|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 2
-
XII. Phẩm Nhập Đạo
-
1. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
-
Có một lối
vào đạo làm trong sạch hạnh của chúng sanh, trừ bỏ sầu lo
không có các não, được đại trí tuệ, thành tựu chứng quả
Niết-bàn. Ðó là nên diệt Ngũ cái, tư duy Tứ ý chỉ (Tứ niệm
xứ). Thế nào là một lối vào? Nghĩa là chuyên nhất tâm. Ðó là
một lối vào. Thế nào là đạo? Nghĩa là Tám đạo phẩm của Hiền
Thánh:
-
1. Chánh kiến.
-
2. Chánh chí (tư
duy).
-
3. Chánh nghiệp.
-
4. Chánh mạng.
-
5. Chánh phương
tiện (tinh tấn).
-
6. Chánh ngữ.
-
7. Chánh niệm.
-
8. Chánh định.
-
Ðó gọi là đạo. Ðó
là một lối vào Ðạo. Thế nào là nên diệt Ngũ cái? Nghĩa là tham
dục cái, sân nhuế cái, điều hí cái (trạo cử), thùy miên cái,
nghi cái. Ðó là nên diệt Ngũ cái. Thế nào là tư duy Bốn ý chí?
Ở đây, Tỳ-kheo bên trong tự quán thân, trừ bỏ niệm ác, không
có sầu lo, bên ngoài tự quán thân trừ bỏ miệng ác, không có
sầu lo, trong, ngoài quán thân trừ bỏ niệm ác, không có sầu
lo. Trong quán thọ khổ mà tự vui thích, ngoài quán thọ khổ,
trong ngoài quán thọ khổ, trong quán tâm mà tự vui thích,
ngoài quán tâm, trong ngoài quán tâm; trong quán pháp, ngoài
quán pháp, trong ngoài quán pháp mà tự vui thích.
-
Thế nào là Tỳ-kheo
trong quán thân mà tự vui thích? Ở đây Tỳ-kheo quán thân này
tùy theo tánh mà hành: từ đầu đến chân, từ chân đến đầu; quán
trong thân này thảy đều chẳng sạch, không có gì đáng tham đắm.
Lại quán thân này có lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, não, mỡ miếng, mỡ nước, ruột, bao tử, tim, gan,
tỳ, thận đều quán biết hết, phẩn, tiểu, sanh tạng, thục tạng,
nước mắt, đờm dãi, huyết mạch, mỡ, mật, đều nên quán biết,
không có gì đáng tham đắm. Như thế, các Tỳ-kheo quán thân tự
vui thích, trừ bỏ niệm ác, không có sầu lo. Lại nữa, này
Tỳ-kheo, lại quán thân này có phải là địa chủng chăng? Là
thủy, hỏa, phong chủng chăng? Tỳ-kheo quán thân này như thế.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán thân này phân biệt các giới có bốn loại. Giống như người
khéo mổ trâu, hoặc học trò người mổ trâu, xẻ từng phần để tự
xem xét: đây là chân, đây là tim, đây là đốt xương, đây là
đầu. Như thế Tỳ-kheo ấy phân biệt giới này mà tự quán sát:
thân này có các giới đất, nước, gió, lửa. Tỳ-kheo quán sát
thân như thế mà tự vui thích.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán thân này có các lỗ rỉ chảy chẳng sạch, giống như người
kia quán vườn trúc hay quán bụi lau. Như vậy Tỳ-kheo quán thân
này có các lỗ chảy ra các thứ bất tịnh.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán tử thi hoặc chết một ngày hoặc hai ngày, hoặc ba ngày,
hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, thân thể
sình trướng, hôi thối chẳng sạch. Tỳ-kheo lại tự quán thân
cùng kia không khác, thân ta chẳng thoát khỏi hoạn này. Hoặc
Tỳ-kheo lại quán tử thi bị quạ, thước, kên kên ăn nuốt, hoặc
bị hổ lang, chó sói, các loài trùng thú trông thấy ăn thịt.
Tỳ-kheo lại tự quán thân mình cùng kia không khác, thân ta
chẳng lìa khỏi hoạn này. Ðó là Tỳ-kheo quán thân mà tự vui
thích.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán tử thi hoặc bị ăn một nửa rơi rớt trên đất hôi thúi chẳng
sạch. Tỳ-kheo lại tự quán thân mình cùng kia không khác, thân
ta chẳng lìa pháp này.
-
Lại nữa, quán tử
thi bị ăn hết thịt chỉ còn có xương bê bết máu. Tỳ-kheo lại
đem thân này quán như thân kia cũng không có khác. Tỳ-kheo
quán thân này như thế.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán tử thi gân ràng rịt như bó củi. Tỳ-kheo lại tự quán thân
cùng thân kia không khác. Tỳ-kheo quán thân này như thế.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán tử thi từng đốt xương phân tán rơi vãi khắp nơi. Hoặc
xương tay, xương chân mỗi thứ một nơi, hoặc xương đùi, hoặc
xương hông, hoặc xương cùng, hoặc xương tay, hoặc xương vai,
hoặc xương sườn, hoặc xương sống, hoặc xương cổ, hoặc đầu lâu.
Lại nữa, thân này cùng kia chẳng khác. Ta chẳng thoát khỏi
pháp này. Thân ta cũng sẽ bại hoại. Như thế Tỳ-kheo quán thân
mà tự vui thích.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
quán tử thi màu trắng, màu ngọc trắng. Tỳ-kheo lại tự quán
thân này cùng kia không khác, ta chẳng lìa khỏi pháp này. Ðó
là Tỳ-kheo tự quán thân.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
nếu thấy tử thi, tưởng xương xanh bầm, không có gì đáng tham
đắm, hoặc cùng màu tro đất chẳng thể phân biệt, thời như thế
Tỳ-kheo tự quán thân trừ bỏ niệm ác không có sầu lo. Thân này
vô thường là pháp phân tán. Như thế Tỳ-kheo nội tự quán thân,
ngoại quán thân, nội ngoại quán thân hiểu rằng không có.
-
Thế nào là Tỳ-kheo
nội quán thọ khổ? Ở đây, Tỳ-kheo, lúc được thọ vui thì tự giác
tri mình được thọ vui, lúc bị thọ khổ thì tự giác tri mình bị
thọ khổ, lúc được thọ không vui không khổ tức tự giác tri ta
được thọ không khổ không vui. Nếu lúc thọ vui, liền tự giác
tri ta thọ vui. Nếu lúc thọ khổ, liền tự giác tri ta thọ khổ.
Nếu lúc thọ không khổ không vui, liền tự giác tri ta thọ không
khổ không vui. Nếu lúc không thọ vui, liền tự giác tri ta
không thọ vui. Nếu lúc không thọ khổ, liền tự giác tri ta
không thọ khổ. Nếu lúc thọ không khổ kho vui, liền tự giác tri
ta thọ không khổ không vui. Tỳ-kheo nội tự quán thọ như thế.
-
Lại nữa, nếu
Tỳ-kheo lúc được thọ vui, lúc ấy không bị thọ khổ, thời tự
giác tri ta được thọ vui. Nếu lúc thọ khổ, lúc ấy không được
thọ vui thời tự giác tri ta thọ khổ. Nếu lúc được không khổ
không vui, lúc đó không phải khổ, không phải vui thời tự giác
tri ta thọ không khổ không vui. Người đó tập pháp mà tự vui
thích, cũng quán diệt pháp, lại quán pháp tập và diệt. Hoặc
lại có thọ hiện ở trước, có thể biết, có thể thấy, suy nghĩ
nguồn gốc của nó thì không có chỗ y cứ, bèn tự vui thích,
không khởi tưởng thế gian. Ở trong đó cũng không kinh sợ. Vì
không kinh sợ liền được Niết-bàn: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh
đã thành, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân nữa',
như thật mà biết. Tỳ-kheo nội tự quán thọ như thế, trừ bỏ loạn
niệm không có sầu lo, ngoại tự quán thọ, nội ngoại quán thọ,
trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Như thế Tỳ-kheo nội ngoại
quán thọ.
-
Thế nào là Tỳ-kheo
quán tâm, tâm pháp mà tự vui thích? Ở đây, Tỳ-kheo có tâm ái
dục, liền tự giác tri có tâm ái dục, không có tâm ái dục cũng
tựgiác tri không có tâm ái dục. Có tâm sân nhuế, liền tự giác
tri có tâm sân nhuế; không tâm sân nhuế cũng tự giác tri không
tâm sân nhuế. Có tâm ngu si, liền tự giác tri có tâm ngu si;
không có tâm ngu si cũng tự giác tri không có tâm ngu si. Có
tâm ái niệm, liền tự giác tri có tâm ái niệm; không tâm ái
niệm cũng tự giác tri không có tâm ái niệm. Có tâm thọ nhận,
liền tự giác tri không tâm thọ nhận. Có tâm loạn niệm, liền tự
giác tri có tâm loạn niệm; không có loạn tâm cũng tự giác tri
không có loạn tâm. Có tâm tán lạc, liền tự giác tri có tâm tán
lạc; không tâm tán lạc cũng tự giác tri không tâm tán lạc. Có
tâm phổ biến cũng tự giác tri có tâm phổ biến. Có tâm lớn,
liền tự giác tri có tâm lớn; không có tâm lớn cũng tự giác tri
không có tâm lớn. Có tâm vô lượng, liền tự giác tri có tâm vô
lượng; không có tâm vô lượng cũng tự giác tri không có tâm vô
lượng. Có tâm tam muội, liền tự giác tri có tâm tam muội;
không có tâm tam muội cũng tự giác tri không có tâm tam muội.
Tâm chưa giải thoát, liền tự giác tri tâm chưa giải thoát; tâm
đã giải thoát cũng tự giác tri tâm đã giải thoát.
-
Như thế, Tỳ-kheo!
Hãy quán ý chỉ, quán tập pháp, quán diệt pháp, cùng quán pháp
tập diệt; suy nghĩ về pháp để tự vui thích. Hãy biết, hãy
thấy, hãy tư duy, chớ suy nghĩ việc không có chỗ nương tựa,
không được khởi tưởng thế gian. Ðã không khởi tưởng liền không
sợ hãi, đã không sợ hãi liền được vô dư, đã được vô dư liền
nhập Niết-bàn: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc phải
làm đã xong, không còn thọ thân sau nữa', như thật mà biết.
-
Như vậy, Tỳ-kheo!
Nội quán tự tâm, tâm ý dừng bặt, trừ bỏ loạn tưởng, không có
sầu lo, ngoại quán tâm, nội ngoại quán tâm, tâm ý dừng bặt,
trừ bỏ loạn niệm, không có sầu lo. Ngoại quán tâm, nội quán
tâm, tâm ý dừng. Như vậy Tỳ-kheo tâm tâm quán nhau, ý dừng.
-
Thế nào là Tỳ-kheo
pháp pháp tương quán ý dừng? Ở đây, Tỳ-kheo tu niệm giác ý, y
quán, y vô dục, y diệt tận, bỏ các pháp ác, tu pháp giác ý, tu
tinh tấn giác ý, tu niệm giác ý, tu hỷ (khinh an) giác ý, tu
tạm muội giác ý, tu hộ (xả) giác ý, y quán, y vô dục, y diệt
tận, bỏ các pháp ác. Như vậy là Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý
dừng.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo
đối với ái dục giải thoát, trừ pháp ác bất thiện, có giác, có
quán, có buộc niệm vui ở Sơ thiền mà tự vui thích. Như thế là
Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý dừng.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo bỏ
giác, bỏ quán, bên trong phát hoan hỉ chuyên nhất ý, thành tựu
không giác, không quán niệm niệm nương vào hỷ mà an; vui ở Nhị
thiền mà tự vui thích. Như vậy là Tỳ-kheo pháp pháp tương quán
ý dừng.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo xả
niệm, tu ở hộ. Hằng tự giác tri thân (giác), vui chỗ cầu của
chư Hiền Thánh, hộ niệm thanh tịnh hành ở Tam thiền. Như vậy
là Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý dừng.
-
Lại nữa, Tỳ-kheo xả
tâm khổ vui, lại không lo mừng, không khổ vui, hộ niệm thanh
tịnh vui ở Tứ thiền. Như vậy là Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý
dừng.
-
Vị ấy hành tập
pháp, hành diệt pháp cùng hành pháp tập diệt mà tự vui thích,
liền được pháp ý dừng hiện ở trước, có thể biết, có thể thấy,
trừ bỏ loạn tưởng không chỗ nương tựa, chẳng khởi tưởng thế
gian. Ðã chẳng khởi tưởng liền không sợ hãi. Ðã không sợ hãi
thời: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đã
xong, không còn thọ thân sau nữa', như thật mà biết.
-
Này các Tỳ-kheo,
nương một lối vào đạo, chúng sanh sẽ được thanh tịnh, xa lìa
buồn lo, lại không có tưởng vui, liền có trí tuệ, chứng được
Niết-bàn. Ðó là diệt Năm triền cái, tu Bốn ý chỉ.
-
Bấy giờ, các
Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ta ở trong đây,
không thấy một pháp nào mau đưa đến hoại diệt như là ganh
ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên các Tỳ-kheo! Hãy tu hành từ
nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ. Như thế, các
Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có một người
xuất hiện ở đời, tối tôn, tối thượng trong các Trời, Người, Ma
và Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, không ai sánh bằng, là phước
điền đệ nhất, đáng phụng sự, đáng cung kính.
-
Thế nào là một
người? Nghĩa là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Ðó là một
người xuất hiện ở đời vượt hẳn Trời, Người, A-tu-la, Ma và Ma
thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, là bậc tối tôn, tối thượng, không ai
sánh bằng, là phước điền bậc nhất, đáng phụng sự, đáng cung
kính. Như vậy, các Tỳ-kheo, hãy thường nên cung dường Như Lai.
Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có người săn
sóc người bệnh là đã săn sóc Ta. Người trông nom người bệnh
tức là đã trông nom Ta. Sở dĩ như thế là vì nay Ta đích thân
coi sóc người tật bệnh.
-
Này các Tỳ-kheo, Ta
không thấy một người nào trong chư Thiên, thế gian, Sa-môn,
Bà-la-môn mà bố thí tối thượng hơn sự bố thí này. Người hành
bố thí này mới đúng là thí, sẽ thu hoạch quả báo lớn, được
công đức lớn, tiếng tăm trùm khắp, được vị cam lồ. Nghĩa là
Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác biết rằng bố thí tối thượng
không gì hơn thí này. Người hành bố thí này mới đúng là thí,
thu hoạch quả báo lớn, được công đức lớn. Nay Ta vì nhân duyên
này mà nói như thế. Săn sóc người bệnh tức là đã săn sóc Ta
không khác. Các Thầy sẽ luôn luôn được phước đức lớn.
-
Như vậy, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nếu có người tán
thán A-lan-nhã (tịch tĩnh) là đã tán thán Ta. Sở dĩ như thế,
vì nay Ta thường tự tán thán hạnh A-lan-nhã. Nếu có người phỉ
báng A-lan-nhã tức là phỉ báng Ta. Nếu có người tán thán khất
thực tức là đã tán thán Ta. Sở dĩ như thế, vì Ta hằng tán thán
người hay khất thực. Nếu người hủy báng khất thực là đã hủy
báng Ta. Có người tán thán độc cư tức là tán thán Ta. Sở dĩ
như thế là vì Ta hằng tán thán người độc cư. Có người hủy báng
người độc cư là đã hủy báng Ta. Có người tán thán người ngồi
một chỗ, ăn một bữa, tức là đã tán thán Ta. Sở dĩ như thế, vì
Ta hằng tán thán người ngồi một chỗ, ăn một bữa. Ai hủy báng
người này tức là đã hủy báng Ta. Nếu có người tán thán người
ngồi dưới gốc cây tức là tán thán Ta không khác. Sở dĩ như thế
là vì Ta hằng tán thán người ngồi dưới gốc cây. Nếu có ai hủy
báng người ngồi dưới gốc cây tức là đã hủy báng Ta. Nếu có ai
tán thán người ngồi chỗ đất trống, tức là đã tán thán Ta. Sở
dĩ như thế, là vì Ta hằng tán thán người ngồi nơi đất trống
(lộ tọa). Ai hủy nhục người ngồi nơi đất trống tức là đã hủy
nhục Ta. Ai tán thán người ở chỗ vắng vẻ an nhàn tức là đã tán
thán Ta. Vì sao như thế? Vì Ta hằng tán thán người ở chỗ vắng
vẻ an nhàn. Ai hủy nhục người ở chỗ vắng vẻ an hành tức là đã
hủy nhục Ta. Ai tán thán người mặc áo năm mảnh là đã tán thán
Ta. Vì sao như thế? Vì Ta hằng tán thán người mặc áo năm mảnh.
Ai hủy nhục người mặc áo năm mảnh tức là đã hủy nhục Ta. Ai
tán thán người giữ ba y tức là đã tán thán Ta. Vì sao như thế?
Vì ta hằng tán thán người giữ ba y. Ai hủy nhục người giữ ba y
tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thán người ngồi ở gò mả là đã
tán thán Ta. Vì sao như thế? Vì Ta hằng tán thán người ngồi ở
gò mả. Ai hủy nhục người ngồi ở gò mả tức là đã hủy nhục Ta.
Ai tán thán người ăn một bữa, tức là đã tán thán Ta. Vì sao
như thế? Vì Ta thường tán thán người ăn một bữa. Ai hủy nhục
người ăn một bữa tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thán người ăn
đúng ngọ là đã tán thán Ta. Vì sao như thế? Vì ta hằng tán
thán người ăn đúng ngọ. Ai hủy báng người người ăn đúng ngọ
tức là hủy báng Ta. Ai tán thán người hành đầu đà tức là đã
tán thán Ta. Vì sao như thế? Vì Ta hằng tán thán các người
hành đầu đà. Ai hủy nhục người hành đầu đà tức là đã hủy nhục
Ta. Nay Ta dạy các Tỳ-kheo hãy như sở hành của Ðại Ca-diếp,
không có sơ sót. Vì sao như thế? Vì Tỳ-kheo Ca-diếp có các
hạnh này. Thế nên các Tỳ-kheo, hãy thường nên học như Ðại
Ca-diếp.
-
Như vậy, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với đại chúng
Tỳ-kheo năm trăm vị.
-
Bấy giờ Tôn giả Ðại
Ca-diếp trụ A-lan-nhã. Ðến giờ khất thực, Tôn giả không phân
biệt giàu nghèo. Tôn giả ở một nơi, ngồi một chỗ hoặc dưới gốc
cây, hoặc ngoài đồng trống, hoặc ở chỗ vắng vẻ trọn không dời
đổi, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc ở gò mả, hoặc ăn một
bữa, hoặc ăn chính ngọ, hoặc hành đầu đà mặc dù tuổi cao già
cả. Bấy giờ Tôn giả Ðại Ca-diếp ăn xong liền đến dưới một cội
cây thiền định, thiền định xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
sửa sang y phục, đi đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn từ xa
trông thấy Ca-diếp đến. Thế Tôn bảo rằng:
-
- Khéo đến,
Ca-diếp!
-
Ca-diếp đến chỗ
Phật cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn dạy rằng:
-
- Ca-diếp! Nay Thầy
đã lớn tuổi, già cả, quá suy, lọm khọm, vậy Thầy nên bỏ hạnh
khất thực, cho đến các hạnh đầu đà, mà nên nhận lời mời của
các Trưởng giả và nhận y áo.
-
Ca-diếp đáp:
-
- Con không dám
theo lời Như Lai dạy. Vì sao? Vì nếu Như Lai không thành đạo
Vô thượng Chánh chân, thì con ắt thành Bích-chi Phật, mà
Bích-chi Phật trọn hành A-lan-nhã. Ðến giờ khất thực, con
không phân biệt giàu, nghèo. Con ở một nơi, ngồi một chỗ hoặc
ngồi dưới gốc cây, hoặc ngoài đồng trống, hoặc chỗ vắng vẻ
trọn chẳng dời đổi, hoặc mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc
ở gò mả, hoặc ăn một bữa, hoặc ăn đúng ngọ, hoặc hành đầu đà.
Nay con chẳng dám bỏ thói cũ mà học hạnh khác.
-
Thế Tôn bảo rằng:
-
- Lành thay! Lành
thay Ca-diếp! Thầy có nhiều lợi ích, độ người vô lượng, rộng
đến tất cả Trời, Người đều được độ. Vì sao? Ca-diếp! Nếu hạnh
đầu đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở
đời. Nếu có pháp ở đời, thì Thiên đạo tăng thêm, ba đường ác
liền giảm. Cũng vậy thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, đạo
Tam thừa đều còn ở đời. Này các Tỳ-kheo, hãy học như Ca-diếp
tu tập.
-
Như vậy, các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Lợi dưỡng quá
nặng khiến người không đến được đạo Vô thượng Chánh chân. Vì
sao như thế? Này các Tỳ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa ngu si kia nhận năm
trăm nồi cơm của Vương tử Ba-la-lưu-chi (A-xà-thế) cúng dường.
Nếu ông ta không cho, Ðề-bà-đạt-đa ngu si trọn không tạo việc
ác này. Vì Vương tử Ba-la-lưu-chi hằng ngày đem năm trăm nồi
cơm đến cúng dường nên Ðề-bà-đạt-đa mới khởi năm điều nghịch
ác, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục A-tỳ. Do phương
tiện này mà biết lợi dưỡng quá nặng khiến người chẳng đến được
đạo Vô thượng Chánh chân. Nếu chưa sanh tâm lợi dưỡng, chớ nên
sanh, đã sanh thì nên diệt đi. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học
điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật, cùng với đại chúng
Tỳ-kheo năm trăm vị.
-
Bấy giờ
Ðề-bà-đạt-đa làm rối loạn chúng Tăng, làm chân của Như Lai bị
thương, xúi A-xà-thế giết vua cha, lại giết La-hán Tỳ-kheo-ni,
rồi tuyên bố với đại chúng rằng: 'Chỗ nào có ác, ác từ đâu
sanh? Ai làm việc ác này, phải chịu quả báo đó. Ta cũng chẳng
làm việc ác này mà phải chịu quả báo'.
-
Bấy giờ có nhiều
chúng Tỳ-kheo vào thành La-duyệt khất thực, nghe nói
Ðề-bà-đạt-đa ngu si tuyên bố ở trong đại chúng: 'Chỗ nào có
ác, ác từ đâu sanh? Ai làm việc ác này phải chịu quả báo đó'.
-
Bấy giờ những
Tỳ-kheo ấy ăn xong, liền cầm y bát, vắt tọa cụ lên vai mặt, đi
đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi một bên. Bấy giờ các
chúng Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
-
- Ðề-bà-đạt-đa ngu
si tuyên bố ở trong đại chúng rằng: 'Vì sao làm ác không có
tai ương, làm lành không có quả báo? Ðó là vì không có quả báo
thiện ác'.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có ác thì có tội,
các hạnh thiện ác đều có báo ứng. Nếu Ðề-bà-đạt-đa ngu si kia
biết có quả báo thiện ác, thì sẽ khô héo, sầu lo chẳng vui,
máu sôi sẽ phun đầy mặt. Vì Ðề-bà-đạt-đa chẳng biết quả báo
của thiện ác, do đó mới ở trong đại chúng mà tuyên bố không có
quả báo thiện ác, làm ác không tai ương, làm thiện không có
phước quả.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Người ngu tự xét
rõ,
-
Làm ác không có
phước báo,
-
Nay Ta rõ biết
trước,
-
Báo ứng của thiện
ác.
-
Như thế, này các
Tỳ-kheo, hãy xa lìa ác, làm phước chớ mệt mỏi. Các Tỳ-kheo,
nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nhận lợi dưỡng
của người rất nặng, chẳng phải dễ, khiến người chẳng đến được
chỗ vô vi. Vì sao như thế? Vì quả báo của lợi dưỡng cắt vào da
người; vì cắt vào da liền cắt thịt, vì cắt thịt liền đứt
xương, vì đứt xương liền thấu tủy. Này các Tỳ-kheo, hãy dùng
phương tiện này liền biết lợi dưỡng rất nặng. Nếu chưa sanh
tâm lợi dưỡng thì chớ sanh, đã sanh thì khiến cho diệt. Như
vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nhận lợi dưỡng
của người thật là chẳng phải dễ, khiến người chẳng đến được
chỗ vô vi. Vì sao như thế? Nếu Tỳ-kheo Lợi-sư-la kia chẳng
tham lợi dưỡng thì chẳng làm việc sát sanh vô lượng như thế,
thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Nhận lợi dưỡng
người nhiều,
-
Hoại hạnh thanh
bạch người,
-
Thế nên chế ngự
tâm,
-
Chớ tham đắm mùi
vị.
-
Lợi-sư được định
rồi
-
Cho đến trời Ðế
Thích
-
Thần thông bị tổn
giảm,
-
Ðọa vào ngục chém
giết.
-
Các Tỳ-kheo hãy
dùng phương tiện này liền biết nhận lợi dưỡng của người thật
chẳng phải dễ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này: 'Chưa
sanh tâm lợi dưỡng phải chế ngự khiến chẳng sanh, đã sanh tâm
này hãy cầu phương tiện khiến cho tiêu diệt'. Như vậy, các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|