|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
- KINH
TĂNG NHẤT A HÀM
- Việt Dịch: Hòa Thượng
Thích Thanh Từ
Hiệu Đính: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
- Viện Nghiên Cứu Phật
Học Việt Nam
PL 2541 - TL 1997
-
- TẬP
MỘT
- 3
-
XVIII. Phẩm Tàm Quý
-
-
1. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai diệu pháp
ủng hộ thế gian. Thế nào là hai? Nghĩa là có tàm, có quý. Này
các Tỳ-kheo, nếu không có hai pháp này, thế gian sẽ không phân
biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ con, tri thức, tôn
trưởng, lớn nhỏ; liền sẽ cùng lục súc heo, gà, chó, trâu, dê
v.v... đồng một loại. Do thế gian có hai pháp này ủng hộ, nên
thế gian ắt phân biệt có cha, có mẹ, anh em, vợ con, tôn
trưởng, lớn nhỏ, cũng không đồng với lục súc. Thế nên, các
Tỳ-kheo, nên tập có tàm, có quý. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy
học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
2. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Ðời có hai người
không biết chán đủ mà bị mạng chung. Thế nào là hai người?
Nghĩa là người được tài vật hằng cất giấu và người được vật mà
thích cho người. Ðó là hai người không biết chán đủ mà bị mạng
chung.
-
Bấy giờ có Tỳ-kheo
bạch Thế Tôn:
-
- Thế Tôn! Chúng
con không hiểu nghĩa chỉ nói sơ lược này. Thế nào là được vật
mà cất giấu? Thế nào là được vật mà cho người? Cúi mong Thế
Tôn diễn rộng nghĩa này.
-
Thế Tôn dạy:
-
- Hãy lắng nghe,
lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa
này.
-
- Xin vâng, bạch
Thế Tôn.
-
Bấy giờ Phật dạy
các Tỳ-kheo:
-
- Ở đây có người
tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm ruộng, hoặc tập thư
sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, hoặc tập địa lý,
hoặc tập bói tướng, hoặc tập đi sứ phương xa, hoặc làm vương
tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ để tự mưu sống.
Người ấy bỏ ra công sức này mà được tài vật, người ấy không
dám ăn xài, cũng không cho vợ con, cũng chẳng cho nô tỳ, những
người thân thuộc, cũng đều chẳng cho. Tài vật của người ấy
hoặc bị vua cướp đoạt, hoặc bị giặc giã, hoặc lửa cháy, nước
cuốn, phân tán chỗ khác, chẳng được lợi ích, hoặc ngay trong
nhà có người phân tán tài vật này chẳng giữ mãi được. Ðó là,
này Tỳ-kheo, người được tài vật mà che giấu.
-
Còn, thế nào là
được tài vật mà phân phát? Có người có tộc tánh, học các kỹ
thuật, hoặc tập làm vườn, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán,
hoặc tập thiên văn, địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc học làm
sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói
rét, cần khổ mà tự mưu sống. Người ấy ra công sức này mà thu
hoạch tài vật, họ ban phát cho chúng sanh, cấp cho cha mẹ, nô
tỳ, vợ con, cũng cấp rộng đến Sa-môn, Bà-la-môn, tạo các công
đức, trồng phước cõi trời. Ðó là, này Tỳ-kheo, được vật mà bố
thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, hai người không biết chán đủ. Như
người trước, được vật mà cất chứa, các Thầy hãy nhớ xa lìa.
Người thứ hai được vật mà bố thí rộng rãi, các Thầy nên học
nghiệp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
3. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Thường nên thí
pháp, chớ tập thí thức ăn. Sở dĩ như thế vì ngày nay các Thầy
có phước báo. Nếu đệ tử Ta cung kính đối với pháp thì không
tham lợi dưỡng. Nếu người tham lợi dưỡng thì có lỗi lớn với
Như Lai. Vì sao? Vì là chúng sanh không phân biệt pháp, phá
hủy lời dạy của Thế Tôn. Ðã hủy lời dạy của Thế Tôn, về sau
không đến đạo Niết-bàn được, Ta bèn phải hổ thẹn. Vì sao thế?
Vì đệ tử Như Lai tham đắm lợi dưỡng, chẳng hành đúng pháp,
chẳng phân biệt pháp, hủy lời dạy của Thế Tôn, chẳng thuận
theo Chánh pháp. Ðã hủy lời dạy của Thế Tôn lại chẳng đến đạo
Niết-bàn.
-
Nay Tỳ-kheo các
Thầy, hãy nhớ pháp thí, chớ nghĩ dục thí, liền được danh dự
nghe khắp bốn phương. Cung kính pháp, không tham tài vật, thì
không bị xấu hổ. Sở dĩ như thế vì ưa pháp thí, không tham nghĩ
về dục thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, hãy nhớ pháp thí, chớ quen
theo tài thí. Tỳ-kheo các Thầy, Ta thuyết nghĩa này là vì
nghĩa nào mà nói duyên này?
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
bạch Thế Tôn:
-
- Cúi mong Thế Tôn
phân biệt mọi điều.
-
Bấy giờ Thế Tôn dạy
các Tỳ-kheo:
-
- Lúc trước có một
người thỉnh Ta đến để cúng dường. Rồi sau đó Ta còn một ít
thức ăn có thể bỏ đi. Có hai Tỳ-kheo từ phương xa đến, thân
hình mỏi mệt, nhan sắc biến đổi. Bấy giờ, Ta bèn bảo Tỳ-kheo
ấy:
-
- "Có thức ăn thừa
đáng lẽ bỏ đi, Thầy cần thì tùy thời có thể lấy để tự lo cho
mình".
-
Thời một Tỳ-kheo
liền nghĩ: "Hôm nay Thế Tôn có thức ăn dư có thể vứt bỏ, người
tùy thời cần có thể lấy được. Nếu chúng ta không lấy ăn, thì
sẽ đem thức ăn này trút chỗ đất sạch hoặc bỏ vào nước. Vậy nay
chúng ta hãy lấy thức ăn này để lấp bụng đói, thêm khí lực".
-
Bấy giờ, Tỳ-kheo ấy
lại nghĩ: "Phật cũng dạy: "Hãy hành pháp thí, chớ nghĩ đến dục
thí". Sở dĩ như thế, vì bố thí hơn hết không gì qua tài thí.
Sau đó, pháp thí là tôn trọng nhất. Nay ta kham chịu suốt ngày
cũng xong, chẳng cần nhận phước của tài thí".
-
Bấy giờ Tỳ-kheo ấy
bèn tự dừng ý, không lấy của thí kia, thân thể mỏi mệt, không
thèm để ý đến mạng mình.
-
Bấy giờ, vị Tỳ-kheo
thứ hai lại nghĩ: "Thế Tôn cũng có thức ăn dư đáng bỏ. Nếu
chúng ta không lấy ăn thì sẽ mệt mỏi. Nay lấy thức ăn này để
lấp bụng đói, được thêm khí lực, ngày đêm an ổn".
-
Bấy giờ Tỳ-kheo ấy
liền lấy thức ăn, ngày đêm an ổn, khí lực sung túc.
-
Phật dạy các
Tỳ-kheo:
-
- Tỳ-kheo ấy tuy
lấy thức ăn cúng dường kia, trừ được đói thiếu, khí lực sung
túc, nhưng chẳng bằng vị Tỳ-kheo trước đáng kính, đáng quý,
rất đáng tôn trọng. Tỳ-kheo ấy tiếng tăm vang xa lâu dài, đối
với luật tri túc dễ được đầy đủ. Các Tỳ-kheo hãy học pháp thí,
chớ học nghĩ đến dục thí. Trước Ta nói là do nhân duyên này.
-
Bấy giờ Thế Tôn dạy
như thế xong, liền rồi chỗ ngồi mà đi. Lúc này chúng Tỳ-kheo
lại nghĩ: "Vừa rồi Thế Tôn nói lược cốt yếu, trọn không giảng
rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy vào thất lặng lẽ. Nay trong
chúng này, ai có thể kham nhận diễn nghĩa sơ lược này cho rộng
rãi?"
-
Bấy giờ chúng
Tỳ-kheo lại nghĩ: "Nay Tôn giả Xá-lợi-phất thường được Thế Tôn
khen ngợi. Chúng ta hãy cùng đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất".
-
Lúc này chúng
Tỳ-kheo liền đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, vái chào nhau rồi
ngồi một bên. Ngồi một bên xong, các Tỳ-kheo mới đem việc đã
nghe Thế Tôn dạy, kể lại cho Tôn giả Xá-lợi-phất.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
bảo các Tỳ-kheo:
-
- Thế nào là đệ tử
Thế Tôn tham đắm lợi dưỡng không tu hành pháp? Thế nào là đệ
tử Thế Tôn không tham đắm lợi dưỡng tu hành pháp?
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:
-
- Chúng tôi từ xa
đến, thưa hỏi nghĩa này để tu hành. Tôn giả Xá-lợi-phất có đủ
khả năng xin giảng rộng nghĩa này cho chúng tôi.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
bảo:
-
- Hãy lắng nghe,
lắng nghe và khéo suy nghĩ, tôi sẽ vì các Thầy nói rộng nghĩa
này.
-
Các Tỳ-kheo thưa:
-
- Xin vâng.
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
bảo:
-
- Ðệ tử Thế Tôn học
tịch tĩnh, niệm được an ổn mà đệ tử Thanh văn không học như
thế. Thế Tôn dạy pháp nên diệt mà các Tỳ-kheo cũng chẳng chịu
diệt, trong đó lại giải đãi khởi các loạn tưởng; điều nên làm,
chẳng chịu làm; chỗ chẳng nên làm, lại tu hành. Bấy giờ, này
chư Hiền, các bậc Tỳ-kheo trưởng lão, đối với ba chỗ có sự hổ
thẹn. Thế nào là ba? Thế Tôn thường thích chỗ tịch tĩnh, bấy
giờ Thanh văn chẳng học điều này. Tỳ-kheo trưởng lão bèn có hổ
thẹn. Thế Tôn dạy người hãy diệt pháp này, mà Tỳ-kheo chẳng
diệt pháp này. Tỳ-kheo trưởng lão liền có hổ thẹn. Trong đó
khởi niệm loạn tưởng, ý không chuyên nhất. Tỳ-kheo trưởng lão
liền có hổ thẹn.
-
Chư Hiền nên biết,
Tỳ-kheo trung niên ở ba chỗ liền có hổ thẹn. Thế nào là ba?
Thế Tôn thường thích chỗ tịch tịnh, bấy giờ Thanh văn chẳng
học điều này. Tỳ-kheo bậc trung liền có hổ thẹn. Thế Tôn dạy
người nên diệt pháp này, nhưng Tỳ-kheo ấy không diệt pháp này.
Tỳ-kheo bậc trung liền có hổ thẹn. Trong đó khởi niệm loạn
tưởng, ý không chuyên nhất. Tỳ-kheo trung niên liền có hổ
thẹn.
-
Chư Hiền nên biết,
Tỳ-kheo niên thiếu ở ba chỗ có sự hổ thẹn. Thế nào là ba? Ðệ
tử Thế Tôn thường thích chỗ tịch tĩnh, bấy giờ Thanh văn chẳng
học điều này. Tỳ-kheo niên thiếu liền có chỗ thẹn. Thế Tôn dạy
người nên diệt pháp này, nhưng Tỳ-kheo ấy không diệt pháp này.
Tỳ-kheo niên thiếu liền có hổ thẹn. Trong đó lại khởi niệm
loạn tưởng, ý không chuyên nhất. Tỳ-kheo niên thiếu liền có hổ
thẹn.
-
Ðó là, này chư
Hiền, tham trước đối với tiền tài, không dính dáng đến pháp.
-
Các Tỳ-kheo bạch
Tôn giả Xá-lợi-phất:
-
- Thế nào là
Tỳ-kheo tham đắm vào pháp, không dính mắc tài lợi?
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
nói:
-
- Ở đây, này
Tỳ-kheo, Thế Tôn thích chỗ tịch tĩnh, Thanh văn cũng học Như
Lai thích chỗ tịch tĩnh. Thế Tôn thuyết nên diệt pháp này, các
Tỳ-kheo liền diệt pháp này, chẳng giải đãi cũng chẳng loạn,
điều nên làm liền tu hành; điều chẳng nên làm, liền chẳng làm.
-
Chư Hiền nên biết,
Tỳ-kheo trưởng lão ở ba chỗ liền có danh xưng. Thế nào là ba?
Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn ưa thích chỗ tịch tĩnh, thời Thanh
văn cũng ưa chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo trưởng lão liền có
danh xưng. Thế Tôn dạy người nên diệt pháp này, bấy giờ
Tỳ-kheo liền diệt pháp này, thời Tỳ-kheo trưởng lão liền có
danh xưng. Bên trong không khởi niệm loạn tưởng, ý thường
chuyên nhất, thời Tỳ-kheo trưởng lão liền có danh xưng.
-
Chư Hiền nên biết,
Tỳ-kheo trung niên ở ba nơi liền có danh xưng. Thế nào là ba?
Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn vui chỗ tịch tĩnh, Thanh văn cũng
vui chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo trung niên liền có danh xưng.
Thế Tôn dạy người hãy diệt pháp này, bấy giờ Tỳ-kheo liền diệt
pháp này, thời Tỳ-kheo trung niên liền có danh xưng. Bên trong
không khởi niệm loạn tưởng, ý thường chuyên nhất, thời Tỳ-kheo
trung niên liền có danh xưng.
-
Chư Hiền nên biết!
Tỳ-kheo niên thiếu ở ba chỗ liền có danh xưng. Thế nào là ba?
Ở đây, này Tỳ-kheo, Thế Tôn ưa chỗ tịch tĩnh, Tỳ-kheo niên
thiếu cũng ưa chỗ tịch tĩnh, thời Tỳ-kheo niên thiếu liền có
danh xưng. Thế Tôn dạy người hãy diệt pháp này, bấy giờ Thế
Tôn niên thiếu liền diệt pháp này, thời Tỳ-kheo niên thiếu
liền có danh xưng. Bên trong không khởi niệm loạn tưởng, ý
thường chuyên nhất, thời Tỳ-kheo niên thiếu liền có danh xưng.
-
Chư Hiền nên biết,
Tham là bịnh, tai họa rất lớn, sân giận cũng thế. Diệt được
tham dâm, sân giận thì được trung đạo, nhãn sanh, trí sanh,
các trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn. Xan lẫn, tật đố là
bịnh cũng rất nặng, phiền não nung nấu, kiêu mạn cũng sâu,
huyễn ngụy chẳng chân thật, không hổ không thẹn, chẳng thể xa
lìa dâm dục, làm bại hoại sự ngay chánh, mạn và tăng thượng
mạn cũng lại chẳng bỏ. Hai mạn này nếu diệt sẽ được ở trung
đạo, nhãn sanh, trí sanh, các trói buộc dứt hết, đến được
Niết-bàn.
-
Tỳ-kheo bạch:
-
- Tôn giả
Xá-lợi-phất! Thế nào là ở trung đạo, nhãn sanh, trí sanh, các
trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn?
-
Tôn giả Xá-lợi-phất
nói:
-
- Chư Hiền nên
biết, đó là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh, nghĩa là Chánh kiến,
Chánh trí (tư duy), Chánh ngữ, Chánh hạnh (nghiệp), Chánh
mạng, Chánh phương tiện (tinh tấn), Chánh niệm, Chánh tam-muội
(định). Này chư Hiền, đó là ở trung đạo, nhãn sanh, trí sanh,
các trói buộc dứt hết, đến được Niết-bàn.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Tôn giả Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
4. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với chúng năm
trăm đại Tỳ-kheo.
-
Bấy giờ Thế Tôn đến
giờ đắp y, ôm bát vào thành La-duyệt khất thực tại một ngõ
làng. Khi ấy ở làng đó, có vợ một Phạm chí muốn ăn cơm nhưng
Bà-la-môn lại vừa ra khỏi cửa. Bà ta trông thấy Thế Tôn từ xa
liền đến chỗ Thế Tôn mà hỏi:
-
- Ngài có thấy
Bà-la-môn đâu không?
-
Khi ấy Tôn giả Ðại
Ca-diếp đã ở ngõ đó trước rồi. Thế Tôn liền đưa tay chỉ, Ngài
nói:
-
- Ðây là Bà-la-môn.
-
Bấy giờ vợ
Bà-la-môn nhìn sửng mặt Như Lai, im lặng không nói.
-
Thế Tôn liền nói
kệ:
-
Người không dục,
không sân,
-
Bỏ ngu không có si,
-
A-la-hán lậu tận,
-
Ðó gọi là Phạm chí.
-
Người không dục,
không sân,
-
Bỏ ngu, không có
si,
-
Bỏ hết nhóm kiết
sử,
-
Ðó gọi là Phạm chí.
-
Người không dục,
không sân,
-
Bỏ ngu, không có
si,
-
Ðã đoạn mạn ngô
ngã,
-
Ðó gọi là Phạm chí.
-
Nếu người muốn biết
pháp,
-
Của bậc Chánh Giác
thuyết.
-
Chí thành tự quay
về,
-
Ðấng Tối Tôn Vô
Thượng.
-
Bấy giờ Thế Tôn
bảoTôn giả Ca-diếp:
-
- Thầy nên đến vì
vợ người Phạm chí này khiến cho bà ta ngay thân hiện tại thoát
được tội cũ.
-
Lúc đó Tôn giả
Ca-diếp vâng lời Phật dạy, đến nhà vợ Phạm chí, tới tòa mà
ngồi. Lúc này vợ Bà-la-môn liền bày các thức ăn uống ngon ngọt
cúng dường cho Tôn giả Ca-diếp. Tôn giả Ca-diếp liền nhận các
thức ăn uống, vì muốn độ bà ta mà nói kệ:
-
Tế tự, lửa hơn hết,
-
Các sách, tụng tối
thượng,
-
Vua là bậc người
trọng,
-
Các dòng, biển là
hơn.
-
Các sao, trăng đứng
đầu,
-
Chiếu sáng, mặt
trời nhất,
-
Bốn phía và trên
dưới,
-
Ở các phương, cảnh
vực.
-
Trời và người thế
gian,
-
Phật là tối Tôn
thượng.
-
Người muốn cầu
phước này,
-
Nên quy y Chánh
Giác.
-
Vợ Phạm chí kia
nghe lời này xong, vui mừng hớn hở không kềm được, đến trước
Tôn giả Ca-diếp bạch:
-
- Cúi mong Tôn giả,
hằng nhận lời thỉnh của tôi mà đến nhà này thọ thực.
-
Tôn giả Ca-diếp
nhận lời, thọ thực tại đó. Vợ Bà-la-môn thấy Tôn giản Ca-diếp
ăn xong, bèn lấy một ghế thấp đến trước Tôn giả Ca-diếp ngồi.
Tiếp đó, Tôn giả Ca-diếp liền thuyết pháp vi diệu cho bà ta,
nghĩa là luận về thí, giới luận, luận về sanh thiên, dục là
bất tịnh, dứt hết lậu hoặc là cao thượng, xuất gia là cần yếu.
-
Tôn giả Ca-diếp đã
biết vợ Phạm chí tâm ý khai mở, lòng rất hân hoan. Những điều
chư Phật thường thuyết pháp: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Tôn giả
Ca-diếp đều thuyết cho vợ Phạm chí hết. Vợ Phạm chí ở ngay tòa
ngồi, dứt sạch các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như
áo lót trắng mới tinh, không có bụi dơ, dễ nhuộm màu; vợ Phạm
chí cũng lại như thế, ngay trên tòa ngồi được pháp nhãn thanh
tịnh. Bà ta đã được pháp, thấy pháp, phân biệt pháp chẳng có
hồ nghi, đã được vô úy, tự quy y ba bậc đáng tôn trọng là
Phật, Pháp và Thánh chúng, thọ trì ngũ giới. Tôn giả Ca-diếp
thuyết pháp vi diệu cho vợ Phạm chí một lần nữa, rồi từ chỗ
ngồi đứng lên mà đi.
-
Ngài Ca-diếp đi
chưa bao lâu, chồng bà ta ở xa về nhà. Bà-la-môn thấy nhan sắc
người vợ vui tươi khác thường liền hỏi vợ. Người vợ đem nhân
duyên này kể lại đầy đủ cho chồng. Bà-la-môn nghe xong, liền
cùng vợ đi đến Tinh xá, đến chỗ Thế Tôn. Bà-la-môn cùng Thế
Tôn chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Bà-la-môn bạch Thế Tôn:
-
- Vừa rồi có
Bà-la-môn đến nhà tôi, nay ở đâu?
-
Bấy giờ Tôn giả
Ca-diếp cách Thế Tôn chẳng xa, ngồi kiết-già, chánh thân,
chánh ý, suy tư về diệu pháp.
-
Thế Tôn từ xa chỉ
Ðại Ca-diếp, nói:
-
- Ðây là tôn trưởng
Bà-la-môn.
-
Bà-la-môn nói:
-
- Thế nào Cù-đàm?
Sa-môn tức là Bà-la-môn chăng? Sa-môn và Bà-la-môn há không
khác sao?
-
Thế Tôn dạy:
-
- Muốn nói Sa-môn,
chính là thân Ta. Sở dĩ như thế, vì Ta tức là Sa-môn. Có các
giới luật mà Sa-môn phải tụng trì, Ta đều đã được. Như nay
muốn luận về Bà-la-môn, thì cũng là thân Ta. Vì sao thế? Vì Ta
tức là Bà-la-môn. Các Bà-la-môn thời quá khứ trì pháp hạnh
nào, Ta đều đã biết hết.
-
Muốn luận Sa-môn,
tức là Ðại Ca-diếp. Vì sao thế? Sa-môn có các luật, Tỳ-kheo
Ca-diếp đều giữ hết. Muốn luận Bà-la-môn, cũng là Tỳ-kheo
Ca-diếp. Vì sao thế? Bà-la-môn phụng trì các cấm giới, Tỳ-kheo
Ca-diếp đều rõ biết hết.
-
Thế Tôn liền nói
kệ:
-
Ta chẳng nói Phạm
chí,
-
Là người rành chú
thuật,
-
Xướng rằng sanh
Phạm thiên,
-
Ðây là chưa rời
trói,
-
Không trói, không
đường sanh,
-
Hay thoát tất cả
kiết,
-
Lại không xưng
phước trời,
-
Tức Sa-môn, Phạm
chí.
-
Bấy giờ Bà-la-môn
bạch Thế Tôn:
-
- Nói là kết phược
(buộc trói), những gì gọi là kết?
-
Thế Tôn dạy;
-
- Dục ái là kết,
sân nhuế là kết, ngu si là kết. Như Lai không có dục ái này,
diệt hẳn không sót; sân nhuế, ngu si cũng lại như thế. Như Lai
chẳng còn kết này nữa.
-
Bà-la-môn nói:
-
- Cúi mong Thế Tôn
nói pháp sâu mầu không có các kết phược này nữa.
-
Thế rồi đức Thế Tôn
lần lượt thuyết luận vi diệu cho Bà-la-môn. Luận tức là thí
luận, giới luận, luận sanh thiên; dục là bất tịnh; dứt hết lậu
hoặc là hơn hết; xuất gia là cần yếu.
-
Bấy giờ Thế Tôn
biết Bà-la-môn kia tâm ý khai mở, lòng rất hoan hỉ điều mà chư
Phật thời xưa thường thuyết pháp: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Bấy giờ
Thế Tôn đều thuyết hết cho Bà-la-môn. Bà-la-môn ngay trên chỗ
ngồi, dứt sách cách trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví
như áo lót trắng tinh, không có bụi dơ, dễ nhuộm màu;
Bà-la-môn cũng lại như thế, ngay trên chỗ ngồi được pháp nhãn
thanh tịnh. Ông ta đã được pháp, thấy pháp, phân biệt pháp
không có hồ nghi, đã đến chỗ vô úy, tự quy y Tam tôn: Phật,
Pháp và Thánh chúng, thọ trì ngũ giới, làm đứa con chân thật
của Như Lai, không còn lui sụt nữa.
-
Bấy giờ vợ chồng
Bà-la-môn nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
5. Tôi nghe như
vầy:
-
Một thời Phật ở
thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng với chúng năm trăm
đại Tỳ-kheo.
-
Bấy giờ vua
A-xà-thế có con voi tên Na-la-kỳ-lê, vô cùng hung tàn bạo
ngược, mạnh mẽ hay trừ dẹp oán thù. Nhờ sức voi đó, khiến cho
không đâu không nép phục một nước Ma-kiệt.
-
Bấy giờ
Ðề-bà-đạt-đa liền đến chỗ vua A-xà-thế, nói:
-
- Ðại vương nên
biết! Nay con voi này tàn ác, có thể hàng phục các kẻ thù. Hãy
đem rượu mạnh cho voi uống say, sáng sớm Sa-môn Cù-đàm ắt sẽ
vào thành khất thực, hãy thả voi say này cho chà đạp chết đi!
-
Vua A-xà-thế nghe
Ðề-bà-đạt-đa dạy liền ra lệnh trong nước: Sáng sớm mai sẽ thả
voi say, cấm nhân dân đi lại trong làng xóm.
-
Lúc này
Ðề-bà-đạt-đa nói với vua A-xà-thế:
-
- Nếu Sa-môn Cù-đàm
kia có nhất thiết trí biết việc tương lai thì ngày mai ắt
không vào thành khất thực.
-
Vua A-xà-thế nói:
-
- Ðúng như lời Ngài
dạy. Nếu người có nhất thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào
thành khất thực.
-
Bấy giờ nam nữ, già
trẻ trong thành La-duyệt kính thờ Phật, nghe vua A-xà-thế sáng
sớm mai sẽ thả voi say hại Như Lai. Nghe xong ai cũng lo buồn,
liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
-
- Sáng sớm mai xin
Thế Tôn chớ có vào thành.
-
- Vì sao thế?
-
- Vì nay vua
A-xà-thế có ban lệnh bắt 'nhân dân trong thành ngày mai chớ
qua lại ở làng xóm, ta muốn thả voi say hại Sa-môn Cù-đàm. Nếu
Sa-môn có Nhất thiết trí, sáng sớm mai sẽ không vào thành khất
thực'.
-
Cúi mong Thế Tôn
chớ có vào thành. Nếu Như Lai bị hại, người đời sẽ mất con
mắt, không còn được cứu hộ.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thôi! Thôi! Các
Ưu-bà-tắc chớ có sầu não. Vì sao thế? Thân của Như Lai chẳng
phải là thân thế tục, nên chẳng bị người khác làm hại; hoàn
toàn không có việc này. Các Ưu-bà-tắc nên biết, đất
Diêm-phù-đề Ðông Tây rộng bảy ngàn do-tuần, Nam Bắc dài hai
mươi mốt ngang do-tuần; đất Cù-da-ni bề ngang rộng tám ngàn
do-tuần hình như nửa mặt trăng; đất Phất-vu-đệ bề ngang rộng
chín ngàn do-tuần; đất đai vuông vức; đất Uất-đan-việt bề
ngang rộng mười ngàn do-tuần, đất đai tròn như mặt trăng đầy.
Ngay dù trong bốn thiên hạ này đầy voi say giống như lúa mè,
lùm rừng, số như thế vẫn chẳng thể làm động một mảy lông của
Như Lai, huống là hại được Như Lai; hoàn toàn không có việc
này. Ngoài bốn thiên hạ ra, lại có cả ngàn thiên hạ, ngàn trời
trăng, ngàn núi Tu-di, ngàn nước bốn biển, ngàn Diêm-phù-đề,
ngàn Cù-da-ni, ngàn Phất-vu-đệ, ngàn Uất-đan-việt, ngàn Tứ
thiên vương, ngàn trời Ba mươi ba, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn
trời Diệm thiên, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa Tự
tại, đây gọi là ngàn thế giới. Cho đến hai ngàn thế giới, đây
gọi là trung thiên thế giới. Cho đến ba ngàn thế giới, đây gọi
tam thiên đại thiên thế giới. Trong đó Long vương Y-la-bát đầy
dẫy vẫn không thể làm động một mảy lông của Như Lai, huống là
con voi này lại muốn hại Như Lai được sao? Hoàn toàn không có
việc này. Vì sao thế? Thần lực của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Như Lai ra đời, trọn chẳng bị người làm tổn hại. Các Ông nên
trở về chỗ của mình. Như Lai sẽ tự biết đối phó việc này.
-
Bấy giờ Thế Tôn
rộng thuyết pháp vi diệu cho bốn bộ chúng, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di
nghe thuyết Chánh pháp xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng lên lễ
Phật mà lui đi.
-
Sáng sớm Thế Tôn
đắp y, ôm bát muốn vào thành La-duyệt khất thực. Khi ấy, Thiên
vương Ðề-đầu-lại-tra cùng Càn-thát-bà v.v.. từ phương Ðông đến
theo hầu Thế Tôn; Tỳ-lưu-lặc-vương cùng chúng Cưu-bàn-trà theo
hầu Thế Tôn; phương Tây có Tỳ-lưu-ba-xoa cùng các chúng rồng
theo hầu Như Lai; phương Bắc Thiên vương Câu-tỳ-la cùng chúng
quỷ La sát theo hầu Như Lai. Bấy giờ Thích-đề-hoàn nhân đem
vài ngàn vạn chúng thiên nhân, biến mất từ trời Ðâu-suất hiện
đến chỗ Thế Tôn, rồi trời Phạm thiên vương cùng vài ngàn vạn
chúng Phạm thiên từ cõi trời Phạm thiên đến chỗ Thế Tôn.
Thích, Phạm, Tứ thiên vương và hai mươi tám Trời, đại quỷ thần
vương, mọi người bảo nhau:
-
- Hôm nay chúng ta
sẽ xem hai thần voi và rồng đấu với nhau, ai sẽ thắng, bại.
-
Bốn bộ chúng trong
thành La-duyệt từ xa thấy Thế Tôn cùng chư Tỳ-kheo vào thành
khất thực. Nhân dân trong thành đều cất tiếng hô hoán. Vua
A-xà-thế nghe tiếng này, hỏi tả hữu:
-
- Ðây là tiếng vang
của những gì mà lọt vào đây?
-
Thị thần đáp:
-
- Ðây là Như Lai
vào thành khất thực, dân chúng trông thấy nên có tiếng này.
-
A-xà-thế nói:
-
- Sa-môn Cù-đàm
không có Thánh đạo, chẳng biết tâm người mà đến thử đối phó.
-
Vua A-xà-thế liền
sai tượng sư:
-
- Ông mau cho voi
uống rượu mạnh, mũi đeo gươm bén thả cho nó chạy.
-
Bấy giờ Thế Tôn
cùng các Tỳ-kheo đến cửa thành, vừa nhấc chân vào cửa thì trời
đất chuyển động. Các bậc trời thần ở trên hư không tung các
loại hoa. Năm trăm Tỳ-kheo thấy voi say đến, đều vùng chạy
không biết đi đâu. Voi hung dữ kia thấy Như Lai ở xa liền xông
tới.Thị giả A-nan thấy voi say đến, ở sau lưng Thế Tôn chẳng
yên, bạch Thế Tôn:
-
- Voi này bạo ác,
sợ sẽ hại mình, phải nên tránh xa nó.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Chớ sợ, A-nan!
Nay Ta sẽ dùng cánh tay thần của Như Lai để hàng phục voi này.
-
Như Lai quan sát
con voi hung bạo, khi cách nó không gần cũng chẳng xa, Ngài
liền hóa ra các sư tử vương ở hai bên, sau lưng voi hóa thành
một hầm lửa lớn. Voi hung bạo kia thấy sư tử vương ở hai bên
và thấy hầm lửa liền vãi phân tiểu không chỗ phóng chạy bèn
sấn đến trước Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
-
Mi chớ có hại rồng,
-
Rồng hiện rất khó
gặp,
-
Do không có hại
rồng,
-
Mà được sanh chỗ
thiện.
-
Voi hung bạo nghe
Thế Tôn nói kệ này, như bị lửa đốt, tự cởi kiếm hướng về Như
Lai quỳ hai gối, phục xuống đất lấy vòi liếm chân Như Lai. Thế
Tôn duỗi tay phải xoa đầu voi, nói:
-
Sân giận sanh địa
ngục,
-
Cũng làm thân rắn
rít,
-
Thế nên hãy bỏ sân,
-
Chớ thọ lại thân
này.
-
Bấy giờ các bậc
Trời thần ở trong hư không dùng trăm ngàn loại hoa tung trên
Như Lai. Thế Tôn bèn thuyết pháp vi diệu cho bốn bộ chúng,
Trời, Rồng, Quỷ, Thần. Bấy giờ hơn sáu vạn nam nữ thấy voi bị
hàng phục, liền hết sạch trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Tám vạn thiên nhân cũng được pháp nhãn thanh tịnh.
-
Rồi trong thân voi
say kia, gió đao nổi lên, thân hoại mạng chung, sanh lên cung
trời Tứ thiên vương.
-
Bấy giờ Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Trời, Rồng, Quỷ, Thần nghe
Thế Tôn dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
6. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nan-đà, đắp y thật đẹp, màu sắc chói mắt, mang giày viền vàng,
lại vẽ hai mắt, tay ôm bình bát định vào thành Xá-vệ.
-
Khi ấy rất đông
chúng Tỳ-kheo từ xa trông thấy Tôn giả Nan-đà, khoát y cực đẹp
vào thành Xá-vệ khất thực, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi
ngồi một bên. Phút chốc, ngồi lui lại mà bạch Thế Tôn:
-
- Vừa rồi Tỳ-kheo
Nan-đà đắp y cực đẹp, màu sắc chói mắt, vào thành Xá-vệ khất
thực.
-
Khi ấy Thế Tôn bảo
một Tỳ-kheo:
-
- Thầy mau đến chỗ
Tỳ-kheo Nan-đà, nói rằng Như Lai gọi Thầy.
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Tỳ-kheo ấy nhận lời
Thế Tôn dạy, cúi lạy rồi đi, đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà, nói với
Nan-đà:
-
- Thế Tôn gọi Thầy.
-
Nan-đà nghe Tỳ-kheo
nói, liền đến chỗ Thế Tôn, đến xong cúi lạy và ngồi một bên.
Thế Tôn bảo Nan-đà:
-
- Nay Thầy vì sao
đắp y cực đẹp, lại mang giày viền vàng vào thành Xá-vệ khất
thực?
-
Tôn giả Nan-đà làm
thinh chẳng đáp.
-
Thế Tôn lại nói
nữa:
-
- Thế nào Nan-đà?
Thầy há chẳng do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo sao?
-
Nan-đà đáp:
-
- Ðúng vậy, Thế
Tôn.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Này Thầy là con
nhà vọng tộc, chẳng hành đúng luật, do lòng tin kiên cố, xuất
gia học đạo, vì sao lại mặc áo cực đẹp, tô sửa hình vóc, muốn
vào thành Xá-vệ khất thực, cùng bọn bạch y kia đâu có khác gì?
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Ngày nào thấy
Nan-đà,
-
Hay trì hạnh tịch
tĩnh,
-
Tâm vui pháp
Sa-môn,
-
Ðầu đà đến bờ kia.
-
Nan-đà, nay Thầy
chớ tạo hạnh như vậy!
-
Bấy giờ, Tôn giả
Nan-đà và bốn bộ chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
7. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nan-đà chẳng kham hành Phạm hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh
bạch y. Khi ấy nhiều chúng Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi
ngồi một bên. Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
-
- Tỳ-kheo Nan-đà
chẳng kham hành Phạm hạnh, muốn cởi pháp phục, tập hạnh tại
gia.
-
Thế Tôn bảo một
Tỳ-kheo:
-
- Thầy đến chỗ
Nan-đà bảo là Như Lai gọi Thầy.
-
- Xin vâng, Thế
Tôn.
-
Tỳ-kheo ấy vâng lời
Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Thế Tôn rồi lui, đi
đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà, nói:
-
- Thế Tôn gọi
Nan-đà.
-
- Vâng.
-
Bấy giờ Tỳ-kheo
Nan-đà theo Tỳ-kheo này đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một
bên. Thế Tôn bảo Nan-đà.
-
- Thế nào Nan-đà?
Thầy chẳng ưa tu Phạm hạnh, muốn cởi pháp y, tập hạnh bạch y
chăng?
-
Nan-đà đáp:
-
- Thưa vâng, Thế
Tôn.
-
Thế Tôn nói:
-
- Vì sao thế,
Nan-đà?
-
Nan-đà đáp:
-
- Vì con lòng dục
lừng lẫy, kềm chẳng được.
-
Thế Tôn nói:
-
- Thế nào Nan-đà?
Thầy không phải là con nhà vọng tộc xuất gia học đạo sao?
-
Nan-đà đáp:
-
- Ðúng vậy, Thế
Tôn! Con là dòng dõi vọng tộc, do lòng tin kiên cố xuất gia
học đạo.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nếu Thầy dòng dõi
vọng tộc thì chẳng nên như thế. Vì bỏ nhà học đạo, tu hạnh
thanh tịnh, tại sao lại bỏ Chánh pháp muốn tập ô uế? Nan-đà
nên biết, có hai pháp không nhàm chán. Nếu có người học tập
hai pháp này, trọn không nhàm chán. Thế nào là hai pháp? Nghĩa
là dâm dục và uống rượu. Ðó là hai pháp này, trọn không nhàm
chán. Do quả của hạnh này cũng không thể được chỗ vô vi. Thế
nên, Nan-đà, hãy nghĩ nhớ bỏ hai pháp này, sau ắt sẽ thành quả
báo vô lậu. Nan-đà! Nay Thầy khéo tu Phạm hạnh, hướng về đạo
quả đều do đó cả.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nói kệ:
-
Lợp nhà không kín,
-
Trời mưa sẽ dột,
-
Người chẳng chịu
hành,
-
Lọt dâm, nộ, si.
-
Lợp nhà khéo kín,
-
Trời mưa chẳng dột,
-
Người hay chuyên
hành,
-
Không dâm, nộ, si.
-
Bấy giờ Thế Tôn lại
nghĩ: 'Gã vọng tộc này ý dục rất nhiều. Nay Ta phải nên dùng
lửa trừ lửa'.
-
Khi ấy Thế Tôn,
liền lấy cánh tay thần lực nắm Nan-đà, ví như người có sức vừa
co duỗi cánh tay đem Nan-đà lên núi Hương Sơn. Bấy giờ trên
núi có một hang đá, lại có một con khỉ mù đang ở đó. Thế Tôn
tay phải nắm Nan-đà bảo:
-
- Nan-đà! Thầy có
thấy con khỉ mù này chăng?
-
- Vâng, Thế Tôn.
-
Thế Tôn nói:
-
- Cái nào đẹp?
Tôn-đà-lợi họ Thích đẹp hay con khỉ mù này đẹp?
-
Nan-đà đáp:
-
- Ví như có người
đánh dập lỗ mũi con chó xấu xí, lại còn bôi thêm độc vào nó,
khiến càng xấu hơn. Ðây cũng như thế, cô gái họ Thích
Tôn-đà-lợi, nay đem so với con khỉ mù này, không thể ví dụ. Ví
như đống lửa lớn đốt cháy núi rừng còn bỏ thêm củi khô, lửa
càng hừng hực. Ðây cũng thế, con nhớ cô gái họ Thích kia không
lìa tâm.
-
Bấy giờ Thế Tôn như
trong khoảng co duỗi cánh tay từ núi kia biến mất, liền đến
cõi trời Ba mươi ba. Lúc ấy chư Thiên cõi trời Ba mươi ba đều
tụ tập ở giảng đường Thiện Pháp. Cách giảng đường Thiện Pháp
chẳng xa, lại có cung điện, năm trăm ngọc nữ vui đùa với nhau,
toàn là con gái chẳng có con trai. Bấy giờ Nan-đà xa thấy năm
trăm Thiên nữ ca hát kỹ nhạc vui đùa với nhau, thấy rồi hỏi
Thế Tôn:
-
- Ðây là chỗ nào mà
có năm trăm Thiên nữ hát xướng kỹ nhạc, vui đùa với nhau?
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nan-đà! Thầy tự
đi hỏi đi!
-
Tôn giả Nan-đà liền
đến chỗ năm trăm Thiên nữ, thấy cung điện nhà cửa kia trải tọa
cụ tốt đẹp hàng trăm thứ, toàn là con gái không có con trai.
Tôn giả Nan-đà liền hỏi Thiên nữ:
-
- Các Người là
Thiên nữ thế nào mà vui chơi khoái lạc với nhau như thế?
-
Thiên nữ đáp:
-
- Chúng tôi có năm
trăm người đều thanh tịnh không có phu chủ (chồng). Chúng tôi
nghe có đệ tử Thế Tôn tên là Nan-đà là con của di mẫu đức
Phật. Ngài đang ở chỗ Như Lai thanh tịnh tu Phạm hạnh. Sau khi
mạng chung sẽ sanh ở đây làm phu chủ của chúng tôi, cùng vui
thú với nhau.
-
Tôn giả Nan-đà lòng
rất vui mừng, kềm chẳng được, liền nghĩ: 'Nay ta là đệ tử Thế
Tôn, lại cũng là con di mẫu. Các Thiên nữ này đều sẽ là vợ
ta'.
-
Lúc ấy Nan-đà liền
trở lui đến chỗ Thế Tôn. Thế Tôn nói:
-
- Thế nào Nan-đà,
Ngọc nữ kia nói thế nào?
-
Nan-đà đáp:
-
- Ngọc nữ kia mỗi
người nói: 'Mỗi người chúng tôi đều không chồng. Nghe có đệ tử
Thế Tôn khéo tu Phạm hạnh, sau khi mạng chung sẽ sanh đến
đây'.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nan-đà! Ý Thầy
thế nào?
-
Nan-đà đáp:
-
- Bấy giờ con tự
nghĩ: 'Ta là đệ tử Thế Tôn, lại là con di mẫu của Phật. Các
Thiên nữ này đều sẽ là vợ ta'.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thích thay,
Nan-đà! Hãy khéo tu Phạm hạnh, Ta sẽ tác chứng cho Thầy, khiến
năm trăm nữ nhân đều cấp cho Thầy.
-
Thế Tôn lại nói:
-
- Thế nào Nan-đà?
Cô gái họ Thích Tôn-đà-lợi đẹp hay năm trăm thiên nữ này đẹp?
-
Nan-đà đáp:
-
- Ví như con khỉ mù
trên núi trước Tôn-đà-lợi, không có tươi nhuận cũng không có
sắc. Ðây cũng như thế, Tôn-đà-lợi trước Thiên nữ kia cũng vậy,
không có sáng tươi.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Thầy khéo tu Phạm
hạnh, Ta sẽ chứng cho Thầy được năm trăm Thiên nhân này.
-
Bấy giờ Thế Tôn
liền nghĩ: 'Nay Ta sẽ dùng lửa diệt lửa của Nan-đà'.
-
Ví như người có sức
trong khoảng co duỗi cánh tay, Thế Tôn tay phải cầm cánh tay
Nan-đà đưa đến địa nguc. Bấy giờ chúng sanh trong địa ngục
chịu biết bao khổ não. Lúc ấy, trong địa ngục kia có một vạc
lớn trống rỗng, chẳng có người. Thấy rồi, Nan-đà liền sanh sợ
hãi, lông áo dựng đứng, đến trước Thế Tôn, bạch:
-
- Ở đây các chúng
sanh đều chịu đau khổ, chỉ riêng có vạc này bỏ trống không
người.
-
Thế Tôn nói:
-
- Ðây gọi là địa
ngục A-tỳ.
-
Bấy giờ Nan-đà càng
thêm khủng khiếp, lông áo dựng đứng, bạch Thế Tôn:
-
- Ðây là địa ngục
A-tỳ mà sao có ngục trống, không có tội nhân?
-
Thế Tôn nói:
-
- Nan-đà! Thầy hãy
tự đến hỏi đi.
-
Tôn giả Nan-đà liền
tự đi hỏi:
-
- Thế nào ngục tốt,
đây là ngục gì mà trống, không có người?
-
Ngục tốt đáp:
-
- Tỳ-kheo nên biết!
Ðệ tử đức Phật Thích-ca tên là Nan-đà. Ông ta ở chỗ Như Lai,
tịnh tu Phạm hạnh, thân hoại mạng chung sanh cõi lành, trên
trời. Ở đó vị ấy sống lâu ngàn tuổi, khoái lạc vui thú, rồi
lại ở đó chết, sanh vào địa ngục A-tỳ này. Cái vạc không này
vì thế để trống.
-
Tôn giả Nan-đà nghe
lời này xong, lòng hoảng sợ, lông áo dựng đứng, liền nghĩ:
'Cái vạc trống này chính là dành cho ta'.
-
Tôn giả Nan-đà vội
đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, bạch Thế Tôn:
-
- Mong cho con được
sám hối lỗi chính con, do chẳng tu Phạm hạnh, xúc nhiễu Thế
Tôn.
-
Bấy giờ Tôn giả
Nan-đà liền nói kệ:
-
Ðời người không đủ
quý,
-
Trời hết thọ cũng
mất,
-
Ðịa ngục khổ chua
cay,
-
Chỉ có Niết-bàn
vui.
-
Thế Tôn bảo Nan-đà:
-
- Lành thay! Lành
thay! Như lời Thầy nói. Niết-bàn rất là tịnh lạc. Nan-đà! Ta
nhận cho Thầy sám hối, Thầy ngu, Thầy si, tự biết lỗi. Nay Như
Lai nhận lời hối lỗi của Thầy, sau chớ phạm nữa.
-
Bấy giờ Thế Tôn
trong khoảng co duỗi cánh tay, tay nắm Nan-đà từ địa ngục biến
mất, đến thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
Nan-đà:
-
- Nan-đà, nay Thầy
nên tu hai pháp. Thế nào là hai pháp? Ðó là Chỉ và Quán. Lại
nên tu thêm hai pháp. Thế nào là hai pháp? Là sanh tử chẳng
đáng ưa, biết Niết-bàn là vui. Ðó là hai pháp. Lại nên tu thêm
hai pháp, đó là trí và biện.
-
Bấy giờ Thế Tôn đem
những pháp này thuyết cho Nan-đà. Tôn giả Nan-đà nhận lời Thế
Tôn dạy xong, từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Phật rồi lui đi.
Ðến vườn An-đà, Tôn giả ngồi kiết-già dưới một gốc cây, chánh
thân chánh ý buộc niệm ở trước, suy nghĩ lời dạy này của Như
Lai. Tôn giả ở chỗ nhàn tĩnh, hằng suy nghĩ lời dạy của Như
Lai, không rời một phút chốc. Do đó vị vọng tộc này do lòng
tin kiên cố, xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử
đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, lại không
còn thọ thân sau, như thật mà biết. Lúc ấy Tôn giả Nan-đà liền
thành A-la-hán. Ðã thành A-la-hán rồi, Tôn giả liền từ chỗ
ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi
một bên. Tôn giả Nan-đà bạch Thế Tôn:
-
- Thế Tôn trước hứa
sẽ chứng cho đệ tử năm trăm thiên nữ, nay con xin bỏ hết.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Nay Thầy sanh tử
đã dứt, Phạm hạnh đã lập. Ta sẽ bỏ lời hứa.
-
Thế Tôn liền nói
kệ:
-
Nay Ta thấy Nan-đà,
-
Tu hành pháp Sa-môn
-
Các ác đều đã dứt,
-
Ðầu đà không có
mất.
-
Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Người đắc
A-la-hán, nay là Tỳ-kheo Nan-đà. Không dâm, nộ, si cũng là
Tỳ-kheo Nan-đà.
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
8. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Thích-si-sấu, Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-lưu cùng
chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.
-
Bấy giờ Ðại Ái Ðạo
Cù-đàm-di, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi bạch Thế Tôn:
-
- Mong Thế Tôn hằng
giữ gìn mạng sống để giáo hóa lâu dài cho bọn ngu tối.
-
Thế Tôn bảo:
-
- Cù-đàm-di, chớ
nên nói lời này với Như Lai. Thọ mạng của Như Lai vô cùng, Ta
hằng giữ gìn mạng này.
-
Bấy giờ Ðại Ái Ðạo
Cù-đàm-di liền nói kệ:
-
Thế nào lễ tối
thắng,
-
Thế gian không ai
bằng?
-
Dứt được tất cả
nghi,
-
Cho nên nói lời
này.
-
Thế Tôn lại dùng kệ
đáp:
-
Tinh tấn ý khó
thiếu,
-
Hằng có tâm dũng
mãnh,
-
Bình đẳng nhìn
Thanh văn,
-
Ðây tức lễ Như Lai.
-
Bà Ðại Ái Ðạo bạch
Thế Tôn:
-
Từ nay về sau con
sẽ lễ Như Lai. Nay Như Lai dạy lễ tất cả chúng sanh không có ý
thêm, bớt. Trên Trời, loài Người, và A-tu-la, Như Lai là tối
thượng.
-
Thế Tôn hứa khả lời
bà Ðại Ái Ðạo nói, bà liền từ chỗ ngồi đứng lên, lễ Phật rồi
lui đi.
-
Thế Tôn bảo các
Tỳ-kheo:
-
- Ðệ tử hiểu rộng
biết nhiều bậc nhất trong hàng Thanh Văn của Ta là Ðại Ái Ðạo.
-
Các Tỳ-kheo nghe
Phật dạy xong, vui vẻ nâng làm.
-
9. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai hạng người
này ở trong chúng Như Lai mà lại khởi lên sự phỉ báng. Thế nào
là hai người? Là pháp sai nói là pháp đúng; nói pháp đúng là
pháp sai. Ðó là hai người phỉ báng Như Lai.
-
Lại có hai người
không phỉ báng Như Lai. Thế nào là hai? Nghĩa là pháp sai (phi
pháp) nói là pháp sai, pháp đúng (chân pháp) nói là pháp đúng.
Ðó là hai người không phỉ báng Như Lai. Thế nên, các Tỳ-kheo,
pháp sai hãy nói là pháp sai, pháp đúng hãy nói là pháp đúng.
Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
-
10. Tôi
nghe như vầy:
-
Một thời Phật ở
nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
-
Bấy giờ Thế Tôn bảo
các Tỳ-kheo:
-
- Có hai hạng người
gặt hái được phước vô lượng. Thế nào là hai? Với người đáng
khen ngợi thì khen ngợi, người không đáng khen ngợi thì không
khen ngợi. Ðó là hai người được phước vô lượng. Lại có hai
người chịu tội vô lượng. Thế nào là hai? Nghĩa là người đáng
khen ngợi lại phỉ báng, người không đáng khen ngợi mà lại khen
ngợi. Các Tỳ-kheo, chớ học điều này!
-
Bấy giờ các Tỳ-kheo
nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
- --o0o--
|
|