|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 2
-
XVI. Phẩm Hỏa Diệt
-
-
1. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nam-đà ở trong vườn Tượng Hoa, lúc đó Tôn giả Nan-đà ở chỗ
vắng vẻ liền nghĩ rằng:
-
- Như Lai ra đời
rất khó gặp, ức kiếp mới xuất hiện, thật không thể thấy Như
Lai trải qua một thời gian lâu xa mới xuất hiện; như hoa
Ưu-đàm-bát xuất hiện, đây cũng như thế. Như Lai ra đời rất khó
gặp, ức kiếp mới xuất hiện thật không thể thấy. Nơi này cũng
khó gặp; tất cả hành thảy đều dứt hẳn, ái sạch không sót, cũng
không ô nhiễm, diệt tận, Niết-bàn.
-
Bấy giờ có một
Thiên tử Ma hạnh, biết được tâm tư của Tôn giả Nan-đà, liền
đến chỗ Tôn-đà-lợi, con gái họ Thích; bay trên không, dùng bài
tụng này tán thán:
-
Nay Cô hãy vui vẻ,
-
Mặc đẹp, trổi ngũ
nhạc,
-
Nan-đà bỏ pháp
phục,
-
Tương lai cùng vui
thú.
-
Bấy giờ cô gái họ
Thích Tôn-đà-lợi nghe Thiên tử nói xong, hoan hỷ nhảy nhót
không dừng được, liền tự trang điểm, dọn dẹp nhà cửa, trải tọa
cụ tốt, thổi kỹ nhạc như lúc Nan-đà còn ở nhà không khác.
-
Bấy giờ vui
Ba-tư-nặc đang nhóm tại giảng đường Phổ Hội, nghe Tỳ-kheo
Nan-đà trả lại pháp phục, học tập nghiệp nhà. Vì sao thế? Vì
có vị Trời ở trên hư không bảo người vợ như thế. Bấy giờ, vua
Ba-tư-nặc nghe lời này xong lo buồn liền cỡi voi trắng đi đến
vườn kia. Ðến nơi, vào trong hồ Hoa Tượng, trông thấy Tôn giả
Nan-đà từ xa, liền đến chỗ Nan-đà quỳ lạy rồi ngồi một bên.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nan-đà bảo vua Ba-tư-nặc rằng:
-
- Vì sao Ngài lại
đến đây, mặt mày biến sắc, có việc gì mà đến chỗ tôi?
-
Vua Ba-tư-nặc đáp:
-
- Tôn giả nên biết,
tôi ở giảng đường Phổ Tập, nghe Tôn giả bỏ pháp phục, sống lại
đời bạch y. Nghe lời này, xong, nên mới đến đây. Chẳng rõ Tôn
giả chỉ dạy thế nào?
-
Lúc này Tôn giả
Nan-đà cười nụ rồi chậm rãi bảo vua:
-
- Không thấy, không
nghe, này Ðại vương, tại sao lại nói như thế? Ðại vương, há
không nghe Như Lai nói tôi đã trừ các kiết, sanh tử đã dứt,
Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ
thân nữa, như thật mà biết; nay thành A-la-hán, tâm được giải
thoát sao?
-
Vua Ba-tư-nặc nói:
-
- Tôi chẳng nghe
Như Lai nói Tỳ-kheo Nan-đà sanh tử đã dứt, đắc A-la-hán, tâm
được giải thoát. Vì sao thế? Có vị Trời đến bảo con gái họ
Thích Tôn-đà-lợi như thế. Bấy giờ, phu nhân Tôn-đà-lợi nghe
lời này rồi, liền xướng kỹ nhạc, sửa sang phục sức, trải các
tọa cụ. Tôi nghe vậy, liền đến chỗ Tôn giả.
-
Nan-đà bảo vua:
-
- Vua chẳng biết,
chẳng nghe, cớ sao lại nói thế? Có các Sa-môn, Bà-la-môn lúc
nào cũng vui cái vui ngưng dứt, vui thiện thệ, vui Sa-môn, vui
Niết-bàn này chẳng ai đã tự xem dâm như hầm lửa mà còn đến đó.
Việc này không đúng. Xương như vòng khóa, thịt như đống đá,
như dao bôi mật, ngồi tham chút lợi nhỏ, chẳng lo cái hoạn về
sau, cũng như trái nhiều thì cành gãy, cũng như mắc nợ không
lâu phải trả, giống như rừng cây kiếm, cũng như thuốc độc hại,
cũng như lá độc, như hoa trái độc. Tôi quán dâm dục này cũng
lại như thế, mà còn có ý nhiễm trước thì việc này không đúng.
Từ hầm lửa dục cho đến trái độc, nếu không quán việc này mà
muốn qua được dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu, và muốn
vào cõi Vô dư Niết-bàn để Bát-niết-bàn. Việc này không đúng.
-
- Ðại vương nên
biết! Có các Sa-môn, Bà-la-môn quán sát: Ðây là cái vui ngưng
dứt, vui thiện thệ, vui Sa-môn, vui Niết-bàn. Việc này ắt
đúng. Người ấy quán sát như thế này: hiểu rõ hầm lửa dâm giống
như khối xương, đống thịt, dao bén bôi mật, trái nhiều cành
gãy, mắc nợ; cũng như cây kiếm, cây độc, như thuốc độc hại,
thảy đều quán biết rõ. Ðây là điều có được. Ðã hiểu biết rõ
chỗ nổi lên của lửa dâm, liền có thể qua được dục lưu, hữu
lưu, kiến lưu, vô minh lưu. Việc này ắt đúng.
-
Thế nào, Ðại vương,
lấy gì thấy, lấy gì biết mà nói thế? Nay tôi, này Ðại vương,
đã thành A-la-hán, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải
làm đã làm xong, không còn vào thai mẹ nữa, tâm được giải
thoát.
-
Bấy giờ vua
Ba-tư-nặc trong lòng vui vẻ, tâm lành nảy sinh, bạch Tôn giả
Nan-đà rằng:
-
- Nay tôi không còn
hồ nghi chút nào nữa, biết Tôn giả đã thành A-la-hán. Nay xin
phép cáo từ, vì việc nước bộn bề.
-
Tôn giả Nan-đà đáp:
-
- Nên biết phải
lúc.
-
Bấy giờ vua
Ba-tư-nặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy rồi lui đi. Vua
Ba-tư-nặc đi chưa bao lâu, thì Thiên ma kia đến chỗ Tôn giả
Nan-đà, đứng giữa hư không, lại dùng kệ này nói với Tôn giả
Nan-đà:
-
Mặt phu nhân như
trăng,
-
Thân vàng bạc ngọc
ngà,
-
Nhớ dáng và nét
mặt,
-
Ngũ nhạc thường tự
vui,
-
Gãy đàn, đánh trống
ca,
-
Âm thanh rất mềm
mại,
-
Hay trừ các sầu lo,
-
Sao vui trong rừng
này.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nan-đà liền nghĩ rằng:
-
- Ðây là Thiên nhân
Ma hạnh.
-
Hiểu biết vậy rồi,
ngài dùng kệ đáp:
-
Ta xưa có tâm này,
-
Dâm dục không biết
chán,
-
Bị dục cột vào
trong,
-
Chẳng biết già,
bịnh, chết.
-
Ta qua vực ái dục,
-
Không dơ, không đắm
nhiễm,
-
Vinh hoa thảy là
khổ,
-
Riêng vui pháp chân
như.
-
Nay ta không các
kiết,
-
Dâm, nộ, si đều
dứt,
-
Không còn tập pháp
này,
-
Người ngu nên giác
tri.
-
Bấy giờ, Thiên nhân
Ma hạnh kia nghe lời này liền ôm sầu lo, rồi ở đó biến mất.
-
Lúc đó, nhiều
Tỳ-kheo đem chuyện này bạch lại đầy đủ với Thế Tôn. Bấy giờ
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-
- Tỳ-kheo đoan
chính không ai hơn Tỳ-kheo Nan-đà; các căn đạm bạc cũng là
Tỳ-kheo Nan-đà; không có tâm dục cũng là Tỳ-kheo Nan-đà; không
có sân giận cũng là Tỳ-kheo Nan-đà; không có ngu si cũng là
Tỳ-kheo Nan-đà; thành A-la-hán cũng là Tỳ-kheo Nan-đà. Vì sao
như thế? Tỳ-kheo Nan-đà đoan chánh, các căn tịch tĩnh.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ðệ tử đoan chánh
trong hàng Thanh văn của Ta là Tỳ-kheo Nan-đà, các căn tịch
tĩnh cũng là Tỳ-kheo Nan-đà.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng theo.
-
2- Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai pháp về
Niết-bàn này. Thế nào là hai? Hữu dư Niết bàn và Vô dư
Niết-bàn.
-
Kia tại sao gọi là
Hữu dư Niết-bàn? Ở đây, Tỳ-kheo diệt Năm hạ phần kiết sử, tức
người đó nhập Niết-bàn, không trở lại cõi này. Ðó gọi là Hữu
dư Niết-bàn.
-
Kia tại sao gọi là
Vô dư Niết-bàn? Nghĩa là Tỳ-kheo dứt hết hữu lậu thành vô lậu,
ý giải thoát, trí tuệ giải thoát, tự thân tác chứng mà tự du
hý, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm
xong, chẳng còn thọ thân nữa, như thật mà biết. Ðó là Vô dư
Niết-bàn.
-
Trong hai Niết-bàn
này, nên tìm phương tiện đến Vô dư Niết-bàn. Như vậy, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nay Ta sẽ nói thí
dụ về quạ, cũng sẽ nói thí dụ về heo. Hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ
giảng nói.
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Các Tỳ-kheo vâng
lời Phật dạy, Thế Tôn bảo rằng:
-
- Kia tại sao gọi
là người ví như quạ? Ví như có người ở chỗ tịch tĩnh, hằng tập
dâm dục làm các hạnh ác; sau bèn xấu hổ, rồi tự hối lỗi, và
trình bày rõ việc mình làm cho người nghe. Vì sao như thế?
Hoặc bị các người Phạm hạnh thấy chỉ trích. Người này quen
thói dâm dục, làm các hạnh ác. Người ấy làm các hạnh ác rồi,
hối lỗi với người, tự biết xấu hổ. Giống như con quạ hằng chịu
đói khổ, ăn đồ dơ dáy rồi chùi mỏ sợ có chim khác thấy, nói
rằng con quạ này ăn đồ bẩn thỉu. Ðây cũng như thế, nếu có một
người ở chỗ vắng vẻ, tập dâm dục, làm hạnh chẳng lành, sau lại
xấu hổ mà tự hối lỗi, trình bày với người việc mình làm. Sở dĩ
như thế, hoặc bị các người Phạm hạnh trông thấy nhớ biết người
này tập dục, làm các hạnh ác. Ðó gọi là người giống như quạ.
-
Kia sao gọi là
người như heo?
-
Nếu có một người ở
chỗ vắng vẻ, tập mãi dâm dục, làm các hạnh ác, cũng chẳng xấu
hổ, lại không hối lỗi, đối với người tự khen mình, cống cao tự
dụng: "Tôi có thể được ngũ dục tự vui thú, mấy người này không
có thể được ngũ dục". Người ấy làm ác rồi không xấu hổ. Người
này ví như heo, hằng ăn đồ dơ bẩn, nằm chỗ bất tịnh, rồi lại
lăng xăng đối với các heo khác. Ðây cũng như thế, nếu có người
tập thói dâm dục, làm các hạnh ác, cũng chẳng xấu hổ, lại
chẳng hối lỗi, đối với người tự khen mình, cống cao, tự cho
là: "Ta có thể được ngũ dục để vui thú, các người này không
thể được ngũ dục để vui thú". Ðây gọi là người như heo. Thế
nên, này các Tỳ-kheo, hãy nên xa lìa. Như thế, các Tỳ-kheo,
nên học điều này.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Hôm nay Ta sẽ nói
về: Có người giống lừa, có người giống trâu. Lắng nghe, lắng
nghe, khéo suy nghĩ đó!
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Các Tỳ-kheo vâng
lời Phật dạy rồi, Thế Tôn bảo rằng:
-
- Kia sao gọi là
người giống lừa?
-
Nếu có một người
cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia
học đạo. Bấy giờ người kia các căn bất định. Nếu mắt thấy sắc
theo đó khởi tưởng về sắc, theo đuổi vạn mối lúc đó nhãn căn
không trong sạch, sanh các loạn tưởng, không thể gìn giữ, các
ác đến đủ khắp; cũng lại chẳng thể hộ trì nhãn căn; tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân biết xúc chạm, ý biết
pháp, theo đó khởi thức bịnh, rong ruổi vạn mối. Bấy giờ ý căn
không thanh tịnh, sanh các loạn tưởng, chẳng thể gìn giữ, các
ác đến đủ, cũng lại chẳng thể hộ trì ý căn, không có oai nghi
lễ tiết cần thiết; bước đi, tiến dừng, co duỗi, cúi ngước, cầm
giữ y bát đều trái giới cấm, liền bị người có Phạm hạnh trông
thấy chỉ trích. "Chao ôi! Người ngu này tựa như Sa-môn" rồi
chịu sự chê trách: "Nếu là Sa-môn đáng ra không nên như thế".
Người ấy nói rằng: "Tôi cũng là Tỳ-kheo! Tôi cũng là Tỳ-kheo!"
Ví như con lừa vào trong bầy trâu rồi tự xưng rằng: "Tôi cũng
là trâu, tôi cũng là trâu", nhưng xem hai lỗ tai lại chẳng
giống trâu, sừng cũng không giống, đuôi cũng chẳng giống, âm
thanh cũng khác. Bấy giờ bầy trâu hoặc lấy sừng húc, hoặc lấy
chân đá hoặc lấy miệng cắn. Nay Tỳ-kheo này cũng lại như thế,
các căn bất định, nếu mắt thấy sắc, theo khởi tưởng sắc, rong
ruổi muôn mối; bấy giờ nhãn căn chẳng thanh tịnh, sanh các
loạn tưởng, chẳng thể gìn giữ, các ác đến đủ, cũng lại chẳng
thể hộ trì về nhãn căn, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị, thân biết xúc chạm, ý biết pháp, theo đó khởi thức bịnh,
rong ruổi muôn mối. Bấy giờ ý căn chẳng thanh tịnh, sanh các
loạn tưởng, chẳng thể gìn giữ, các ác đủ cả; cũng lại chẳng
thể hộ trì ý căn; không có oai nghi lễ tiết đáng làm; đi bước,
tiến dừng, co duỗi, cúi ngước, cầm giữ y bát, đều trái cấm
giới, liền bị người có Phạm hạnh trông thấy chỉ trích: "Ôi!
Người ngu này tựa như Sa-môn" rồi bị nêu lỗi: "Nếu là Sa-môn,
đáng ra không nên như thế!". Người ấy nói rằng: "Tôi là
Sa-môn", giống như con lừa vào trong bầy trâu. Ðó là người
giống lừa.
-
Người kia tại sao
giống trâu?
-
Nếu có một người
cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia
học đạo. Bấy giờ người kia các căn tịch tịnh, ăn uống biết
tiết chế, suốt ngày kinh hành chưa hề rời xa, ý nghĩ pháp Ba
mươi bảy đạo phẩm. Nếu mắt thấy sắc, chẳng khởi tưởng sắc,
cũng không niệm rong ruổi. Bấy giờ, nhãn căn sẽ được thanh
tịnh, sanh các tưởng lành, cũng hay gìn giữ không có các ác
nữa, thường ủng hộ nhãn căn; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi,
lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm, ý biết pháp, chẳng khởi thức
bịnh. Bấy giờ ý căn được thanh tịnh. Người kia liền biết đến
chỗ các người Phạm hạnh. Các bậc Phạm hạnh từ xa trông thấy
người ấy đến, ai nấy tự kêu lên: "Chào mừng, bạn đồng học!"
-
Rồi tùy thời cúng
dường, không để thiếu thốn. Ví như trâu tốt vào trong bầy trâu
tự xưng rằng: "Nay tôi là trâu", thì lông, đuôi, tai, sừng, âm
thanh đều đúng là trâu. Các con trâu thấy rồi, mỗi con đến
liếm thân. Ðây cũng như thế, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, do
lòng tin kiên cố xuất gia học đạo. Bấy giờ người kia, các căn
thanh tịnh, uống ăn biết tiết độ, trọn ngày kinh hành chưa hề
lìa bỏ, ý đạo trong pháp Ba mươi bảy đạo phẩm. Nếu mắt thấy
sắc không khởi tưởng sắc, cũng không niệm rong ruổi. Bấy giờ,
nhãn căn được thanh tịnh, sanh các tưởng lành, cũng hay gìn
giữ, không có các điều ác nữa, thường ủng hộ nhãn căn; tai
nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm, ý
biết pháp, chẳng khởi thức bịnh. Bấy giờ ý căn được đầy đủ. Ðó
là người giống trâu.
-
Như vậy, các
Tỳ-kheo, nên học như trâu, chớ giống như lừa. Như vậy, này các
Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nay Ta sẽ nói về
hạnh thiện và bất thiện. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ
đó!
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Thế Tôn dạy:
-
- Thế nào gọi là
bất thiện? Thế nào gọi là thiện? Nghĩa là: sát sanh là bất
thiện, không sát sanh là thiện; lấy của không cho là bất
thiện, lấy của cho là thiện; dâm là bất thiện, không dâm là
thiện; nói dối là bất thiện, không nói dối là thiện; nói thêu
dệt là bất thiện, không nói thêu dệt là thiện; nói hai lưỡi là
bất thiện, không nói hai lưỡi là thiện, đấu loạn kia đây là
bất thiện, không đấu loạn kia đây là thiện; tham của người là
bất thiện, không tham của người là thiện; tà kiến là bất
thiện, chánh kiến là thiện. Như thế, này các Tỳ-kheo, hành
điều ác này xong, đọa trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nếu
người làm lành liền sanh trong loài Người, lên Trời và trong
các đường lành, A-tu-la. Thế nên, hãy xa lìa hạnh ác, tu tập
hạnh lành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ta sẽ thuyết pháp
vi diệu cho các Thầy; ban đầu lành, ở giữa lành và đến cuối
cũng lành, có nghĩa, có ý vị, tu pháp Phạm hạnh được đầy đủ.
Ðó là hai pháp. Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta
sẽ nói đầy đủ cho các Thầy.
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Lúc này các Tỳ-kheo
vâng lời Phật dạy rồi, Thế Tôn bảo rằng:
-
- Thế nào là hai
pháp? Nghĩa là tà kiến và chánh kiến; tà chí và chánh chí (tư
duy); tà ngữ và chánh ngữ; tà nghiệp và chánh nghiệp; tà mạng
và chánh mạng; tà phương tiện và chánh phương tiện (tinh tấn);
tà niệm và chánh niệm; tà tam muội và chánh tam muội. Ðó là,
này các Tỳ-kheo, gọi là hai pháp. Nay Ta đã nói hai pháp này
cho các Thầy. Như Lai điều đáng làm nay đã chu tất, khéo nhớ,
quán, tụng chớ có lười mỏi. Nay các Thầy không hành, về sau
hối chẳng kịp.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Nay Ta sẽ nói về
pháp "đuốc sáng", cũng sẽ nói nghiệp đuốc soi đường. Hãy lắng
nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ.
-
Các Tỳ-kheo đáp:
-
- Xin vâng, Thế
Tôn!
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Tại sao gọi đó là
đuốc sáng? Nghĩa là đã dứt hẳn tham dâm, sân giận và ngu si.
-
Tại sao gọi đó là
nghiệp đuốc soi đường? Nghĩa là chánh kiến, chánh chí, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh định,
chánh tam muội. Ðó là nghiệp đuốc soi đường. Ta vì các Thầy đã
nói về đuốc soi sáng, cũng nói về nghiệp đuốc soi đường. Như
Lai điều đáng làm nay đã chu tất. Hãy khéo nhớ tụng đọc, chớ
có giải đãi. Nay chẳng hành, về sau hối không kịp.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai lực này.
Thế nào là hai lực? Nghĩa là nhẫn lực và tư duy lực. Nếu Ta
không có hai lực này trọn chẳng thành Vô thượng Chánh chân
Chánh Ðẳng Giác.
-
Lại nữa, nếu không
có hai lực này, trọn chẳng ở xứ Ưu-lưu-tỳ khổ hạnh sáu năm,
lại cũng không thể hàng phục ma oán, thành đạo Vô thượng Chánh
Chân ngồi ở đạo tràng. Vì Ta có sức nhẫn, sức tư duy nên có
thể hàng phục chúng ma, thành đạo Vô thượng Chánh Chân, ngồi
tại đạo tràng. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện tu
hai lực này: nhẫn lực và tư duy lực; liền thành đạo
Tu-đà-hoàn, đạo Tư-đà-hàm, đạo A-na-hàm, đạo A-la-hán, ở Vô dư
Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều
này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
9. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
A-na-luật ở nước Câu-thi-na-kiệt là nơi sanh của ngài. Lúc đó,
Thích, Phạm, Tứ Thiên vương và năm trăm Thiên nhân cùng hai
mươi tám Ðại quỷ thần vương liền đến chỗ Tôn giả A-na-luật.
Ðến xong cúi đầu lạy rồi đứng một bên, lại dùng kệ này khen
A-na-luật:
-
Quy mạng nhân trung
thượng,
-
Ðược mọi người kính
thờ,
-
Nay chúng tôi chẳng
biết,
-
Ðang nương loại
Thiền nào?
-
Bấy giờ có Phạm chí
tên là Xà-bạt-trá là đệ tử của Phạm-ma-dụ, lại đến chỗ Tôn giả
A-na-luật, quỳ lạy rồi ngồi một bên. Lúc đó Phạm chí kia hỏi
Tôn giả A-na-luật rằng:
-
- Xưa tôi sanh tại
Vương cung, chưa hề được nghe mùi thơm tự nhiên này, có người
nào đến nơi đây? Hay là Thiên long, quỷ thần, nhân và phi nhân
chăng?
-
Bấy giờ ngài
A-na-luật đáp Phạm chí:
-
- Vừa rồi, Thích,
Phạm, Tứ Thiên vương và năm trăm Thiên nhân cùng hai mươi tám
Ðại quỷ thần vương đi đến chỗ tôi, quỳ lại rồi đứng một bên,
lại dùng kệ này mà khen tôi:
-
Quy mạng nhân trung
thượng,
-
Ðược mọi người kính
thờ,
-
Nay chúng tôi chẳng
biết,
-
Ðang nương loại
Thiền nào?
-
Phạm chí hỏi rằng:
-
- Vì sao mà nay tôi
không thấy hình bóng họ? Thích, Phạm, Tứ Thiên vương đang ở
đâu?
-
Tôn giả A-na-luật
đáp:
-
- Vì ông không có
Thiên nhãn cho nên không thấy Thích, Phạm, Tứ Thiên vương và
năm trăm Thiên nhân cùng hai mươi tám Ðại quỷ thần vương.
-
Phạm chí hỏi:
-
- Nếu tôi có được
Thiên nhãn thì thấy được Thích, Phạm, Tứ Thiên vương và hai
mươi tám Ðại quỷ thần vương này chăng?
-
Tôn giả A-na-luật
đáp:
-
- Nếu có được Thiên
nhãn thì có thể thấy được Thích, Phạm, Tứ Thiên vương và hai
mươi tám Ðại quỷ thần vương. Nhưng mà này Phạm chí, thiên nhãn
này đâu đủ cho là kỳ lạ; có Phạm thiên tên là Thiên Nhãn (ngàn
mắt), ông ta thấy ngàn thế giới này như người có mắt tự xem mũ
báu trong bàn tay mình. Vị Phạm thiên này cũng vậy, thấy ngàn
thế giới này không có chướng ngại. Nhưng vị Phạm thiên này
không tự thấy được phục sức trên thân mình.
-
Phạm chí hỏi:
-
- Vì cớ sao mà Phạm
thiên có Thiên nhãn lại không tự thấy phục sức trên thân mình?
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Vì vị Trời kia
không có mắt trí tuệ vô thượng, nên không tự thấy phục sức
trên thân mình.
-
Phạm chí hỏi:
-
- Nếu tôi có được
mắt trí tuệ vô thượng thì có thể thấy phục sức trên thân này
không?
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Nếu có được con
mắt trí tuệ vô thượng thì có thể thấy phục sức trên thân mình.
-
Phạm chí hỏi:
-
- Mong Tôn giả vì
tôi nói pháp cực diệu, khiến tôi được con mắt trí tuệ vô
thượng.
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Ông có giới
không?
-
Phạm chí hỏi:
-
- Thế nào gọi là
giới?
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Chẳng tạo các ác,
chẳng phạm phi pháp.
-
Phạm chí đáp:
-
- Nếu giới là như
thế, thì tôi kham phụng trì giới như thế.
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Phạm chí! Nay Ông
nên giữ cấm giới không sơ sót mảy may, cũng nên trừ khử sự
ràng buộc (kiết) của kiêu mạn, chớ chấp ngô ngã, sanh tưởng
dính mắc.
-
Phạm chí lại hỏi
ngài A-na-luật:
-
- Thế nào là ngô?
Thế nào là ngã? Thế nào là kiêu mạn kết?
-
Tôn giả A-na-luật
nói:
-
- Ngô là thần thức.
Ngã là thân thể. Ở trong đó khởi thức sanh ngô ngã. Ðó gọi là
kiêu mạn kiết. Thế nên, Phạm chí, nên tìm phương tiện trừ các
kiết này. Như vậy, Phạm chí, nên học điều này.
-
Phạm chí liền từ
chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy ngài A-na-luật, nhiễu ba vòng mà
đi. Chưa đến chỗ ở, giữa đường vị ấy suy nghĩ nghĩa này, các
trần cấu dứt hết, được pháp nhãn thanh tịnh.
-
Bấy giờ có vị Trời,
khi xưa là bạn thân của Phạm chí này, biết được trong tâm Phạm
chí, được trần cấu dứt hết, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Lúc đó
vị Trời kia lại đến chỗ Tôn giả A-na-luật, cúi lạy xong đứng
một bên, liền đem bài kệ này khen ngài A-na-luật rằng:
-
Phạm chí chưa đến
nhà,
-
Giữa đường được dấu
đạo,
-
Bụi dứt, mắt pháp
sạch,
-
Không nghi, không
do dự.
-
Bấy giờ Tôn giả
A-na-luật lại dùng kệ bảo vị Trời rằng:
-
Tôi trước quán tâm
kia,
-
Khoảng giữa ứng dấu
đạo,
-
Kia ở Phật Ca-diếp,
-
Từng nghe dạy pháp
này.
-
Bấy giờ, Tôn giả
A-na-luật rời khỏi nơi ấy, đi dạo trong nhân gian, dần dần đến
chỗ Thế Tôn, ở nước Xá-vệ, cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ
Thế Tôn dạy đủ lời pháp cho A-na-luật. Tôn giả A-na-luật nhận
lời Phật dạy rồi liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy và lui đi.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ðệ tử trong hàng
Thanh văn của Ta, được Thiên nhãn đệ nhất là Tỳ-kheo
A-na-luật.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng lãnh.
-
10. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
La-vân (La-hầu-la) vâng tu cấm giới không hề xúc phạm, tội nhỏ
còn tránh hà huống tội lớn; nhưng tâm hữu lậu không được giải
thoát.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Các Tỳ-kheo
bạch Thế Tôn rằng:
-
- Tỳ-kheo La-vân
vâng tu cấm giới, không có xúc phạm, nhưng mà tâm hữu lậu
không được giải thoát.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Ðầy đủ pháp cấm
giới,
-
Các căn cũng thành
tựu,
-
Dần dần sẽ đạt
được,
-
Tất cả kiết sử dứt.
-
Thế nên, các
Tỳ-kheo, thường nên nghĩ nhớ tu tập Chánh pháp, không có sơ
sót. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
Nan-đà, Niết-bàn,
quạ,
-
Lừa, bất thiện có
hai,
-
Ðuốc, nhẫn, tư duy,
-
Phạm chí và La-vân.
- --o0o--
|
|