cướp đoạt mất hết chẳng còn một đồng
mà thí ! Cũng như chứa sữa trong bụng bò.
-
Kinh Bách Dụ
-
-
Đức Thế Tôn bảo các
Tỳ kheo rằng : Thí cho nhằm thì có năm việc :
-
Thí cho kẻ từ xa đi
đến
-
Thí cho kẻ sắp đi xa.
-
Thí cho người bệnh.
-
Thí cho lúc đói kém.
-
Mới được dưa, quả mới
chín, hoặc cơm mới, phải trước cúng cho vị tinh tấn trì giới, nhiên hậu mình
mới dùng.
-
Đức Thế Tôn lại bảo
các Tỳ kheo có năm món thí được phước báo lớn :
-
Tạo lập vườn tược,
-
Trồng cây bên dường.
-
Tạo tác cầu cống.
-
Đóng thuyền to.
-
Vì người sẽ đến, xây
cất nhà cửa chỗ ở.
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
-
Lòng thương thí một
người, công đức lớn băng đất; vì mình thí tất cả, được báo bằng hột cải. Cứu
một người nguy nạn, hơn bố thí tất cả, các sao tuy có sáng, chẳng bằng sáng
mặt trăng.
-
Luận Đại Trượng Phu
-
-
Thí kẻ bần cùng, sanh
lòng thương xót; thí đấng phước điền, sanh lòng vui mến; thí bậc thân hữu sanh
lòng tinh tấn.
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Tu bố thí được phước;
tu từ tâm không oán; làm điều thiện hết ác; bỏ dục không phiền nãọ
-
Kinh Trường A Hàm
-
-
Đức Phật đến trước
cửa một nhà để khất thực, người vợ chủ nhà đem cơm để vào bình bát Ngài rồi
làm l cúng.
-
Đức Phật dạy : Đem
giống trồng một sanh mười, trồng mười sanh trăm, trồng trăm ngàn, trồng ngàn
sanh vạn, và trồng vạn sanh ức; được thấy đạo lý chắc chắn.
-
Người chồng không tin
bảo : cúng một bát cơm có đâu được phước nhiều như thế.
-
Đức Phật liền chỉ :
Ngươi có thấy cây đại thọ Nị Câu Đà kia không ? Nó cao lớn thịnh mậu đến 45
dậm. Cứ mỗi năm trái nó sinh ra chừng vài vạn hộc, hột nó nhỏ như hột cải. Mà
đất nó có biết đâu được sức kết quả nhiều như thế ? Nhưng là đất, chớ người là
thuộc loài hữu tình; do tâm vui mừng đem một bát cơm dâng lên Phật, được phước
rất lớn không thể kẻ xiết.
-
Bấy giờ tâm ý đôi vợ
chồng được tỏ ngộ liền chứng đạo quả Tu đà hoàn.
-
Kinh Tạp Thí Dụ
-
-
Thường vui tu trí
huệ, mà chẳng tu bố thí, đời sau được thông minh, nghèo túng không của cải;
chỉ vui tu bố thí, mà chẳng tu trí huệ đời sau được giàu to, ngu ám chẳng biết
gì; thí, huệ đều song tu, đời sau giàu, trí đủ; hai món đều chẳng tu, nhiều
kiếp bị nghèo, ngu!
-
Kinh Phân Biệt Nghiệp
Báo
-
-
Nếu người lòng tham
nhiều lắm, đối với đất bùn xem nặng hơn vàng ngọc; trái lại kẻ nhiều bi tâm,
tuy bố thí vàng ngọc; coi nhẹ hơn cỏ cây. Nếu người lòng bủn xin làm nhiều rủi
mất của cải, lòng rất sầu khổ. Nếu kẻ bố thí khiến người lãnh thọ vui mừng, tự
mình cũng mừng. Phỏng có đồ ăn ngon, nếu chẳng đem bố thí mà để tự ăn, thời
cũng chẳng cho là đồ ăn ngon; hay có đồ ăn dở mà đem bố thí rồi mới chịu ăn,
trong lòng vui sướng cho là đồ rất ngon. Hoặc bố thí rồi còn dư tự ăn, ấy là
bậc đại trượng phu, tâm sanh vui mừng như chứng được Niết Bàn. Những kẻ không
có lòng tin, họ đâu tin nổi những lời nói trên.
-
Người không vó lòng
tin, dầu có đồ ăn dở mà kẻ đói đang đứng xin trước mặt, họ vẫn chẳng thí,
huống là những vật tốt đẹp khác đâu d cho ai.
-
Như có hai người :
một giàu to, một nghèo cùng. Nay có người hành khất đến xin, cả hai người đều
ôm lòng buồn lo : kẻ giàu, lo sợ nó xin của; người nghèo lo tự bảo : ta làm
sao có được ít của vật gì cho họ. Hai người như vậy. Tâm trạng lo khổ tuy
đồng, mà được quả báo khác nhau, người nghèo vì lòng thương lo nghĩ, được sanh
về cõi trời hưởng sự giàu vui vô tận; còn kẻ xan tham đọa vào ngạ quỉ, chịu
khổ cũng khó hết.
-
Luật Đại Trượng Phu
-
-
Nếu bức bách gia tộc
lấy của làm bố thí, người ấy chẳng được quả báo lớn. Trước chẳng hay cúng
dường cha mẹ, mà lại làm khổ não vợ con, giả danh làm bố thí, thì chẳng được
gọi là nghĩa thí. Tu bố thí như vậy, vì thiếu lòng thương xót nên gọi là :
Chẳng biết trả ơn.
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Nếu vì muốn sanh
Thiên mà tu thí, hoặc cầu tiếng khen; hoặc mong trả báo, hoặc vì sợ hãi mà tu
bố thí thì được quả báo chẳng được thanh tịnh.
-
Kinh Phân Biệt Nghiệp
Báo
-
-
Trước nghĩ muốn cho
nhiều, khi cho lại cho ít.
-
Lựa những vật xấu đem
cho người, vật tốt để lại mình.
-
Đã cho xong, tâm sanh
hối tiếc.
-
Ba việc như vậy là
bất tịnh thí.
-
Lại có 8 việc thí
xong mà chẳng được thành tựu quả báo tốt :
-
Thì rồi tìm thấy lỗi
của kẻ thọ.
-
Khi thí, tâm chẳng
bình đẳng.
-
Thí rồi có ý lợi dụng
kẻ thọ.
-
Thí rồi vui sướng tự
khen ngợi lấy.
-
Chỉ nói suông chớ
chẳng cho gì cả.
-
Cho rồi, ác khẩu mắng
chửi.
-
Cho rồi, cầu trả lại
gấp đôi.
-
Cho rồi sanh lòng
nghi.
-
Kẻ thí chủ như vậy,
không thể gần gũi và gặp gỡ các đức Phật và các bậc Hiền Thánh.
-
Kinh Ưu Bà Tắc Giới
-
-
Lại có 5 món chẳng
nên đem thí cho người :
-
Phi lý cầu, chẳng nên
thí, vì của bất tịnh.
-
Rượu và vật độc chẳng
nên thí, vì loạn chúng sanh.
-
Lưới giăng, cạm bẫy
chẳng nên thí, vì hại chúng sanh.
-
Dao, cung, tên chẳng
nên thí, vì giết chúng sanh.
-
Đồ âm nhạc và nữ sắc
chẳng nên thí, vì hoại tịnh tâm.
-
Kinh Bảo Tích
-
-
Nước Xá Vệ co cô gái
nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc sanh sống bằng lối đi xin. Bấy giờ cô thấy
các vị vua chúa, quan Đại thần, trưởng giả v.v... cúng dường Phật và chư Tăng,
cô tự nghĩ : ta mắc tội báo gì mà sanh vào nhà bần tiện thế này nên không thể
cúng dường đấng Phước Điền. Cô tự hối trách lấy mình qua một ngày nọ đi xin
chỉ được một đồng tiền liền đến nhà bán dầu để mua. Người bán dầu hỏi : mua
một đồn số dầu rất ít dùng sao được, vì sao mua ít thế ? Nàng tỏ bày nỗi niềm
và tâm nguyện của mình. Sau khi nghe, người bán dầu thương tình mà bán cho số
dầu gấp đôi. Nan Đà xiết nỗi vui mừng, đem thẳng đến tịnh xá Kỳ Viên dâng cúng
đức Thế Tôn. Rồi nàng phát nguyện rằng : "Nay tôi xin đem một ngọn đèn mọn này
cúng dường đức Phật, nguyện nhờ công đức này đời sau tôi được trí huệ sáng
suốt, và được trừ dứt ngu ám cho tất cả chúng sanh". Phát nguyện xong, l Phật
và lui về.
-
Quá nửa đêm, các ngọn
đèn kia đều tự tắt hết, chỉ còn một ngọn đèn này không tắt hết, chỉ còn một
ngọn đèn này không tắt; ngài Mục Kiền Liên ba lần tắt nó chẳng tắt. Đức Phật
thấy bảo : Này Mục Kiền Liên, ngọn đèn đây do người tín nữ đem Bồ đề mà cúng
dường, dầu cho lấy nước bốn biển cả mà đổ lên nó vẫn chẳng tắt.
-
Kinh Hiền Ngu
-
-
H - NGƯỜI THĂM BỆNH
-
Đức Phật dạy : từ nay
về sau, cần thăm người bệnh. Nếu ai muốn cúng dường cho ta, thì cúng dường cho
người bệnh trước.
-
Luật Tứ Phần
-
-
Nếu là Phật tử, thấy
tất cả những người tật bịnh nên cúng dường như cúng dường Phật không khác.
Trong tám món phước điền, món phước điền thăm bệnh là đứng đầu. Hoặc cha mẹ,
Sư Tăng, đệ tử có bệnh, người tàn tật, trăm điều trăm khổ, thời đều nuôi cho
lành mạnh.
-
Kinh Phạm Võng
-
-
Đức Phật bảo Ưu Ba Ly
: Người bệnh có 3 thứ :
-
Ứng theo bệnh được
thuốc và cho đồ ăn, được hợp pháp thăm bệnh mà bị chết.
-
Ứng theo bệnh chẳng
được thuốc, cho đồ ăn là hợp pháp thăm bệnh được lành sống.
-
Ứng theo bệnh được
thuốc, cho đồ ăn, được hợp pháp người thăm bệnh, bệnh nhơn chắc lành sống.
-
Vậy nên Ưu Ba Ly !
Người bị bệnh nếu được ngườ thâm bệnh chặng đúng như pháp thời bệnh nhơn chết.
Mà trái lại thời sống, chỉ trừ kẻ tận mạng. Cho nên cần phải thăm bệnh, việc
đúng như pháp, mới khiến bệnh nhơn được yên ổn.
-
Kinh Tăng Kỳ
-
-
Cần thăm kẻ tật bệnh,
thăm hỏi điều nguy khốn, lành dữ có trả báo, như trống cây được trái.
-
Kinh Sanh Tử
-
-
Người bệnh, chẳng
nghe theo lời chỉ bảo của người thăm bệnh; hoặc người thăm bệnh làm trái ý
người bệnh đôi bên đều mắc lỗi.
-
Luật Tỳ Ni Mẫu
-
-
Nên vì người bệnh,
phải dùng những nhơn duyên thí dụ khéo nói pháp nhiệm mầu, tùy theo tâm nguyện
của kẻ bệnh, thời được lợi ích.
-
Kinh Tùy Nguyện Vãng
Sanh
-
-
Bình sanh thường tu
thiện, sắp chất lại nghĩ ác,thời đọa bào ác đạo; mà bình sanh hay làm ác, khi
đến ngày tận mạng, ăn năn nghĩ điều lành, thời liền sanh lên trời.
-
Luận Trí Độ
-
-
Đức Thế Tôn bảo các
Ty kheo rằng : Người bị tật bệnh có năm điều cần :
-
Chọn lựa vật ăn,
-
Tùy thời mà ăn,
-
Gần gũi thầy thuốc,
-
Đừng buồn, vui giận,
-
Phải thuận theo kẻ
thăm.
-
Kẻ nuôi bệnh cũng có
5 điều :
-
Cần phân biệt thuốc
thang,
-
Ngủ sau, dậy trước,
siêng năng chớ biếng nhác,
-
Ít ngủ nghỉ,
-
Dùng pháp cúng dường,
đừng tham ăn uống,
-
Nên vì người bệnh nói
pháp.
-
Kẻ bệnh và người khán
hộ mà trái những điều dạy trên, thời bệnh nhơn khó lành được.
-
Kinh Tăng Nhứt A Hàm
-
-
Người thăm bệnh :
-
Nên biết kẻ bệnh, món
gì nên ăn và chẳng nên ăn mà cho.
-
Đối với đồ đai tiểu
tiện, đàm, mũi của kẻ bệnh chẳng nên nhờm gớm.
-
Có lòng từ bi, chẳng
vì lợi lộc mà thăm.
-
Năng sửa sang thuốc
thang cho đến khi lành mạnh, hoặc mạng chung, chẳng nên nản lòng.
-
Năng vì kẻ bệnh
thuyết pháp, khiến họ vui mừng.
-
Thế là mình đã có
pháp lành tăng trưởng.
-
Luật Tứ Phần
-
-
Người thăm bệnh, tuy
biết kẻ bệnh chắc phải chết, nhưng đừng nói ra, phải khuyên họ quy y Tam Bảo,
niệm Phật Pháp Tăng, siêng tu cúng dường. Bởi vì bệnh khổ đều do đời trước gây
nghiệp nhơn chẳng lành, nên bị quả báo đau khổ, nay phải bày vẽ cho họ biết
sám hối. Hoặc giả họ nghe xong, lại sanh lòng giận dữ, nói ác, mắng chửi, ta
nên nhẫn nại làm thinh, cũng chẳng nên bỏ họ.
-
Kinh Thiện Sanh
-
-
Người thăm bệnh, nên
tùy theo sở học của người bệnh từ trước mà khen ngợi hay chê bai, nhưng chẳng
đặng khiến họ lui mất thiện tâm đã sẵn có từ trước.
-
Luật Thập Tụng
-
-
Đức Phật vì người
bệnh sắp chết nói kệ rằng :
-
- Niệm Phật chánh
định chắc thấy Phật,
-
- Sau khi lâm chung
về cõi Phật;
-
- Chính lúc lâm chung
khuyên niệm thiện.
-
- Thị hiện Tôn hình
khiến chiêm ngưỡng.
-
- Lại khuyên tưởng
niệm qui y Phật,
-
- Nhờ thế được thấy
Phật quang minh.
-
Kinh Hoa Nghiêm
-
-
Nên xem nuôi người
bệnh, cẩn thận đừng trách móc, lành rồi hãy còn thăm, vì e bệnh tái phát. Nếu
thấy đã bình phục, mạnh như khi chả bệnh, mới sanh tâm vui mừng, đừng mong trả
ơn nghĩa.
-
Không may họ qua đời,
nên vi lo tẫn táng, nói pháp để an ủi, bè bạn và thân thuộc. May mắn bệnh được
lành, họ thành tâm trả ơn, mình vui lòng nhận lãnh, chuyển thí cho kẻ nghèo,
nuôi bệnh được như vậy, phải biết những người ấy, là bậc đại thí chủ, thiết
cầu Đạo vô thượng.
-
Kinh Thiện Sanh
-
-
Trong đời vị lai, nếu
có các vị Quốc vương hay Bà la môn thấy các kẻ già, bệnh và phụ nữ sanh sản,
trong khoảng một niệm, đủ lòng đại từ, bố thí thuốc thang, ăn uống, áo mền,
khiến cho an vui; tu phước lợi như thế, rất không thể nghĩ bàn được.
-
Kinh Địa Tõng Bồ Tát
Bổn Nguyện
-
-
Nếu có chúng sanh,
thấy các người bệnh, thí cho thuốc thang, khiến hết bệnh khổ; mạng chung sanh
cõi trời lục dục thọ hưởng năm món dục lạc; từ cung trời mạng chung, hoặc được
sinh thân người, giàu có của cải. Hoặc thấy người bệnh, gần chết mà khát nước,
nên lấy nước đường phèn, nước trái cây hay các thứ nước mát đem cho. Sau khi
mạng chung được sanh cõi trời thanh lương, hưởng khoái lạc cung trời; từ cung
trời mạng chung, được sanh làm thân người, thường khỏi đói khát.
-
Kinh Chánh Pháp Niệm
Xứ
- --o0o--
|
|