|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 3
-
XVII.1. Phẩm An Ban (1)
-
1. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn đến
giờ đắp y ôm bát dẫn La-vân vào cổng thành Xá-vệ. Khi ấy Phật
quay nhìn phía hữu bảo La-vân:
-
- Nay Thầy nên quán
sắc là vô thường.
-
La-vân đáp:
-
- Thưa vâng, Thế
Tôn. Sắc là vô thường.
-
Thế Tôn bảo:
-
- La-vân! Thọ,
tưởng, hành, thức đều là vô thường.
-
La-vân đáp:
-
- Thưa vâng, Thế
Tôn. Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.
-
Lúc này, Tôn giả
La-vân lại nghĩ:
-
- Ðây có duyên cớ
gì, mà nay mới đến cổng (phần vệ) thành khất thực đang ở giữa
đường. Cớ sao Thế Tôn lại đối diện dạy dỗ ta? Nay ta hãy trở
về chỗ mình, chẳng nên vào thành khất thực.
-
Bấy giờ Tôn giả
La-vân giữa đường trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn, đem y bát đến dưới
gốc cây, chính thân, chính ý, ngồi kiết-già, chuyên chú nhất
tâm, niệm sắc là vô thường; niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô
thường.
-
Bấy giờ Thế Tôn ở
thành Xá-vệ khất thực xong, sau khi ăn, đi hành kinh ở Tịnh xá
Kỳ Hoàn, dần dần đến chỗ La-vân. Ðến rồi, Thế Tôn bảo La-vân
rằng:
-
- Thầy nên tu hành
pháp An-ban. Tu hành pháp này, hễ có ý tưởng sầu lo đều sẽ trừ
hết. Nay ông lại nên tu hành tưởng nhơ nhớp bất tịnh, nếu có
tham dục nên diệt trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên tu hành tâm
từ, đã hành tâm từ thì hễ có sân giận đều sẽ trừ hết. La-vân!
Nay Thầy nên hành tâm bi, đã hành tâm bi thì hễ có tâm hại ắt
sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành tâm hỉ, đã hành tâm hỉ
thì hễ có tâm tật đố đều sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành
tâm hộ (xả). Ðã hành tâm xả thì hễ có kiêu mạn ắt sẽ trừ diệt
hết.
-
Bấy giờ Thế Tôn
hướng về La-vân mà nói kệ:
-
Chớ khởi tưởng nghĩ
luôn,
-
Hằng nên tự thuận
pháp,
-
Như thế người có
trí,
-
Tên tuổi được lan
truyền.
-
Cầm đuốc sáng cho
người,
-
Khổ ở tối tăm lớn,
-
Trời, Rồng cung
kính thờ,
-
Kính thờ bậc Sư
trưởng.
-
Lúc này Tỳ-kheo
La-vân lại dùng kệ đáp Thế Tôn:
-
Con không khởi
trước tưởng,
-
Lại hằng thuận với
pháp,
-
Như thế người có
trí,
-
Thì hay thờ Sư
trưởng.
-
Bấy giờ Thế Tôn dạy
bảo xong, liền trở về tịnh thất. Lúc này Tôn giả La-vân lại
nghĩ: "Nay làm sao ta hành An ban trừ bỏ được buồn lo, không
có các tưởng?". Bấy giờ La-vân liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi
đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi một bên. Chốc lát
ngồi lui bạch Phật:
-
- Thế nào là tu
hành An-ban trừ khử sầu lo không có các tưởng? Thu hoạch quả
báo lớn, được vị cam lồ?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay, lành
thay, La-vân! Thầy có thể ở trước Như Lai rống tiếng sư tử mà
hỏi nghĩa này. Thế nào là tu hành An-ban trừ bỏ sầu lo không
có các tưởng, được đại quả báo, được vị cam lồ? La-vân! Nay
Thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì Thầy
phân biệt đầy đủ.
-
- Xin vâng, Thế
Tôn!
-
Bấy giờ Tôn giả
La-vân nhận lời Phật dạy, rồi Thế Tôn bảo:
-
- La-vân! Ở đây nếu
có Tỳ-kheo vui ở chỗ vắng vẻ không người, rồi chánh thân,
chánh ý, ngồi kiết-già, không có niệm khác, buộc niệm ở chót
mũi, hơi thở ra dài biết thở ra dài, thở vào dài biết thở vào
dài; thở ra ngắn biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở
vào ngắn; thở ra lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng
biết thở vào lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm
cũng biết thở vào ấm. Quán khắp thân thể thở vào, thở ra thảy
đều biết hết. Lúc có thở cũng lại biết có, còn lúc không thở
cũng lại biết không. Nếu hơi thở từ tâm ra, cũng lại biết từ
tâm ra. Nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào. Như
vậy, này La-vân! Người hay tu hành An-ban, thì không có tưởng
sầu lo não loạn, thu hoạch quả báo lớn, được vị cam lồ.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thuyết pháp vi diệu đầy đủ cho La-vân rồi, La-vân liền từ chỗ
ngồi đứng lên, lạy Phật, nhiễu ba vòng rồi đi; đến dưới gốc
cây tại vườn An-đà, chính thân, chính ý, ngồi kiết-già, không
có niệm khác, buộc niệm ở chót mũi, thở ra dài cũng biết thở
ra dài, thở vào dài cũng biết thở vào dài; thở ra ngắn cũng
biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn; thở ra
lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào
lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biết thở
vào ấm. Quán khắp thân thể, hơi thở ra thở vào thảy đều biết
cả; lúc có hơi thở cũng lại biết có, lúc không hơi thở cũng
lại biết không; nếu hơi thở từ tâm ra cũng lại biết từ tâm ra,
nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào.
-
Bấy giờ La-vân tư
duy như thế, dục tâm liền được giải thoát, không còn các điều
ác, có giác, có quán niệm hoan hỉ khinh an lạc ở Sơ thiền. Có
giác, có quán, trong tự quán hỷ, chuyên chú nhất tâm, nhập tam
muội không giác, không quán, niệm hỷ, lạc ở Nhị thiền. Không
còn niệm hỉ, tự giữ giác tri thân lạc, chỗ chư Thánh thường
cầu, xả niệm hỉ, dạo ở Tam thiền. Khổ vui kia đã diệt lại
không sầu lo, không khổ không vui, xả (hộ) niệm thanh tịnh,
lạc ở Tứ thiền. Do tam-muội này, tâm thanh tịnh không bụi dơ,
thân thể nhu nhuyến; biết từ đâu đến, nhớ việc mình đã làm, tự
biết việc túc mạng vô số kiếp, cũng biết một đời, hai đời, ba
đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mấy
ngàn vạn đời; kiếp thành, kiếp hoại; vô số kiếp thành, vô số
kiếp hoại, ức năm không thể kể: "Ta từng sanh chỗ kia, tên gì,
họ gì, ăn món ăn thế này, thọ khổ vui thế này; thọ mạng dài
ngắn, ở kia chết, sanh ở đây, đây chết sanh kia". Ngài dùng
tam-muội này tâm thanh tịnh không vết nhơ, cũng không có kiết
sử, cũng biết chỗ khởi tâm của chúng sanh. Ngài lại dùng thiên
nhãn thanh tịnh không vết nhơ quán chúng sanh, người sống,
người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường thiện, đường ác, hoặc tốt
hoặc xấu, điều làm, điều tạo; như thật rõ biết. Hoặc có chúng
sanh thân hành ác, miệng hành ác, ý hành ác, phỉ báng Hiền
Thánh, thường hành tà kiến, tạo hành tà kiến, thân hoại mạng
chung vào trong địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân hành
thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện, chẳng phỉ báng Hiền
Thánh, chẳng hằng hành chánh kiến, tạo hạnh chánh kiến, thân
hoại mạng chung sanh chỗ, thiện lên Trời. Ðó là thiên nhãn
thanh tịnh không vết nhơ, quán chúng sanh người sanh, người
chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc
xấu, điều làm, điều tạo, như thật rõ biết, lại thêm bỏ ý,
thành tựu tâm hết lậu hoặc.
-
Ngài quán sự khổ
này, như thật mà biết. Ngài lại quán khổ tập, cũng biết khổ
tận, cũng biết khổ xuất yếu, như thật rõ biết. Ngài do quán
như thế, tâm dục lậu được giải thoát; liền được trí giải
thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm
xong, lại không còn thọ thân sau, như thật rõ biết. Lúc này
Tôn giả La-vân liền thành A-la-hán. Tôn giả La-vân đã thành
La-hán, liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế
Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
-
- Ðiều con cầu đã
được, các lậu đã trừ sạch.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Các vị đắc
A-la-hán, không ai bằng La-vân. Các hữu lậu dứt hết cũng là
Tỳ-kheo La-vân; luận về người trì cấm giới cũng là Tỳ-kheo
La-vân. Vì sao thế? Vì chư Như Lai Ðẳng Chánh Giác đời quá khứ
cũng có Tỳ-kheo La-vân này. Ta muốn nói là con Phật cũng là
Tỳ-kheo La-vân, thân chính từ Phật sanh, là bậc thượng của
Pháp.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Trong hàng Thanh
văn của Ta, đệ tử bậc nhất trì cấm giới là Tỳ-kheo La-vân.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Ðầy đủ pháp cấm
giới,
-
Các căn cũng thành
tựu,
-
Dần dần sẽ đắc
được,
-
Tất cả kiết sử hết.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
XVII.1. Phẩm An Ban (1)
-
1. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn đến
giờ đắp y ôm bát dẫn La-vân vào cổng thành Xá-vệ. Khi ấy Phật
quay nhìn phía hữu bảo La-vân:
-
- Nay Thầy nên quán
sắc là vô thường.
-
La-vân đáp:
-
- Thưa vâng, Thế
Tôn. Sắc là vô thường.
-
Thế Tôn bảo:
-
- La-vân! Thọ,
tưởng, hành, thức đều là vô thường.
-
La-vân đáp:
-
- Thưa vâng, Thế
Tôn. Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.
-
Lúc này, Tôn giả
La-vân lại nghĩ:
-
- Ðây có duyên cớ
gì, mà nay mới đến cổng (phần vệ) thành khất thực đang ở giữa
đường. Cớ sao Thế Tôn lại đối diện dạy dỗ ta? Nay ta hãy trở
về chỗ mình, chẳng nên vào thành khất thực.
-
Bấy giờ Tôn giả
La-vân giữa đường trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn, đem y bát đến dưới
gốc cây, chính thân, chính ý, ngồi kiết-già, chuyên chú nhất
tâm, niệm sắc là vô thường; niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô
thường.
-
Bấy giờ Thế Tôn ở
thành Xá-vệ khất thực xong, sau khi ăn, đi hành kinh ở Tịnh xá
Kỳ Hoàn, dần dần đến chỗ La-vân. Ðến rồi, Thế Tôn bảo La-vân
rằng:
-
- Thầy nên tu hành
pháp An-ban. Tu hành pháp này, hễ có ý tưởng sầu lo đều sẽ trừ
hết. Nay ông lại nên tu hành tưởng nhơ nhớp bất tịnh, nếu có
tham dục nên diệt trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên tu hành tâm
từ, đã hành tâm từ thì hễ có sân giận đều sẽ trừ hết. La-vân!
Nay Thầy nên hành tâm bi, đã hành tâm bi thì hễ có tâm hại ắt
sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành tâm hỉ, đã hành tâm hỉ
thì hễ có tâm tật đố đều sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành
tâm hộ (xả). Ðã hành tâm xả thì hễ có kiêu mạn ắt sẽ trừ diệt
hết.
-
Bấy giờ Thế Tôn
hướng về La-vân mà nói kệ:
-
Chớ khởi tưởng nghĩ
luôn,
-
Hằng nên tự thuận
pháp,
-
Như thế người có
trí,
-
Tên tuổi được lan
truyền.
-
Cầm đuốc sáng cho
người,
-
Khổ ở tối tăm lớn,
-
Trời, Rồng cung
kính thờ,
-
Kính thờ bậc Sư
trưởng.
-
Lúc này Tỳ-kheo
La-vân lại dùng kệ đáp Thế Tôn:
-
Con không khởi
trước tưởng,
-
Lại hằng thuận với
pháp,
-
Như thế người có
trí,
-
Thì hay thờ Sư
trưởng.
-
Bấy giờ Thế Tôn dạy
bảo xong, liền trở về tịnh thất. Lúc này Tôn giả La-vân lại
nghĩ: "Nay làm sao ta hành An ban trừ bỏ được buồn lo, không
có các tưởng?". Bấy giờ La-vân liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi
đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi một bên. Chốc lát
ngồi lui bạch Phật:
-
- Thế nào là tu
hành An-ban trừ khử sầu lo không có các tưởng? Thu hoạch quả
báo lớn, được vị cam lồ?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Lành thay, lành
thay, La-vân! Thầy có thể ở trước Như Lai rống tiếng sư tử mà
hỏi nghĩa này. Thế nào là tu hành An-ban trừ bỏ sầu lo không
có các tưởng, được đại quả báo, được vị cam lồ? La-vân! Nay
Thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì Thầy
phân biệt đầy đủ.
-
- Xin vâng, Thế
Tôn!
-
Bấy giờ Tôn giả
La-vân nhận lời Phật dạy, rồi Thế Tôn bảo:
-
- La-vân! Ở đây nếu
có Tỳ-kheo vui ở chỗ vắng vẻ không người, rồi chánh thân,
chánh ý, ngồi kiết-già, không có niệm khác, buộc niệm ở chót
mũi, hơi thở ra dài biết thở ra dài, thở vào dài biết thở vào
dài; thở ra ngắn biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở
vào ngắn; thở ra lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng
biết thở vào lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm
cũng biết thở vào ấm. Quán khắp thân thể thở vào, thở ra thảy
đều biết hết. Lúc có thở cũng lại biết có, còn lúc không thở
cũng lại biết không. Nếu hơi thở từ tâm ra, cũng lại biết từ
tâm ra. Nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào. Như
vậy, này La-vân! Người hay tu hành An-ban, thì không có tưởng
sầu lo não loạn, thu hoạch quả báo lớn, được vị cam lồ.
-
Bấy giờ Thế Tôn
thuyết pháp vi diệu đầy đủ cho La-vân rồi, La-vân liền từ chỗ
ngồi đứng lên, lạy Phật, nhiễu ba vòng rồi đi; đến dưới gốc
cây tại vườn An-đà, chính thân, chính ý, ngồi kiết-già, không
có niệm khác, buộc niệm ở chót mũi, thở ra dài cũng biết thở
ra dài, thở vào dài cũng biết thở vào dài; thở ra ngắn cũng
biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn; thở ra
lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào
lạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biết thở
vào ấm. Quán khắp thân thể, hơi thở ra thở vào thảy đều biết
cả; lúc có hơi thở cũng lại biết có, lúc không hơi thở cũng
lại biết không; nếu hơi thở từ tâm ra cũng lại biết từ tâm ra,
nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào.
-
Bấy giờ La-vân tư
duy như thế, dục tâm liền được giải thoát, không còn các điều
ác, có giác, có quán niệm hoan hỉ khinh an lạc ở Sơ thiền. Có
giác, có quán, trong tự quán hỷ, chuyên chú nhất tâm, nhập tam
muội không giác, không quán, niệm hỷ, lạc ở Nhị thiền. Không
còn niệm hỉ, tự giữ giác tri thân lạc, chỗ chư Thánh thường
cầu, xả niệm hỉ, dạo ở Tam thiền. Khổ vui kia đã diệt lại
không sầu lo, không khổ không vui, xả (hộ) niệm thanh tịnh,
lạc ở Tứ thiền. Do tam-muội này, tâm thanh tịnh không bụi dơ,
thân thể nhu nhuyến; biết từ đâu đến, nhớ việc mình đã làm, tự
biết việc túc mạng vô số kiếp, cũng biết một đời, hai đời, ba
đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời,
bốn mươi đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mấy
ngàn vạn đời; kiếp thành, kiếp hoại; vô số kiếp thành, vô số
kiếp hoại, ức năm không thể kể: "Ta từng sanh chỗ kia, tên gì,
họ gì, ăn món ăn thế này, thọ khổ vui thế này; thọ mạng dài
ngắn, ở kia chết, sanh ở đây, đây chết sanh kia". Ngài dùng
tam-muội này tâm thanh tịnh không vết nhơ, cũng không có kiết
sử, cũng biết chỗ khởi tâm của chúng sanh. Ngài lại dùng thiên
nhãn thanh tịnh không vết nhơ quán chúng sanh, người sống,
người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường thiện, đường ác, hoặc tốt
hoặc xấu, điều làm, điều tạo; như thật rõ biết. Hoặc có chúng
sanh thân hành ác, miệng hành ác, ý hành ác, phỉ báng Hiền
Thánh, thường hành tà kiến, tạo hành tà kiến, thân hoại mạng
chung vào trong địa ngục. Hoặc lại có chúng sanh thân hành
thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện, chẳng phỉ báng Hiền
Thánh, chẳng hằng hành chánh kiến, tạo hạnh chánh kiến, thân
hoại mạng chung sanh chỗ, thiện lên Trời. Ðó là thiên nhãn
thanh tịnh không vết nhơ, quán chúng sanh người sanh, người
chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc
xấu, điều làm, điều tạo, như thật rõ biết, lại thêm bỏ ý,
thành tựu tâm hết lậu hoặc.
-
Ngài quán sự khổ
này, như thật mà biết. Ngài lại quán khổ tập, cũng biết khổ
tận, cũng biết khổ xuất yếu, như thật rõ biết. Ngài do quán
như thế, tâm dục lậu được giải thoát; liền được trí giải
thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm
xong, lại không còn thọ thân sau, như thật rõ biết. Lúc này
Tôn giả La-vân liền thành A-la-hán. Tôn giả La-vân đã thành
La-hán, liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế
Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
-
- Ðiều con cầu đã
được, các lậu đã trừ sạch.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Các vị đắc
A-la-hán, không ai bằng La-vân. Các hữu lậu dứt hết cũng là
Tỳ-kheo La-vân; luận về người trì cấm giới cũng là Tỳ-kheo
La-vân. Vì sao thế? Vì chư Như Lai Ðẳng Chánh Giác đời quá khứ
cũng có Tỳ-kheo La-vân này. Ta muốn nói là con Phật cũng là
Tỳ-kheo La-vân, thân chính từ Phật sanh, là bậc thượng của
Pháp.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Trong hàng Thanh
văn của Ta, đệ tử bậc nhất trì cấm giới là Tỳ-kheo La-vân.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Ðầy đủ pháp cấm
giới,
-
Các căn cũng thành
tựu,
-
Dần dần sẽ đắc
được,
-
Tất cả kiết sử hết.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|